Tượng bán thân nữ văn hào Harriet Beecher Stowe, tại Sảnh
Vinh danh Vĩ nhân Mỹ.
Được biết đến nhiều nhất về một tiểu thuyết về chế độ nô lệ
–Uncle Tom’s Cabin (Túp Lều của Chú Tom), xuất bản năm 1852 – tác
giả Harriet Beecher Stowe, nhà văn người Mỹ gốc Âu tích cực ủng
hộ chủ nghĩa bãi nô. Tác phẩm này công kích sự tàn bạo của chế độ nô lệ; tác phẩm
đến với hàng triệu người trong dạng tiểu thuyết và kịch nghệ, gây ảnh hưởng lớn
ở Vương quốc Anh, làm sáng tỏ các yếu tố chính trị trong thập niên 1850 về vấn
đề nô lệ đối với hàng triệu người, cũng như củng cố phong trào bãi nô ở miền Bắc,
nhưng lại khiến miền Nam phẫn nộ. Tổng thống Abraham Lincoln tóm tắt ảnh hưởng
của tác phẩm này khi tiếp kiến Stowe, đã nói, "Vậy ra bà chính là người
phụ nữ nhỏ bé đã viết cuốn sách gây ra cuộc chiến vĩ đại này!" Bà cũng
đã viết nhiều truyện ngắn.
Câu chuyện được giới thiệu sau đây được trích từ tập truyện
mang tên Flowers on The Snow (Những đóa hoa
trên tuyết)
*
Cây hoa hồng mộc mạc đơn sơ ấy đang ngự trong một chiếc bình
trong suốt màu xanh lá cây như chiếc lá mùa xuân, và bao quanh là giá đỡ bằng gỗ
mun xinh đẹp, được đặt trước cửa sổ phòng khách. Nụ hoa hồng thật bình dị, ở giữa
bức màn bằng lụa là sang trọng với vải rìa mịn như tơ, và quanh đó là những vật
quý hiếm đắt tiền do bàn tay người chủ nhà giàu có trang trí, nhưng cành bông hồng
đơn giản là vật đẹp nhất giữa tất cả những thứ quyền quý cao sang ấy.
Thật thuần khiết, trinh nguyên, với những cánh hoa màu trắng,
hơi nhuộm một màu son nhẹ, tràng hoa tròn, phần trên hoa hơi nghiêng, như thể sẵn
sàng hòa vào thân cây!
Ôi! Thật là một sản phẩm quá hoàn hảo từ bàn tay con người
tác tạo nên!
Nhưng tia nắng xuyên qua những tấm rèm này đang chiếu sáng một
nét đẹp tuyệt trần hơn cả hoa hồng. Nằm trên chiếc ghế trường kỷ, trong một góc
tối và đang say sưa đọc sách, một mỹ nhân với vẻ đẹp tươi mát sánh ngang với
bông hoa xinh xắn kia. Gương mặt sáng hồng, vầng trán thông minh, diện mạo
xinh đẹp này biểu hiện suy nghĩ sâu sắc nhất, đôi hàng mi dài, đôi môi tỏ nét
nghiêm túc, nhưng dịu dàng và nhẫn nhục, toàn bộ nét hoàn mỹ ấy, đó là một ước
mơ về cái đẹp thật lý tưởng.
– Florence! Florence! – Một tiếng gọi vui vẻ du dương như tiếng
nhạc vang lên, rồi lập lại, có vẻ nóng lòng.
Bạn hãy quay đầu lại đi, bạn sẽ nhìn thấy một cô bé tươi trẻ,
hoạt bát, điển hình cho sức sống của con trẻ với đôi mắt linh hoạt, đôi chân nhảy
nhót, lướt nhẹ trên thảm, và một nụ cười với vô số lúm đồng tiền như thể hai
mươi nụ cười đang tụ lại cùng lần trong một nụ cười.
– Florence này! – Cô bé tinh nghịch nói, – Hãy để cuốn
sách hay tuyệt đầy cả những ý nghĩ của nhà hiền triết ấy qua một bên đi, và hãy
nói chuyện với một con bé chán ngắt tội nghiệp này chị ạ. Em đang suy nghĩ
không biết nàng sẽ làm gì với cây hồng khi mà chị rời khỏi nơi này, bởi vì đó
là quyết định của chị; thật là hoài phí khi cây hoa ấy lại được giao lại không
đúng người như em. Em rất thích nhiều loại hoa, nhưng mà phải là hoa được trình
bày đẹp đẽ nghệ thuật thành bó hoa để mang đến những buổi dạ hội cơ, chứ nói đến
việc chăm sóc cẩn thận thì em không thể có năng khiếu đó đâu chị ạ.
– Đừng lo âu về vấn đề ấy, Catherine yêu quý ạ. – Florence
trả lời với nụ cười tươi tắn. – Chị không có ý để em thực hành tài năng của
mình đâu: chị đã có một nơi an toàn cho cây hoa quý báu của chị rồi.
– Ồ, vậy chắc chị đã đoán được em muốn nói ai rồi phải
không? Bà Marshall đã gặp chị rồi sao; hôm qua bà đã đến, và em đã cho bà biết
rằng chị sẽ rất buồn khi phải rời xa vật báu của chị, và bà nói là sẽ rất vui thích
mang cây hoa vào trong nhà kín của bà. Cây hoa đang rất sung mãn, bao nhiêu là
nụ sắp bung nở ra rồi! Và em đã nói thêm rằng chị sẽ rất an tâm khi giao
hoa cho bà; và em biết chị cũng rất thích bà Marshall.
– Rất tiếc, Catherine, nhưng chị đã muốn làm khác đi, em ạ.
– Ủa, vậy chỉ muốn nói đến ai vậy? Ở đây chị đâu có nhiều bạn
thân đâu.
– Bởi vì đôi khi tính khí của chị hơi khác thường một chút
em ạ
– Nói cho em biết
ai vậy chị.
– A, em biết rồi
mà, đó là cô bé có gương mặt trắng xinh đó, người mà thường giúp chúng ta những
việc vặt.
– Vậy sao? Cô bé
Mary Stephens ư? Thật là điên rồ! Florence à, đây lại thêm một ý tưởng già nua
trước tuổi của chị đó: may áo búp bê cho trẻ em nghèo khổ, đan nón và vớ cho tất
cả bọn trẻ bẩn thỉu trong làng. Em nghĩ là chị thường đến thăm những nơi dơ bẩn,
những con đường hôi hám ở phía sau nhà ấy nhiều hơn là đến đường Chestnut, ở đó
biết bao nhiêu người chờ đợi chị; rồi còn chưa hết sao, chị lại còn đem tặng
viên ngọc quý thiên nhiên này cho một người thợ may trong khi mà một người bạn
thân ngang hàng cùng lứa với chị sẽ rất hân hoan đánh giá thật cao việc ấy. Thế
em hỏi chị những bọn người ấy có nhu cầu gì về hoa kia chứ?
– Họ cũng cần hoa
như chị thôi em ạ. – Florence ôn tồn trả lời.
– Em có để ý rằng
không lúc nào cô bé đến đây mà không liếc nhìn một cách thèm thuồng vào các nụ
mầm hàm tiếu hay sao? Em có nhớ cô bé đã hỏi một cách rất nhã nhặn thương
tâm rằng bé có thể đưa mẹ đến để xem cây hoa của chị bởi vì mẹ của bé rất yêu
hoa không?
– Này, hãy suy
nghĩ đi, Florence, một bông hoa quý hiếm trên một cái bàn, giữa nào là thịt, trứng,
bột bèo, bị giam hãm không có khí trời trong căn phòng chật hẹp ấy,
nơi mà bà Stephens giặt giũ, lau chùi, nấu nướng, rồi còn bao nhiêu việc khác nữa...!
– Kate à! Nếu
như chị phải ở trong một căn phòng chung chật hẹp, rồi làm đủ thứ việc lau chùi
rửa dọn như em nói, nếu như chị phải làm việc tất bật trong nhiều giây phút suốt
một ngày trời của chị, cảnh vật duy nhất là bức tường gạch, một căn phòng bức
bí, thì một nụ hoa như thế sẽ là một niềm vui vô biên đối với chị.
– Florence ơi, chị
thật là đa cảm; những người nghèo họ không có thì giờ đâu! Hơn nữa, em
không nghĩ là nụ hoa sẽ sống lâu ở nhà họ, đây là một loại hoa cần chăm sóc đặc
biệt, và phải có môi trường phù hợp nữa.
– Chuyện đó thì
không đúng đâu em, một bông hoa không cần biết đến người chủ là giàu hay nghèo,
và ánh dương chiếu vào phòng của bà Stephens cho dù qua khung cửa sổ rách
nát đến đâu thì cũng toả sáng và ấm cúng như tia nắng xuyên qua cửa sổ
của chúng ta đây thôi. Thượng đế rất quang minh, không phân biệt bất cứ
người nào em ạ. Rồi em thấy hoa cũng sẽ xinh tươi như khi ở trong nhà chúng ta
thôi.
– Em nghĩ thật là
kỳ lạ, nếu muốn tặng cho người nghèo, thì hãy nghĩ đến những thứ mà họ rất cần
như thức ăn, áo quần, chị thấy không?
– Có thể, nhưng
khi đã tặng họ những thứ như thế rồi, tại sao ta không thêm một
chút gì đó thật thú vị? Chị biết có những người bần cùng trước đó vẫn
có những tình cảm về thiên nhiên, nhưng khi họ không còn ngay cả những thứ tối
thiểu cho cuộc sống thì những suy nghĩ thanh cao ấy cũng thui chột mất
đi. Như bà Stephens, mỗi khi nhìn thấy những đồ vật xinh xắn, như hoa,
chim muông, nghe được nốt nhạc lãng mạn, bà cũng xao xuyến như chị thôi, nhưng
vì không có phương tiện nên bà dành chấp nhận tất cả những thứ xoàng xĩnh xấu
xí.
– Em có nhớ bà ấy
rạng rỡ như thế nào khi chị tặng cho con của bà cái nón len viền giải ruy băng
thật đẹp, và bà ấy đã cực nhọc nhiều ngày để may một cái áo xinh xắn cho ngày rửa
tội của bé không? Chị nghĩ rằng khi nhận món quà xinh ấy, bà ấy sẽ mãn
nguyện hơn khi được nhận một bao gạo hoặc bột, em à
– Chúa ơi, tất cả
những điều này có thể là sự thật, nhưng em chưa bao giờ nghĩ đến điều đó, em
chưa bao giờ nghĩ rằng những người làm việc cực nhọc như thế lại có thể có một
chút ý tưởng về khiếu thưởng thức và nét đẹp chị ạ.
*
Trong một căn
phòng rất nhỏ, ánh sáng chỉ lọt qua khung cửa sổ duy nhất, sàn lát gỗ không có
thảm, trong góc là chiếc giường màu trắng, trên bàn có vài món thức ăn bày
trên đĩa không đồng bộ; và trên bệ cửa sổ là cây anh đào đựng trong hộp
nhỏ, là vật sáng sủa duy nhất.
Một người phụ nữ
nhợt nhạt và ốm yếu đang ngả lưng trên một chiếc ghế dài cũ kỹ, mắt nhắm và đôi
môi co lại vì đau đớn. Cô xoay mình trong vài phút, để tay lên mắt, rồi cô tiếp
tục một cách uể oải công việc mà cô bắt đầu từ sáng. Cửa mở toang ra, và một cô
bé mảnh mai khoảng mười hai tuổi bước vào, đôi mắt xanh thẫm thật hân hoan vì
vui thích, trên tay là chậu đựng cành cây nhỏ mà họ hằng ao ước.
– Mẹ ơi, hãy xem
nè! Một cái thì nở rồi, còn hai nụ sắp bung ra đây mẹ, rồi bao nhiêu là cành
giâm đang nhô lên, thấy không mẹ!
Gương mặt
bà mẹ rạng rỡ hẳn lên khi nhìn vào cây hoa, rồi lướt đến vẻ mặt của con
gái mà từ rất lâu rồi bà chưa thấy ánh lên niềm vui ngập tràn như thế.
– Xin Thượng Đế
ban ơn lành cho cô ấy! Bà mẹ vô tình thốt lên.
– Cô Florence phải
không mẹ! Tất nhiên rồi mẹ ạ, con biết thế nào mẹ cũng nghĩ về cô ấy. Mẹ cảm
thấy thật nhẹ nhàng sảng khoái khi nhìn đóa hoa phải không mẹ? Giờ đây thì mẹ
không cần phải nhìn ngắm một cách thèm thuồng bao nhiêu là hoa hồng ở chợ nữa,
vì cây hồng này đẹp tuyệt vời hơn hẳn tất cả những đóa hoa mà ta đã
trông thấy từ xưa nay phải không mẹ? Bao nhiêu là nụ, rồi còn mùi thơm nữa! Bây
giờ mình đặt nó ở đâu nhỉ?
Rồi cô bé vừa nhảy
nhót vừa đặt cây hoa chỗ này, rồi thụt lùi để ngắm, rồi lại mang đặt nơi khác,
cứ thể cho đến khi mẹ bé bảo rằng hoa chỉ sống và trở nên xinh đẹp khi có ánh mặt
trời.
– Cô Florence thật dễ thương
biết chừng nào phải không mẹ? Cô ấy đã tặng chúng ta bao nhiêu là quà, nhưng
con nghĩ món quà này là đẹp nhất!
Rồi bà Stephens
quên hẳn đi những lo âu và bệnh hoạn của mình khi nhìn thấy con gái hạnh phúc
như thế.
Florence không thể
nào ngờ rằng, khi cô tặng món quà này, một sợi chỉ vô hình được dệt từ đó để định
mệnh của cô được hình thành.
*
Vào một buổi chiều
mùa đông lạnh giá, một người kỵ sĩ cao lớn thanh lịch đến ngôi nhà của hai mẹ
con cô bé để nhân bộ áo quần anh đã nhờ họ may sửa. Anh là một người từ
nơi khác đến, được vài người quen giới thiệu công việc của bà Stephens. Anh ta
đang chuẩn bị bước ra cửa, bỗng nhìn thấy cây hoa hồng và nhìn ngắm một cách
thích thú.
– Cây hoa mới đẹp
làm sao! – Anh buột miệng thốt lên.
– Dạ vâng thưa
ông, cô bé Marie trả lời, đó là quà của một tiểu thư cũng xinh đẹp yêu kiều như
cánh hoa cô tặng mẹ con cháu đó ạ.
– À vậy
sao!
Người lạ mặt nói,
vừa nhìn cô bé bằng đôi mắt đen sáng với vẻ mặt vui mừng và kinh ngạc.
– Và tại sao cô ấy
lại tặng cho bé, hở cô bé nhỏ xinh?
– Bởi vì mẹ con
cháu rất nghèo và mẹ cháu bị bệnh, và mẹ sẽ không thể mua được một bụi hoa hồng
đẹp như vậy. Mẹ và cháu trước đây đã có một khu vườn, và cả mẹ và cháu đều rất
yêu hoa; cô Florence biết được điều này, và cô ấy đã tặng bông hồng cho mẹ
cháu.
– Florence ư? –
Người thanh niên hỏi lại.
– Vâng, cô
Florence l'Estrange, một cô gái rất xinh đẹp. Người ta bảo cô ấy không phải là
người ở thành phố này; tuy nhiên, cô ấy nói tiếng Anh giống như những người phụ
nữ khác, nhưng giọng nói nhẹ nhàng hơn.
– Bây giờ cô ấy
còn sống ở đây không? ở thành phố này? – Ông ấy tiếp tục hỏi.
– Thưa không ạ,
cô ấy đã đi nơi khác được vài tháng, bà góa phụ trả lời, bà vừa nhận thấy nét mặt
đăm chiêu thất vọng của vị khách.
Nhưng rồi bà nói
thêm:
– Ông có thể biết
được tin tức về cô ấy đây ạ. Địa chỉ nhà dì của cô ấy là ... số 10 đường...
Và sau đó,
Florence nhận được một lá thư, khi nhìn thấy nét chữ viết, cô thật xao xuyến.
Trong những năm đầu
của thời thơ ấu, khi cô cùng gia đình cư ngụ ở Pháp, cô đã quen thuộc với nét
chữ này. Cô ấy đã yêu như một người phụ nữ như cô biết yêu – chỉ một lần.
Nhưng quá nhiều trở ngại từ người thân, bạn bè, sự chia cách lâu dài, nhiều năm
đau khổ đã trôi qua, đến nỗi cô tin rằng đại dương đã khép lại giữa cô và đôi
tay yêu quý này; và đó là lý do tại sao khuôn mặt diễm kiều của cô lại mang những
nét hằn vì buồn đau.
Nhưng bức thư này
cho cô biết rằng anh vẫn ở gần đây, rằng anh đã tìm ra được cô và theo bước
chân của cô, như người ta phát hiện ra lòng sông có nước trong suốt và tinh khiết
lâu ngày đã bị cây xanh che khuất, khi anh dõi theo bao nhiêu việc
từ thiện cô đã gieo trên mọi nẻo đường, và rằng cô là thiên thần của bình an và
hạnh phúc.
… Và có lẽ đoạn kết
của câu chuyện thần tiên này đã thật thơ mộng, phải không ạ?
Harriet Beecher Stowe