17 June 2023

CÙNG VỚI THƠ DZẠ LỮ KIỀU - Hoàng Thị Bích Hà

Hè năm nay, anh tặng tôi một số tập thơ đã xuất bản và những tập thơ chỉ in để dành tặng bạn bè và bạn đọc tri âm. Tôi rất vui khi được anh gửi gắm những đứa con tinh thần của mình, tôi bắt đầu nghiền ngẫm thơ anh như đi vào “thế giới chữ nghĩa” của anh, là lần theo những cảm xúc của anh để tìm hiểu về một hồn thơ đậm chất đời và chất hào sảng, phong sương của lính.

Khi anh có thơ đăng trên báo chí thì tôi còn oe oe khóc trong nôi. Có lẽ cùng thời với anh đã có nhiều cây viết đồng hành cùng với những vui buồn trong đời thơ anh. Tôi chỉ là kẻ hậu sinh, xin ghi lại những những nhận định của mình theo góc nhìn của một người đọc yêu mến văn chương, cũng là tấm lòng của hậu bối đối với bậc đàn anh trong giới cầm bút. Đó cũng là lòng trân trọng biết ơn của người đi sau đối với người đi trước với những lao động nghệ thuật đáng quý. Bởi người viết cũng như người thư ký của thời đại, thông qua tiếng lòng của họ, ít nhiều người đọc sẽ hiểu được những vui buồn của phận người gắn với những vui buồn nhân thế, của thời đại mà họ đã sống và trải nghiệm.

1. Vài nét về tiểu sử văn học của Dzạ Lữ Kiều

Nhà thơ Dzạ Lữ Kiều tên thật là Trần Xuân Thái. Anh sinh năm Quý Mùi tại Hương Trà, Thừa Thiên Huế. Anh học hành và trưởng thành tại Huế. Anh bước vào văn giới cùng thời gian anh bước vào đời lính. Tuổi trẻ của anh cũng như bao thanh niên cùng thời lên thác xuống ghềnh, hành quân, áo trận…sau 1975, anh rời quân ngũ và đi vùng kinh mới, những bộn bề cơm áo với những khó khăn chung của đất nước thời hậu chiến …Những trải nghiệm đó là chất liệu làm nên thi ca đẫm chất đời và chất lính của Dzạ Lữ Kiều.

Hiện tại anh sống và viết tại Buôn Mê Thuột, gia đình êm ấm với người vợ hiền chung thủy và những đứa con ngoan.

Những sáng tác trước 1975: Thơ đăng các báo: Văn, Thời Nay, Chọn Lọc, Thứ Tư Tuần San, Thẫm Mỹ, Chánh Đạo, Tia Sáng… bằng những bút danh khác như: Dzạ Trầm Thảo, Hương Văn.

Sau 1975: Tiếp tục cộng tác với các báo trung ương và địa phương:

Các tác phẩm đã xuất bản:

- Giọt Huế Mưa, Nxb Hội nhà văn 2007

- Giọt Mắt Đắng, Nxb Văn Nghệ 2009

- Giọt Sương Khuya, Nxb Hội nhà văn quý III /2012

- Giọt Nắng Phai, Nxb Hội nhà văn, quý IV/2015

- Giọt Tình Quê, Nxb Thuận Hóa 2019

Thơ, truyện ngắn in riêng dành tặng người thân và bạn đọc tri âm:

- Lời Gió Chướng, 2022

-Tạ Từ Phượng Vỹ

- Tập truyện ngắn: Bến Đời

-Tuyển tập thơ: Những Bước Chân Thầm

Góp mặt trong hơn 15 tác phẩm với các tác giả thơ Việt Nam đương đại, có nhiều bài thơ đã phổ nhạc và cũng đã gặt hái được một số giải thưởng đáng ghi nhận (xem bìa 3 tập thơ Những Giọt Sương Khuya, Nxb Hội nhà văn quý III/2012)

Tôi đã được đọc trên bốn trăm bài thơ của anh trong các tập thơ nói trên. Cho thấy tiếng lòng của thi nhân với cuộc đời, với tình yêu. Đó là những dòng cảm xúc chân thành thông qua câu chữ để anh gửi gắm nỗi niềm được diễn đạt bằng ngôn từ bình dị mang âm hưởng xứ Huế, giàu sắc thái tình cảm. Những vần thơ tha thiết tình người, tình đời và rất đỗi chân thành. Ngọt ngào, lãng mạn trong tình yêu, đầy tình nghĩa với người thân, bạn hữu. Khắc khoải ưu tư với nỗi buồn nhân thế và cũng nhiều chiêm nghiệm qua thăng trầm dâu bể của đời người. Được thể hiện phong phú bằng nhiều thể loại thơ như: lục bát truyền thống, thơ tự do, thơ ngũ ngôn, lục ngôn, thất ngôn, thể loại thơ văn xuôi… Ở thể thơ nào anh cũng tỏ ra rành trong cách gieo vần lập tứ và có chiều sâu trí tuệ. Bằng bút pháp hiện thực và lãng mạn. Hầu hết các sáng tác của anh được bắt nguồn từ cảm hứng trữ tình, đôi khi có cả cảm hứng tự sự, khi tách bạch, khi đan xen thật hài hòa cân đối khiến thơ anh neo lại trong lòng bạn đọc với những ấn tượng đẹp.

2. Thơ Dzạ Lữ Kiều là là nỗi lòng nhớ nhung khắc khoải của người con xa Huế.

Đó là những vần thơ chất chứa tình yêu, là tấm chân tình anh dành riêng cho Huế. Bởi Huế đối với anh là cả những ân tình sâu nặng đầy da diết nhớ mong đã in sâu vào tâm khảm, là những ký ức ngọt ngào. Những địa danh, danh lam thắng cảnh của Huế như sông Hương, cầu Trường Tiền, Vĩ Dạ, Chùa Từ Đàm, dốc Nam Giao, Đại Nội luôn hiện diện trong thơ anh. Ở đó đầy ắp cả khung trời kỷ niệm.

“Ta theo em về bến đò xưa

Một thời đầy ắp tuổi mộng mơ”

(Bến xưa-Giọt tình phai)

Dù có đi chân trời góc bể, tâm tư anh vẫn luôn nghĩ về Huế, tâm hồn anh vẫn Huế vương mang:

“Ta…

Rời xa Huế

Rồi em

Câu thơ ở lại

ủ mềm lối xưa

gặp em

Một buổi chiều mưa

Bàn tay bịn rịn bên bờ Hương Giang”

(Chào M- Giọt nắng phai)

Có thể nói Huế là nguồn cảm xúc không bao giờ vơi cạn trong hồn thơ Dzạ Lữ Kiều. Những vần thơ nặng lòng với Huế chiếm phần lớn trong các sáng tác của anh. Đúng như niềm tâm sự thao thiết của anh gửi vào thơ:

“Ôi Huế bao mùa ta xa nhớ

Làm sao nói hết những ân tình”

(Nhớ- Giọt nắng phai)

Nỗi nhớ Huế trong anh luôn trỗi dậy bật ra thành cảm xúc và tràn cả vào thơ rồi lan sang bạn đọc.

“Bỗng dưng ta nhớ Huế lạ lùng

Nhớ mái trường xưa nhẹ bước chân

Nhớ tà áo trắng chiều tan học

Nhớ mái tóc thề theo gió vươn”

( Nỗi nhớ-Giọt nắng phai)

Anh lập nghiệp ở vùng đất cao nguyên, có thể nói gia đình anh đã bén rễ ở đây. Anh cũng đã quen với đại ngàn nắng gió. Vùng đất nơi đây cho quả ngọt trái sai để cho những cuộc đời tha hương như anh giờ có thể gọi là “no cơm ấm cật”. Anh cũng đã yêu vùng đất mới này với những đặc điểm rất riêng: hoa cà phê bạt ngàn và âm vang tiếng cồng chiêng ngân dài trong gió. Nhưng có lẽ Huế vẫn là cõi nhớ trong anh không gì thay thế!

Huế của anh gắn với những kỷ niệm thật ngọt ngào và lãng mạn. Huế vẫn là giấc mơ đẹp ngày về:

“Ước được ngày về… thăm Cố Đô

Dìu em gái Huế nón bài thơ

Qua cầu e ấp tà áo tím

Cà phê Thành Nội mãi ngóng chờ”

(Cà phê nhớ- Giọt nắng phai)

Huế trong anh là nhịp đập trái tim, là hơi thở, là lẽ sống. Tim thì phải luôn gõ nhịp để duy trì sự sống thì theo anh sống là để nhớ thương Huế không nguôi:

“Một đời ta thương Huế

Như nhịp đập trái tim”

(Huế thương- Giọt sương khuya)

"Ân tình Huế đã bao năm dồn nén

Xa thật rồi! Nhưng đọng mãi trong tim”

(Lưu tình- Giọt sương khuya)

Quê hương Huế gắn liền với những kỷ niệm của một thuở đầu đời. Ở đó thấp thoáng hình bóng giai nhân từng làm rung động con tim thời trai trẻ của Dzạ Lữ Kiều, năm tháng trôi đi trong lớp bụi thời gian nhưng vẫn trở thành những kỷ niệm khó phai.

“Niềm thân ái dấu hoài rất có thể

Khung trời xưa mấy ai dễ kiếm tìm

Từ muôn kiếp ta gắn liền duyên nợ

Thì dễ gì năm tháng đã quên tên”

(Đoản khúc yêu- Giọt nắng phai)

Thuở tan trường một thời chung bước, nụ cười, ánh mắt của người xưa tưởng chừng ngủ yên trong tâm khảm trên bước đường dạn dày sương gió. Nhưng mỗi lần trở lại Huế thì những kỷ niệm lại ùa về với những hình ảnh thân quen: nét buồn trên mi, tà áo dài, ánh mắt đó lại vấn vương khi đặt chân lên những lối đi quen.

“Về quê nhặt nụ Huế buồn

Từ em đánh rớt cuối đường ngày xưa

Thuở còn những buổi đón đưa

Sân trường Đồng Khánh ai chờ đợi ai?”

(Huế và em - Giọt nắng phai)

Tình yêu dành cho Huế chất chứa trong lòng anh. Tôi có cảm giác là với anh thì những cảm xúc dồn nén chỉ chờ có dịp là tuôn trào lên câu chữ để thành thơ. Bởi Huế là quê hương xứ sở, nơi đó có người thân, bạn bè tri âm. Đặc biệt ở đó có mối tình trong trắng thơ ngây của tuổi học trò, không dễ gì quên.

“Một thời mộng ước song đôi

Dìu em đi giữa khung trời Huế thương

Áo dài soi bóng dòng Hương

Đường vô Thành Nội nắng vương tóc thề”

(Một mình dưới trăng- Giọt sương khuya)

Những kỷ niệm thuở nào nằm yên trong ký ức chợt thức dậy khi có tứ thơ đẹp để anh có những câu thơ đầy rung cảm, lưu lại trong lòng người đọc nhiều cảm xúc:

“Đưa em về…còn mưa bay

Ngồi sau xe ấm vòng tay

Mượn bờ môi chạm nhẹ

Mới hay tình đã đong đầy”

(Đưa em về …đêm mưa- Giọt nắng phai)

-“Ta một đời lãng tử

Từng sợi tóc vờn bay

Nhưng trong tim yêu Huế

Thao thiết đến từng ngày”

(Màu tím tôi yêu- giọt nắng phai)

Mối tình đầu bao giờ cũng vậy, rất ngọt ngào nhưng cũng lắm đắng cay, không phải cứ tình yêu nào cũng đơm hoa kết trái. Những mối tình thời son trẻ thường dang dở không thành:

“Thời gian trầu đã bén vôi

Cau tôi chưa trổ nụ phơi nắng hè

Thế rồi em bỏ sông quê

Bến tình tôi đứng bên đê ngóng chiều”

(Kỷ niệm xa rồi- Giọt tình quê)

Anh dùng những động từ như: vói, nhặt, ép, hong, treo... rất cụ thể bên cạnh những danh từ trìu tượng kết hợp một cách khéo léo với những thi liệu: cánh phượng hồng, lưu bút, nỗi nhớ làm cho câu thơ giàu hình ảnh và có giá trị biểu đạt cao.

“Vói tay nhặt

Cánh phượng hồng

Ép vào lưu bút

Để hong cuộc tình

Em chừ qua ngõ lợi danh

Ta treo nỗi nhớ

lên cành phượng khô”

(Khúc tình cuối hạ- Giọt tình quê)

Đi qua những cuộc tình không vẹn, trong dâu bể đời người. Anh có nhiều trải nghiệm, hay nói cách khác là vốn sống. Có ai đó nói rằng “hãy sống rồi mới viết”. Nghiệm lại thấy đúng, những kinh nghiệm sống, những trải nghiệm trên đường đời cùng với năng khiếu thiên bẩm để thi nhân có những bài thơ hay, câu thơ hay đầy chiêm nghiệm và có tính triết luận nhẹ nhàng:

“Tình yêu như bóng qua cầu

Nào ai giữ được bền lâu cho mình”

(Tình ảo- Giọt nắng phai)

Vâng! Khi chúng ta ý thức được điều đó thì sẽ sớm lấy lại thăng bằng mỗi khi gặp trắc trở sóng gió trên đường đời. Đến và đi, mọi việc tùy duyên thôi! Nỗi buồn xin gửi vào thơ cho nhẹ lòng mà đứng lên, bước tiếp.

“Sông đời nước biếc trôi mau

Sông tình ai biết ngày sau mà lường

Em theo lộng tía tha phương

Tôi đứng bên đường nhìn ánh chiều phai”

(Nhìn cánh phượng rơi- Giọt tình quê)

Anh có những câu thơ thật buồn mà đẹp:

“Tre buồn oằn bóng nước xao

Tưởng chừng kỷ niệm quất vào tim tôi

Khi em bỏ lại cuộc chơi

Về chân trời tím ru lời hắt hiu”

(Về lối Hạ- Văn xá, Thừa Thiên Huế)

-“Em chừ trốn mãi nơi đâu

Để ta tìm kiếm gầy hao mắt tình

Phải chi em đứng một mình

Để ta thấy được bóng hình ngày xưa”

(Tháng tư về- Lời gió chướng)

Anh cũng hé lộ cho chúng ta biết một lý do để cuộc tình khộng trọn là:

“Tôi vào quân ngũ em biền biệt xa

Đêm chiến tuyến - ánh sao xa

Để rồi nỗi nhớ nhạt nhòa từng đêm

Đường hành quân cứ liên miên”

(Chuyện tình bên sông- Giọt sương khuya)

Đặc biệt hơn hết anh dành những câu thơ đầy ân tình sâu nặng cho đấng sinh thành của một người con chí hiếu. Anh thấu hiểu những hi sinh thầm lặng, những vất vả lo toan, của cha mẹ tảo tần nuôi dưỡng con cái nên người, nhất là trong thế cuộc tao loạn, vất vả biết chừng nào của song thân. Và anh tự trách mình nơi xa xôi chưa đáp đền ân nghĩa.

“Đời cha gian khổ nhiều rồi

Con chưa báo đáp được lời nghĩa ân

Thân cha nào kể ngọt bùi

Bao nhiêu nước mắt nuốt trôi vào lòng

Miếng cơm khi đói nhường con

Cũ rừng thiếu bữa bào mòn xác thân

Vẫn mong con vững đôi chân

Bước trên gian khó những lần ngã đau”

- “Lời cha vời vợi Thái Sơn

Nuôi con không kể nỗi buồn gian lao

Mặc trời mưa nắng dãi dầu

Gót chân nứt nẻ, đồng sâu cấy cày”

(Ơn cha- Giọt nắng phai)

Những vần thơ dành cho mẹ cũng thật cảm động:

“Chiều đông mưa rả rích buồn

Nhớ sao cái thuở tan trường tuổi thơ

Mạ lóng ngóng chiếc áo mưa

Chờ con ra lớp- giờ trưa đón về”

(Tuổi thơ& Mẹ- Lời Gió Chướng)

Giờ đây mẹ đã phất tay rũ áo về trời nhưng hình bóng mẹ vẫn in đậm trong tim thi nhân với những kỷ niệm đầy ắp tình mẫu tử:

“Mẹ giờ ở cõi u minh

Con nào hiểu được ân tình sẻ chia

Chỉ còn đây mảnh trăng khuya

Là hình bóng mẹ hiện về ru con”

(Vầng trăng mẹ- Giọt nắng phai)

Huế vẫn đây mà người thân đấu tá? Hình bóng mẹ hiền không còn chờ con bên hiên nhà nữa! Mẹ đã về miền viên miễn! Cảm giác đơn côi của đứa con không còn mẹ (dù ở độ tuổi nào) thì mất mẹ là một nỗi mất mát lớn không gì bù đắp nỗi. Dẫu biết đời là vô thường nhưng quê hương đây rồi mà mẹ ở đâu? Mẹ không còn thì sự hụt hẩng đến vô cùng, đặc biệt đêm về quạnh vắng, trở mình thức giấc cũng nghe như tiếng kinh thành khóc nức nở. Đó là tiếng lòng thi nhân trong tiếng nấc nghẹ ngào khi nghĩ về mẹ:

“Đêm trở gối nghe kinh thành nức nở

Tưởng tim mình tan vỡ giữa cô đơn

Nhớ sao ngày mẹ hao gầy

Nhường cơm sẻ áo cho bầy con thơ”

(Giọt Huế mưa- Lời gió chướng)

Với người bạn trăm năm anh có những vần thơ đầy ân nghĩa thủy chung: (Thơ đề tặng hiền thê Diệu Linh)

Ngày gặp em…áo tím

Từ thuở còn thơ ngây

Ta yêu em từ đó

Theo ngày tháng nồng say

Nghiệp duyên dài bến đỗ

Dòng Hương biếc vơi đầy”

(Tôi yêu màu tím- Giọt nắng phai)

Nhờ có người vợ hiền chung thủy để tâm hồn anh neo đậu, khi dấn thân trong gió bụi trường chinh và thỏa chí tang bồng hồ thỉ. Và để thả hồn theo con chữ của đời nghệ sĩ mà duyên nghiệp viết lách đã vướng vào anh.

“Phải chăng chút nghĩa đá vàng

Giúp tôi giữ được tiếng đàn ngày xưa

Trăm năm ân nghĩa có thừa

Dìu tôi đi giữa nắng mưa cuộc đời”

(Lạc bến- Giọt sương khuya)

Người lỡ “mắc duyên vào bút mực”(từ dùng của Nguyễn Bính) nhất là người sáng tạo thi ca thường có tâm hồn lãng mạn. Đôi khi thả hồn bay bổng lên tận chín tầng mây, nô đùa cùng các tiên giới hoặc giai nhân trong đời thực (dù chỉ trong thơ). Nên rất cần sự cảm thông và thấu hiểu, sẻ chia của người bạn đời chung thủy. Viết lách âu cũng là nghiệp dĩ văn chương. Nếu tâm hồn không lãng mạn thì không thể sáng tạo được văn chương. “Em” biết điều đó phải không? Nên xin em chớ hờn ghen! Anh có những câu thơ tài hoa mà tôi rất tâm đắc:

“Em trách tôi con tim thường vụng dại

Ngăn chứa nhiều chỉ làm khổ thân thôi

Khi đã biết nợ duyên tình phải trả

Em hãy là bồ tát của lòng tôi”

(Trước bình - Giọt tình quê)

Với tri kỷ anh cũng có những câu thơ hay:

“Mượn em chiếc bóng Paris

Với dòng Seine biếc làm di chứng buồn

Riêng ta chất Huế còn vương

Tỉnh say vẫn giữ con đường “Đế Kinh”

(Uống rượu với bóng- Giọt nắng phai)

Với bạn bè:

- “Trong tôi anh vẫn là người bạn chung thủy

Với nàng thơ dù nghiệp chướng phong ba

Anh vẫn ước giá con đường đầy hoa mỹ

Thì anh- tôi nước mắt đâu có nhòa”

(Bến đò- Giọt nắng phai)

Những lúc rảnh rỗi bạn bè lại bên nhau với tách cà phê chia sẻ vui buồn trong cuộc sống:

-“Mưa chiều ra phố uống cà phê

Hạt đậu tóc phai hạt mi nhòe

Bạn bè mấy đứa còn sót lại

Ngẫm chuyện đời mưa nắng cùng nghe”

(Cà phê nhớ- Giọt nắng phai)

Người lính không quân ấy, trên bước đường lữ thứ mỗi lần nghe tiếng mưa rơi cũng chạnh nhớ quê nhà:

“Nào hay lạc mãi mùa xuân

Trôi theo vận nước xa dần dòng Hương

Ta chừ lang bạt tha phương

Vẫn nghe xa xót đêm buồn Huế mưa”

(Giọt Huế mưa- Lời gió chướng)

3. Dzạ Lữ Kiều- tâm hồn thi nhân trong khí chất người lính

Không thể đem thành bại để luận anh hùng- phận người “trôi theo vận nước”, dù trong hoàn cảnh nào thì hồn thơ anh vẫn đầy nét hào sảng của người lính yêu hòa bình:

“Mà ta chí mỏng, tài trai

Quyết mài gươm để chống loài xâm lăng”

Nước non nặng gánh thề chung

Ra đi thỏa chí tang bồng trời mây”

(Giọt Huế mưa- Lời gió chướng)

“Quê hương ơi!

Nước mắt tuôn

Bao năm rong ruỗi con đường nghẹn đau”

(Giấc mơ trưa hè- Lời gió chướng)

Anh khắc họa thành công chân dung người lính dãi dầu phong sương là thế, mà vẫn hào hoa lãng mạn và rất đỗi ngọt ngào. Bộc lộ qua những vần thơ sau:

“Đâu rồi áo trận đã sờn vai

Giày lính còn lấm bụi đường dài

Mơ về phố thị cùng chung bước

Giọt cà phê, hương ngát bay”

(Cà phê nhớ- Giọt nắng phai)

Ý thơ anh đưa tôi liên tưởng đến câu thơ của Quang Dũng: “Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm”

Chất lãng mạn làm nên vẻ đẹp trong thơ tình của lính:

“Môi em như nụ hồng hàm tiếu

Để hồn tôi ngơ ngẩn suốt canh thâu”

(Chia tay- Giọt nắng phai)

- “Chỉ là ánh mắt em thôi

Sao tim ta đã chơi vơi đỉnh sầu

Huống em tặng nụ hôn đầu

Ta trả mấy kiếp thêm nhàu trái tim”

(Ánh mắt- Lời gió chướng)

Những tháng ngày trong quân ngũ, tình chiến hữu gắn bó thật đẹp, bên câu chuyện tâm tình là những kỷ niệm đẹp khắc sâu vào tâm khảm của nhà thơ- người lính.

“Thôi bỏ hết những ngày vui chưa lớn

Mai đứa về đồng lúa ngọt miền Nam

Đứa ra Trung xứ cằn khô sỏi đá

Để lên non nhận kiếp trâu cày

Hãy ngồi sát nhau hút thêm điếu thuốc

Tàn canh rồi ly rượu mãi chưa vơi”.

(Chuyện quân trường- Lời gió chướng)

Những năm tháng sau này, khi có dịp gặp lại những chiến hữu khi ngồi bên nhau, kỷ niệm lại ùa về. Hãy nghe anh trải lòng vào thơ một thời khói lửa, áo trận, hành quân gắn với đời lính gian truân mà cũng đầy bi tráng:

“Bạn bè nhắc lại chuyện thuở xưa

Rừng già đêm lạnh khúc giao mùa

Ba lô súng đạn trăng chếch bóng

Xào xạc rừng già lá vàng khô”

(Cà phê nhớ- Giọt nắng phai)

Khi đã dấn thân vào quân trường không biết ngày về, đành chấp nhận bỏ lại quê hương, người thương và đối diện với biệt ly.

“Người khoác lên mình màu chiến y

Bỏ lại quê hương nuối tiếc gì

Quân hành tám hướng người rong ruỗi

Tìm thú yên hà- Tống biệt ly”

(Chung thủy- Lời gió chướng)

Tôi chợt liên tưởng đến hình ảnh “Người ra đi đầu không ngoảnh lại” của Nguyễn Đình Thi.

Thi nhân- người lính ý thức được rằng đời lãng tử nay đây mai đó thì khó lòng giữ vẹn câu thề với tình riêng. Lấy vần thơ là điểm tựa, là cứu cánh khỏa lấp nỗi vui buồn. Hãy đến với những câu thơ tài hoa buồn nhưng rất đẹp rung động lòng người của Dzạ Lữ Kiều.

“Đời lãng tử mấy khi tròn ước nguyện

Khúc trăm năm cũng dang dở huống là

Thôi hãy dệt vần thơ chưa trọn

Để trong tim vọng nhớ- tình- xuân- xa”

(Chia tay- Giọt nắng phai)

Tàn cuộc chiến, anh trở lại với cuộc sống với bộn bề cơm áo, những vất vả đời thường của người lính trở về từ hậu chiến . Anh có những câu thơ chiêm nghiệm đầy khắc khoải ưu tư trước thành bại của cuộc đời.

“Đời ta áo trận sờn vai

Giày lính bung gót làm người đốt than

Lục bình ta trôi bơ vơ

Nghiệm đời dâu bể bên bờ đục trong”

(Về một bút hiệu- Giọt nắng phai)

Anh nói với cháu nội hay nói với chính mình:

“Đời ông kẻ sĩ lỡ thời

Lên rừng đốn củi trắng lời ước mơ”

(Đêm mất ngủ- Giọt nắng phai)

-"Bao năm …

Thành phế binh đời

Về đây…chốn cũ ta ngồi đếm mưa”

(Mưa phùn và nỗi nhớ- Giọt nắng phai)

Người thơ biết rõ mình là ai, mình làm được gì cho đời bằng những câu thơ gan ruột:

“Ta không rủng rẻng bạc tiền

Chỉ giàu lời dệt cõi riêng tình người”

( Tình thơ- Giọt tình quê)

Vậy cũng quý rồi thi nhân ơi! Tiền bạc đôi khi chỉ là phương tiện của cuộc sống chứ không phải là tất cả. Có thể có đó và hết đó nên cũng là phù du. Sự giàu có về tâm hồn là điều quý giá hơn, để cuộc sống tinh thần thêm phong phú. Những câu thơ tả thực khiến người đọc cũng quặn thắt lòng khi nhớ về những cơ cực của người thơ sau cuộc chiến, tha hương.

“Từ ngày rời bỏ quê hương

Về kinh tế mới - phượng hồng lỡ quên

Chồng vợ đen đúa gầy gò

Đốt than cưa củi…từng giờ gạo đong”

(Ru đời-vọoc đất)

Hai câu thơ: “Nỗi đời cay cực đang giơ vuốt/ cơm áo không đùa với khách thơ” (Xuân Diệu) quả rất đúng cho hoàn cảnh người thơ lúc này. Nhưng khi nghĩ về cố xứ anh vẫn thầm nguyện cầu cho Huế được bình yên nhất là khi mưa bão lại về.

“Ta người xa xứ đã bao năm

Nhớ hoài trong những chuyến về thăm

Nỗi lòng theo cánh chim mùa bão

Trời yên, biển lặng…nguyện trong tâm”

(Tháng tám bão về- Lời gió chướng)

Tết đến xuân về, nơi xa anh lại càng nhớ da diết:

“Nhặt giùm tôi chút nắng gầy

Bên thềm xuân Huế bao ngày cách xa

Gói thêm vài hạt mưa sa

Để thấm hương vị quê nhà nhớ quên”

(Tết- Giọt sương khuya)

Anh xê dịch nhiều, cứ đi và viết nên những vùng đất nào anh có dịp đặt chân tới đều để lại dấu ấn trong thơ. Những địa danh Sài Gòn và Miền Tây Nam Bộ: Rạch giá, Sa đéc, Đồng Tháp, Hà Tiên đều được anh nhắc đến trong bài thơ dọc đường gió bụi- tập thơ Giọt Nắng Phai.

Tổng kết lại đời mình anh có nhận xét dí dỏm nhưng rất đúng: lãng tử, ngọt ngào, lãng mạn để làm thơ.

- “Tôi lãng tử

thích ngọt ngào

Câu thơ viết tặng ngày đầu mới quen”

(Ví dụ ta quen nhau)

Đã gần hai mươi lăm năm năm nay, anh đã và đang làm biên tập cho tạp chí Vô Ưu. Vì thế được tiếp cận với văn hóa Phật Giáo nên chất thiền ngấm và hồn thơ anh rất rõ nét:

“Đời là một chuỗi vô thường

Có không…không có con đường trải qua”

(Hướng tu-Lời gió chướng)

4. Lời kết

Thơ Dzạ Lữ Kiều được viết ra bởi cảm xúc rất chân thành, tự nhiên bật ra câu chữ nên cách dùng từ của anh gần gũi với đời thường. Ngôn từ dung dị cũng chân chất giản dị như chính con người đời thực của anh. Anh sử dụng phương ngữ, có những từ mà có lẽ chỉ dân miền Trung mới hiểu như “ đùm” “Vọoc bùn”. Có lẽ vì vậy mà thơ Dzạ Lữ Kiều bên cạnh những bài thơ hay, câu thơ hay còn có những bài, những câu thơ chưa thực sự ấn tượng. Tuy nhiên nếu đọc kỹ vẫn tìm thấy những điều thú vị. Và trong số lượng sáng tác phong phú của anh người đọc dễ dàng tìm thấy nhiều bài thơ hay, nhiều câu thơ tâm đắc mỗi khi mình có cùng tâm trạng. Điều đáng quý là nhìn chung tất cả những sáng tác của anh đều được viết bởi cảm xúc chân thành. Thơ Dzạ Lữ Kiều phản ánh cuộc sống, là những trang viết về cuộc đời về nhân tình thế thái rất chân thực, đầy tính nhân văn. Như chúng ta đã biết thơ được hình thành bởi ba yếu tố chính là cảm xúc, ngôn từ và kỹ thuật. Trong đó cảm xúc là yếu tố quan trọng nhất trong thi ca, để chạm đến trái tim, và đi vào lòng người đọc phải là tiếng nói từ trái tim của người nghệ sĩ. Thơ Dzạ Lữ Kiều chân chất, giàu tính nhân bản vừa rất đời mà cũng không kém phần ngọt ngào, lãng mạn. Cảm hứng trữ tình và tự sự được anh đan xen cài cắm một cách hài hòa. Hình ảnh, thi liệu thơ quen thuộc nhưng được anh chọn lọc đưa vào thơ rất hợp lý, kết hợp với cách dùng từ lập ý có giá trị biểu đạt cao. Anh đã vận dụng các biện pháp nghệ thuật để chuyển tải nội dung cần diễn đạt rất biểu cảm.

Trong gần trọn cuộc đời cầm bút của mình, nay anh đã bước sang tuổi tám mươi nhưng anh vẫn miệt mài với công việc biên tập và sáng tác. Vẫn tiếp tục cống hiến cho đời bằng lao động nghệ thuật nghiêm túc, cần mẫn. Nay mái tóc đã phai màu theo thời gian nhưng niềm say đắm với thi ca thì vẫn nguyên vẹn như thuở mới vào đời. Mong thi nhân có được nhiều sức khỏe! Và người đọc chúng ta đón chờ những tác phẩm mới của anh trong thời gian tới!

Sài Gòn, ngày 25/6/2022

Hoàng Thị Bích Hà