Hè năm nay, anh tặng
tôi một số tập thơ đã xuất bản và những tập thơ chỉ in để dành tặng bạn bè và bạn
đọc tri âm. Tôi rất vui khi được anh gửi gắm những đứa con tinh thần của mình,
tôi bắt đầu nghiền ngẫm thơ anh như đi vào “thế giới chữ nghĩa” của anh, là lần
theo những cảm xúc của anh để tìm hiểu về một hồn thơ đậm chất đời và chất hào
sảng, phong sương của lính.
Khi anh có thơ đăng trên báo chí thì tôi còn oe oe khóc trong nôi. Có lẽ cùng thời với anh đã có nhiều cây viết đồng hành cùng với những vui buồn trong đời thơ anh. Tôi chỉ là kẻ hậu sinh, xin ghi lại những những nhận định của mình theo góc nhìn của một người đọc yêu mến văn chương, cũng là tấm lòng của hậu bối đối với bậc đàn anh trong giới cầm bút. Đó cũng là lòng trân trọng biết ơn của người đi sau đối với người đi trước với những lao động nghệ thuật đáng quý. Bởi người viết cũng như người thư ký của thời đại, thông qua tiếng lòng của họ, ít nhiều người đọc sẽ hiểu được những vui buồn của phận người gắn với những vui buồn nhân thế, của thời đại mà họ đã sống và trải nghiệm.
1. Vài nét về tiểu
sử văn học của Dzạ Lữ Kiều
Nhà thơ Dzạ Lữ Kiều
tên thật là Trần Xuân Thái. Anh sinh năm Quý Mùi tại Hương Trà, Thừa Thiên Huế.
Anh học hành và trưởng thành tại Huế. Anh bước vào văn giới cùng thời gian anh
bước vào đời lính. Tuổi trẻ của anh cũng như bao thanh niên cùng thời lên thác
xuống ghềnh, hành quân, áo trận…sau 1975, anh rời quân ngũ và đi vùng kinh mới,
những bộn bề cơm áo với những khó khăn chung của đất nước thời hậu chiến …Những
trải nghiệm đó là chất liệu làm nên thi ca đẫm chất đời và chất lính của Dzạ Lữ
Kiều.
Hiện tại anh sống
và viết tại Buôn Mê Thuột, gia đình êm ấm với người vợ hiền chung thủy và những
đứa con ngoan.
Những sáng tác
trước 1975: Thơ đăng các báo: Văn, Thời Nay, Chọn Lọc, Thứ Tư Tuần San, Thẫm Mỹ,
Chánh Đạo, Tia Sáng… bằng những bút danh khác như: Dzạ Trầm Thảo, Hương Văn.
Sau 1975: Tiếp tục
cộng tác với các báo trung ương và địa phương:
Các tác phẩm đã
xuất bản:
- Giọt Huế Mưa,
Nxb Hội nhà văn 2007
- Giọt Mắt Đắng,
Nxb Văn Nghệ 2009
- Giọt Sương Khuya,
Nxb Hội nhà văn quý III /2012
- Giọt Nắng Phai,
Nxb Hội nhà văn, quý IV/2015
- Giọt Tình Quê,
Nxb Thuận Hóa 2019
Thơ, truyện ngắn
in riêng dành tặng người thân và bạn đọc tri âm:
- Lời Gió Chướng,
2022
-Tạ Từ Phượng Vỹ
- Tập truyện ngắn:
Bến Đời
-Tuyển tập thơ:
Những Bước Chân Thầm
Góp mặt trong hơn
15 tác phẩm với các tác giả thơ Việt Nam đương đại, có nhiều bài thơ đã phổ nhạc
và cũng đã gặt hái được một số giải thưởng đáng ghi nhận (xem bìa 3 tập thơ Những
Giọt Sương Khuya, Nxb Hội nhà văn quý III/2012)
Tôi đã được đọc
trên bốn trăm bài thơ của anh trong các tập thơ nói trên. Cho thấy tiếng lòng của
thi nhân với cuộc đời, với tình yêu. Đó là những dòng cảm xúc chân thành thông
qua câu chữ để anh gửi gắm nỗi niềm được diễn đạt bằng ngôn từ bình dị mang âm
hưởng xứ Huế, giàu sắc thái tình cảm. Những vần thơ tha thiết tình người, tình
đời và rất đỗi chân thành. Ngọt ngào, lãng mạn trong tình yêu, đầy tình nghĩa với
người thân, bạn hữu. Khắc khoải ưu tư với nỗi buồn nhân thế và cũng nhiều chiêm
nghiệm qua thăng trầm dâu bể của đời người. Được thể hiện phong phú bằng nhiều
thể loại thơ như: lục bát truyền thống, thơ tự do, thơ ngũ ngôn, lục ngôn, thất
ngôn, thể loại thơ văn xuôi… Ở thể thơ nào anh cũng tỏ ra rành trong cách gieo
vần lập tứ và có chiều sâu trí tuệ. Bằng bút pháp hiện thực và lãng mạn. Hầu hết
các sáng tác của anh được bắt nguồn từ cảm hứng trữ tình, đôi khi có cả cảm hứng
tự sự, khi tách bạch, khi đan xen thật hài hòa cân đối khiến thơ anh neo lại
trong lòng bạn đọc với những ấn tượng đẹp.
2. Thơ Dzạ Lữ Kiều
là là nỗi lòng nhớ nhung khắc khoải của người con xa Huế.
Đó là những vần
thơ chất chứa tình yêu, là tấm chân tình anh dành riêng cho Huế. Bởi Huế đối với
anh là cả những ân tình sâu nặng đầy da diết nhớ mong đã in sâu vào tâm khảm,
là những ký ức ngọt ngào. Những địa danh, danh lam thắng cảnh của Huế như sông
Hương, cầu Trường Tiền, Vĩ Dạ, Chùa Từ Đàm, dốc Nam Giao, Đại Nội luôn hiện diện
trong thơ anh. Ở đó đầy ắp cả khung trời kỷ niệm.
“Ta theo em về bến
đò xưa
Một thời đầy ắp
tuổi mộng mơ”
(Bến xưa-Giọt
tình phai)
Dù có đi chân trời
góc bể, tâm tư anh vẫn luôn nghĩ về Huế, tâm hồn anh vẫn Huế vương mang:
“Ta…
Rời xa Huế
Rồi em
Câu thơ ở lại
ủ mềm lối xưa
gặp em
Một buổi chiều
mưa
Bàn tay bịn rịn
bên bờ Hương Giang”
(Chào M- Giọt nắng
phai)
Có thể nói Huế là
nguồn cảm xúc không bao giờ vơi cạn trong hồn thơ Dzạ Lữ Kiều. Những vần thơ nặng
lòng với Huế chiếm phần lớn trong các sáng tác của anh. Đúng như niềm tâm sự
thao thiết của anh gửi vào thơ:
“Ôi Huế bao mùa
ta xa nhớ
Làm sao nói hết
những ân tình”
(Nhớ- Giọt nắng
phai)
Nỗi nhớ Huế trong
anh luôn trỗi dậy bật ra thành cảm xúc và tràn cả vào thơ rồi lan sang bạn đọc.
“Bỗng dưng ta nhớ
Huế lạ lùng
Nhớ mái trường
xưa nhẹ bước chân
Nhớ tà áo trắng
chiều tan học
Nhớ mái tóc thề
theo gió vươn”
( Nỗi nhớ-Giọt nắng
phai)
Anh lập nghiệp ở
vùng đất cao nguyên, có thể nói gia đình anh đã bén rễ ở đây. Anh cũng đã quen
với đại ngàn nắng gió. Vùng đất nơi đây cho quả ngọt trái sai để cho những cuộc
đời tha hương như anh giờ có thể gọi là “no cơm ấm cật”. Anh cũng đã yêu vùng đất
mới này với những đặc điểm rất riêng: hoa cà phê bạt ngàn và âm vang tiếng cồng
chiêng ngân dài trong gió. Nhưng có lẽ Huế vẫn là cõi nhớ trong anh không gì
thay thế!
Huế của anh gắn với
những kỷ niệm thật ngọt ngào và lãng mạn. Huế vẫn là giấc mơ đẹp ngày về:
“Ước được ngày về…
thăm Cố Đô
Dìu em gái Huế
nón bài thơ
Qua cầu e ấp tà
áo tím
Cà phê Thành Nội
mãi ngóng chờ”
(Cà phê nhớ- Giọt
nắng phai)
Huế trong anh là
nhịp đập trái tim, là hơi thở, là lẽ sống. Tim thì phải luôn gõ nhịp để duy trì
sự sống thì theo anh sống là để nhớ thương Huế không nguôi:
“Một đời ta
thương Huế
Như nhịp đập trái
tim”
(Huế thương- Giọt
sương khuya)
"Ân tình Huế
đã bao năm dồn nén
Xa thật rồi!
Nhưng đọng mãi trong tim”
(Lưu tình- Giọt sương
khuya)
Quê hương Huế gắn
liền với những kỷ niệm của một thuở đầu đời. Ở đó thấp thoáng hình bóng giai
nhân từng làm rung động con tim thời trai trẻ của Dzạ Lữ Kiều, năm tháng trôi
đi trong lớp bụi thời gian nhưng vẫn trở thành những kỷ niệm khó phai.
“Niềm thân ái dấu
hoài rất có thể
Khung trời xưa mấy
ai dễ kiếm tìm
Từ muôn kiếp ta gắn
liền duyên nợ
Thì dễ gì năm
tháng đã quên tên”
(Đoản khúc yêu-
Giọt nắng phai)
Thuở tan trường một
thời chung bước, nụ cười, ánh mắt của người xưa tưởng chừng ngủ yên trong tâm
khảm trên bước đường dạn dày sương gió. Nhưng mỗi lần trở lại Huế thì những kỷ
niệm lại ùa về với những hình ảnh thân quen: nét buồn trên mi, tà áo dài, ánh mắt
đó lại vấn vương khi đặt chân lên những lối đi quen.
“Về quê nhặt nụ
Huế buồn
Từ em đánh rớt cuối
đường ngày xưa
Thuở còn những buổi
đón đưa
Sân trường Đồng
Khánh ai chờ đợi ai?”
(Huế và em - Giọt
nắng phai)
Tình yêu dành cho
Huế chất chứa trong lòng anh. Tôi có cảm giác là với anh thì những cảm xúc dồn
nén chỉ chờ có dịp là tuôn trào lên câu chữ để thành thơ. Bởi Huế là quê hương
xứ sở, nơi đó có người thân, bạn bè tri âm. Đặc biệt ở đó có mối tình trong trắng
thơ ngây của tuổi học trò, không dễ gì quên.
“Một thời mộng ước
song đôi
Dìu em đi giữa
khung trời Huế thương
Áo dài soi bóng
dòng Hương
Đường vô Thành Nội
nắng vương tóc thề”
(Một mình dưới
trăng- Giọt sương khuya)
Những kỷ niệm thuở
nào nằm yên trong ký ức chợt thức dậy khi có tứ thơ đẹp để anh có những câu thơ
đầy rung cảm, lưu lại trong lòng người đọc nhiều cảm xúc:
“Đưa em về…còn
mưa bay
Ngồi sau xe ấm
vòng tay
Mượn bờ môi chạm
nhẹ
Mới hay tình đã
đong đầy”
(Đưa em về …đêm
mưa- Giọt nắng phai)
-“Ta một đời lãng
tử
Từng sợi tóc vờn
bay
Nhưng trong tim
yêu Huế
Thao thiết đến từng
ngày”
(Màu tím tôi yêu-
giọt nắng phai)
Mối tình đầu bao
giờ cũng vậy, rất ngọt ngào nhưng cũng lắm đắng cay, không phải cứ tình yêu nào
cũng đơm hoa kết trái. Những mối tình thời son trẻ thường dang dở không thành:
“Thời gian trầu
đã bén vôi
Cau tôi chưa trổ
nụ phơi nắng hè
Thế rồi em bỏ
sông quê
Bến tình tôi đứng
bên đê ngóng chiều”
(Kỷ niệm xa rồi-
Giọt tình quê)
Anh dùng những động
từ như: vói, nhặt, ép, hong, treo... rất cụ thể bên cạnh những danh từ trìu tượng
kết hợp một cách khéo léo với những thi liệu: cánh phượng hồng, lưu bút, nỗi nhớ
làm cho câu thơ giàu hình ảnh và có giá trị biểu đạt cao.
“Vói tay nhặt
Cánh phượng hồng
Ép vào lưu bút
Để hong cuộc tình
Em chừ qua ngõ lợi
danh
Ta treo nỗi nhớ
lên cành phượng
khô”
(Khúc tình cuối hạ-
Giọt tình quê)
Đi qua những cuộc
tình không vẹn, trong dâu bể đời người. Anh có nhiều trải nghiệm, hay nói cách
khác là vốn sống. Có ai đó nói rằng “hãy sống rồi mới viết”. Nghiệm lại thấy
đúng, những kinh nghiệm sống, những trải nghiệm trên đường đời cùng với năng
khiếu thiên bẩm để thi nhân có những bài thơ hay, câu thơ hay đầy chiêm nghiệm
và có tính triết luận nhẹ nhàng:
“Tình yêu như
bóng qua cầu
Nào ai giữ được bền
lâu cho mình”
(Tình ảo- Giọt nắng
phai)
Vâng! Khi chúng
ta ý thức được điều đó thì sẽ sớm lấy lại thăng bằng mỗi khi gặp trắc trở sóng
gió trên đường đời. Đến và đi, mọi việc tùy duyên thôi! Nỗi buồn xin gửi vào
thơ cho nhẹ lòng mà đứng lên, bước tiếp.
“Sông đời nước biếc
trôi mau
Sông tình ai biết
ngày sau mà lường
Em theo lộng tía
tha phương
Tôi đứng bên đường
nhìn ánh chiều phai”
(Nhìn cánh phượng
rơi- Giọt tình quê)
Anh có những câu
thơ thật buồn mà đẹp:
“Tre buồn oằn
bóng nước xao
Tưởng chừng kỷ niệm
quất vào tim tôi
Khi em bỏ lại cuộc
chơi
Về chân trời tím
ru lời hắt hiu”
(Về lối Hạ- Văn
xá, Thừa Thiên Huế)
-“Em chừ trốn mãi
nơi đâu
Để ta tìm kiếm gầy
hao mắt tình
Phải chi em đứng
một mình
Để ta thấy được
bóng hình ngày xưa”
(Tháng tư về- Lời
gió chướng)
Anh cũng hé lộ
cho chúng ta biết một lý do để cuộc tình khộng trọn là:
“Tôi vào quân ngũ
em biền biệt xa
Đêm chiến tuyến -
ánh sao xa
Để rồi nỗi nhớ nhạt
nhòa từng đêm
Đường hành quân cứ
liên miên”
(Chuyện tình bên
sông- Giọt sương khuya)
Đặc biệt hơn hết
anh dành những câu thơ đầy ân tình sâu nặng cho đấng sinh thành của một người
con chí hiếu. Anh thấu hiểu những hi sinh thầm lặng, những vất vả lo toan, của
cha mẹ tảo tần nuôi dưỡng con cái nên người, nhất là trong thế cuộc tao loạn, vất
vả biết chừng nào của song thân. Và anh tự trách mình nơi xa xôi chưa đáp đền
ân nghĩa.
“Đời cha gian khổ
nhiều rồi
Con chưa báo đáp
được lời nghĩa ân
Thân cha nào kể
ngọt bùi
Bao nhiêu nước mắt
nuốt trôi vào lòng
Miếng cơm khi đói
nhường con
Cũ rừng thiếu bữa
bào mòn xác thân
Vẫn mong con vững
đôi chân
Bước trên gian
khó những lần ngã đau”
- “Lời cha vời vợi
Thái Sơn
Nuôi con không kể
nỗi buồn gian lao
Mặc trời mưa nắng
dãi dầu
Gót chân nứt nẻ,
đồng sâu cấy cày”
(Ơn cha- Giọt nắng
phai)
Những vần thơ
dành cho mẹ cũng thật cảm động:
“Chiều đông mưa rả
rích buồn
Nhớ sao cái thuở
tan trường tuổi thơ
Mạ lóng ngóng chiếc
áo mưa
Chờ con ra lớp-
giờ trưa đón về”
(Tuổi thơ& Mẹ-
Lời Gió Chướng)
Giờ đây mẹ đã phất
tay rũ áo về trời nhưng hình bóng mẹ vẫn in đậm trong tim thi nhân với những kỷ
niệm đầy ắp tình mẫu tử:
“Mẹ giờ ở cõi u
minh
Con nào hiểu được
ân tình sẻ chia
Chỉ còn đây mảnh
trăng khuya
Là hình bóng mẹ
hiện về ru con”
(Vầng trăng mẹ-
Giọt nắng phai)
Huế vẫn đây mà
người thân đấu tá? Hình bóng mẹ hiền không còn chờ con bên hiên nhà nữa! Mẹ đã
về miền viên miễn! Cảm giác đơn côi của đứa con không còn mẹ (dù ở độ tuổi nào)
thì mất mẹ là một nỗi mất mát lớn không gì bù đắp nỗi. Dẫu biết đời là vô thường
nhưng quê hương đây rồi mà mẹ ở đâu? Mẹ không còn thì sự hụt hẩng đến vô cùng,
đặc biệt đêm về quạnh vắng, trở mình thức giấc cũng nghe như tiếng kinh thành
khóc nức nở. Đó là tiếng lòng thi nhân trong tiếng nấc nghẹ ngào khi nghĩ về mẹ:
“Đêm trở gối nghe
kinh thành nức nở
Tưởng tim mình
tan vỡ giữa cô đơn
Nhớ sao ngày mẹ hao
gầy
Nhường cơm sẻ áo
cho bầy con thơ”
(Giọt Huế mưa- Lời
gió chướng)
Với người bạn
trăm năm anh có những vần thơ đầy ân nghĩa thủy chung: (Thơ đề tặng hiền thê Diệu
Linh)
Ngày gặp em…áo
tím
Từ thuở còn thơ
ngây
Ta yêu em từ đó
Theo ngày tháng nồng
say
Nghiệp duyên dài
bến đỗ
Dòng Hương biếc
vơi đầy”
(Tôi yêu màu tím-
Giọt nắng phai)
Nhờ có người vợ
hiền chung thủy để tâm hồn anh neo đậu, khi dấn thân trong gió bụi trường chinh
và thỏa chí tang bồng hồ thỉ. Và để thả hồn theo con chữ của đời nghệ sĩ mà
duyên nghiệp viết lách đã vướng vào anh.
“Phải chăng chút
nghĩa đá vàng
Giúp tôi giữ được
tiếng đàn ngày xưa
Trăm năm ân nghĩa
có thừa
Dìu tôi đi giữa nắng
mưa cuộc đời”
(Lạc bến- Giọt
sương khuya)
Người lỡ “mắc
duyên vào bút mực”(từ dùng của Nguyễn Bính) nhất là người sáng tạo thi ca thường
có tâm hồn lãng mạn. Đôi khi thả hồn bay bổng lên tận chín tầng mây, nô đùa
cùng các tiên giới hoặc giai nhân trong đời thực (dù chỉ trong thơ). Nên rất cần
sự cảm thông và thấu hiểu, sẻ chia của người bạn đời chung thủy. Viết lách âu
cũng là nghiệp dĩ văn chương. Nếu tâm hồn không lãng mạn thì không thể sáng tạo
được văn chương. “Em” biết điều đó phải không? Nên xin em chớ hờn ghen! Anh có
những câu thơ tài hoa mà tôi rất tâm đắc:
“Em trách tôi con
tim thường vụng dại
Ngăn chứa nhiều
chỉ làm khổ thân thôi
Khi đã biết nợ
duyên tình phải trả
Em hãy là bồ tát
của lòng tôi”
(Trước bình - Giọt
tình quê)
Với tri kỷ anh
cũng có những câu thơ hay:
“Mượn em chiếc
bóng Paris
Với dòng Seine biếc
làm di chứng buồn
Riêng ta chất Huế
còn vương
Tỉnh say vẫn giữ
con đường “Đế Kinh”
(Uống rượu với
bóng- Giọt nắng phai)
Với bạn bè:
- “Trong tôi anh
vẫn là người bạn chung thủy
Với nàng thơ dù
nghiệp chướng phong ba
Anh vẫn ước giá
con đường đầy hoa mỹ
Thì anh- tôi nước
mắt đâu có nhòa”
(Bến đò- Giọt nắng
phai)
Những lúc rảnh rỗi
bạn bè lại bên nhau với tách cà phê chia sẻ vui buồn trong cuộc sống:
-“Mưa chiều ra phố
uống cà phê
Hạt đậu tóc phai
hạt mi nhòe
Bạn bè mấy đứa
còn sót lại
Ngẫm chuyện đời
mưa nắng cùng nghe”
(Cà phê nhớ- Giọt
nắng phai)
Người lính không
quân ấy, trên bước đường lữ thứ mỗi lần nghe tiếng mưa rơi cũng chạnh nhớ quê
nhà:
“Nào hay lạc mãi
mùa xuân
Trôi theo vận nước
xa dần dòng Hương
Ta chừ lang bạt
tha phương
Vẫn nghe xa xót
đêm buồn Huế mưa”
(Giọt Huế mưa- Lời
gió chướng)
3. Dzạ Lữ Kiều-
tâm hồn thi nhân trong khí chất người lính
Không thể đem
thành bại để luận anh hùng- phận người “trôi theo vận nước”, dù trong hoàn cảnh
nào thì hồn thơ anh vẫn đầy nét hào sảng của người lính yêu hòa bình:
“Mà ta chí mỏng,
tài trai
Quyết mài gươm để
chống loài xâm lăng”
Nước non nặng
gánh thề chung
Ra đi thỏa chí
tang bồng trời mây”
(Giọt Huế mưa- Lời
gió chướng)
“Quê hương ơi!
Nước mắt tuôn
Bao năm rong ruỗi
con đường nghẹn đau”
(Giấc mơ trưa hè-
Lời gió chướng)
Anh khắc họa
thành công chân dung người lính dãi dầu phong sương là thế, mà vẫn hào hoa lãng
mạn và rất đỗi ngọt ngào. Bộc lộ qua những vần thơ sau:
“Đâu rồi áo trận
đã sờn vai
Giày lính còn lấm
bụi đường dài
Mơ về phố thị
cùng chung bước
Giọt cà phê,
hương ngát bay”
(Cà phê nhớ- Giọt
nắng phai)
Ý thơ anh đưa tôi
liên tưởng đến câu thơ của Quang Dũng: “Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm”
Chất lãng mạn làm
nên vẻ đẹp trong thơ tình của lính:
“Môi em như nụ hồng
hàm tiếu
Để hồn tôi ngơ ngẩn
suốt canh thâu”
(Chia tay- Giọt nắng
phai)
- “Chỉ là ánh mắt
em thôi
Sao tim ta đã
chơi vơi đỉnh sầu
Huống em tặng nụ
hôn đầu
Ta trả mấy kiếp
thêm nhàu trái tim”
(Ánh mắt- Lời gió
chướng)
Những tháng ngày
trong quân ngũ, tình chiến hữu gắn bó thật đẹp, bên câu chuyện tâm tình là những
kỷ niệm đẹp khắc sâu vào tâm khảm của nhà thơ- người lính.
“Thôi bỏ hết những
ngày vui chưa lớn
Mai đứa về đồng
lúa ngọt miền Nam
Đứa ra Trung xứ cằn
khô sỏi đá
Để lên non nhận
kiếp trâu cày
Hãy ngồi sát nhau
hút thêm điếu thuốc
Tàn canh rồi ly
rượu mãi chưa vơi”.
(Chuyện quân trường-
Lời gió chướng)
Những năm tháng
sau này, khi có dịp gặp lại những chiến hữu khi ngồi bên nhau, kỷ niệm lại ùa về.
Hãy nghe anh trải lòng vào thơ một thời khói lửa, áo trận, hành quân gắn với đời
lính gian truân mà cũng đầy bi tráng:
“Bạn bè nhắc lại
chuyện thuở xưa
Rừng già đêm lạnh
khúc giao mùa
Ba lô súng đạn
trăng chếch bóng
Xào xạc rừng già
lá vàng khô”
(Cà phê nhớ- Giọt
nắng phai)
Khi đã dấn thân
vào quân trường không biết ngày về, đành chấp nhận bỏ lại quê hương, người
thương và đối diện với biệt ly.
“Người khoác lên
mình màu chiến y
Bỏ lại quê hương
nuối tiếc gì
Quân hành tám hướng
người rong ruỗi
Tìm thú yên hà- Tống
biệt ly”
(Chung thủy- Lời
gió chướng)
Tôi chợt liên tưởng
đến hình ảnh “Người ra đi đầu không ngoảnh lại” của Nguyễn Đình Thi.
Thi nhân- người
lính ý thức được rằng đời lãng tử nay đây mai đó thì khó lòng giữ vẹn câu thề với
tình riêng. Lấy vần thơ là điểm tựa, là cứu cánh khỏa lấp nỗi vui buồn. Hãy đến
với những câu thơ tài hoa buồn nhưng rất đẹp rung động lòng người của Dzạ Lữ Kiều.
“Đời lãng tử mấy
khi tròn ước nguyện
Khúc trăm năm
cũng dang dở huống là
Thôi hãy dệt vần
thơ chưa trọn
Để trong tim vọng
nhớ- tình- xuân- xa”
(Chia tay- Giọt nắng
phai)
Tàn cuộc chiến,
anh trở lại với cuộc sống với bộn bề cơm áo, những vất vả đời thường của người
lính trở về từ hậu chiến . Anh có những câu thơ chiêm nghiệm đầy khắc khoải ưu
tư trước thành bại của cuộc đời.
“Đời ta áo trận sờn
vai
Giày lính bung
gót làm người đốt than
Lục bình ta trôi
bơ vơ
Nghiệm đời dâu bể
bên bờ đục trong”
(Về một bút hiệu-
Giọt nắng phai)
Anh nói với cháu
nội hay nói với chính mình:
“Đời ông kẻ sĩ lỡ
thời
Lên rừng đốn củi
trắng lời ước mơ”
(Đêm mất ngủ- Giọt
nắng phai)
-"Bao năm …
Thành phế binh đời
Về đây…chốn cũ ta
ngồi đếm mưa”
(Mưa phùn và nỗi
nhớ- Giọt nắng phai)
Người thơ biết rõ
mình là ai, mình làm được gì cho đời bằng những câu thơ gan ruột:
“Ta không rủng rẻng
bạc tiền
Chỉ giàu lời dệt
cõi riêng tình người”
( Tình thơ- Giọt
tình quê)
Vậy cũng quý rồi
thi nhân ơi! Tiền bạc đôi khi chỉ là phương tiện của cuộc sống chứ không phải
là tất cả. Có thể có đó và hết đó nên cũng là phù du. Sự giàu có về tâm hồn là
điều quý giá hơn, để cuộc sống tinh thần thêm phong phú. Những câu thơ tả thực
khiến người đọc cũng quặn thắt lòng khi nhớ về những cơ cực của người thơ sau
cuộc chiến, tha hương.
“Từ ngày rời bỏ
quê hương
Về kinh tế mới -
phượng hồng lỡ quên
Chồng vợ đen đúa
gầy gò
Đốt than cưa củi…từng
giờ gạo đong”
(Ru đời-vọoc đất)
Hai câu thơ: “Nỗi
đời cay cực đang giơ vuốt/ cơm áo không đùa với khách thơ” (Xuân Diệu) quả rất
đúng cho hoàn cảnh người thơ lúc này. Nhưng khi nghĩ về cố xứ anh vẫn thầm nguyện
cầu cho Huế được bình yên nhất là khi mưa bão lại về.
“Ta người xa xứ
đã bao năm
Nhớ hoài trong những
chuyến về thăm
Nỗi lòng theo
cánh chim mùa bão
Trời yên, biển lặng…nguyện
trong tâm”
(Tháng tám bão về-
Lời gió chướng)
Tết đến xuân về,
nơi xa anh lại càng nhớ da diết:
“Nhặt giùm tôi
chút nắng gầy
Bên thềm xuân Huế
bao ngày cách xa
Gói thêm vài hạt
mưa sa
Để thấm hương vị
quê nhà nhớ quên”
(Tết- Giọt sương
khuya)
Anh xê dịch nhiều,
cứ đi và viết nên những vùng đất nào anh có dịp đặt chân tới đều để lại dấu ấn
trong thơ. Những địa danh Sài Gòn và Miền Tây Nam Bộ: Rạch giá, Sa đéc, Đồng
Tháp, Hà Tiên đều được anh nhắc đến trong bài thơ dọc đường gió bụi- tập thơ Giọt
Nắng Phai.
Tổng kết lại đời
mình anh có nhận xét dí dỏm nhưng rất đúng: lãng tử, ngọt ngào, lãng mạn để làm
thơ.
- “Tôi lãng tử
thích ngọt ngào
Câu thơ viết tặng
ngày đầu mới quen”
(Ví dụ ta quen
nhau)
Đã gần hai mươi
lăm năm năm nay, anh đã và đang làm biên tập cho tạp chí Vô Ưu. Vì thế được tiếp
cận với văn hóa Phật Giáo nên chất thiền ngấm và hồn thơ anh rất rõ nét:
“Đời là một chuỗi
vô thường
Có không…không có
con đường trải qua”
(Hướng tu-Lời gió
chướng)
4. Lời kết
Thơ Dzạ Lữ Kiều
được viết ra bởi cảm xúc rất chân thành, tự nhiên bật ra câu chữ nên cách dùng
từ của anh gần gũi với đời thường. Ngôn từ dung dị cũng chân chất giản dị như
chính con người đời thực của anh. Anh sử dụng phương ngữ, có những từ mà có lẽ
chỉ dân miền Trung mới hiểu như “ đùm” “Vọoc bùn”. Có lẽ vì vậy mà thơ Dzạ Lữ
Kiều bên cạnh những bài thơ hay, câu thơ hay còn có những bài, những câu thơ
chưa thực sự ấn tượng. Tuy nhiên nếu đọc kỹ vẫn tìm thấy những điều thú vị. Và
trong số lượng sáng tác phong phú của anh người đọc dễ dàng tìm thấy nhiều bài
thơ hay, nhiều câu thơ tâm đắc mỗi khi mình có cùng tâm trạng. Điều đáng quý là
nhìn chung tất cả những sáng tác của anh đều được viết bởi cảm xúc chân thành.
Thơ Dzạ Lữ Kiều phản ánh cuộc sống, là những trang viết về cuộc đời về nhân
tình thế thái rất chân thực, đầy tính nhân văn. Như chúng ta đã biết thơ được
hình thành bởi ba yếu tố chính là cảm xúc, ngôn từ và kỹ thuật. Trong đó cảm
xúc là yếu tố quan trọng nhất trong thi ca, để chạm đến trái tim, và đi vào
lòng người đọc phải là tiếng nói từ trái tim của người nghệ sĩ. Thơ Dzạ Lữ Kiều
chân chất, giàu tính nhân bản vừa rất đời mà cũng không kém phần ngọt ngào,
lãng mạn. Cảm hứng trữ tình và tự sự được anh đan xen cài cắm một cách hài hòa.
Hình ảnh, thi liệu thơ quen thuộc nhưng được anh chọn lọc đưa vào thơ rất hợp
lý, kết hợp với cách dùng từ lập ý có giá trị biểu đạt cao. Anh đã vận dụng các
biện pháp nghệ thuật để chuyển tải nội dung cần diễn đạt rất biểu cảm.
Trong gần trọn cuộc
đời cầm bút của mình, nay anh đã bước sang tuổi tám mươi nhưng anh vẫn miệt mài
với công việc biên tập và sáng tác. Vẫn tiếp tục cống hiến cho đời bằng lao động
nghệ thuật nghiêm túc, cần mẫn. Nay mái tóc đã phai màu theo thời gian nhưng niềm
say đắm với thi ca thì vẫn nguyên vẹn như thuở mới vào đời. Mong thi nhân có được
nhiều sức khỏe! Và người đọc chúng ta đón chờ những tác phẩm mới của anh trong
thời gian tới!
Sài Gòn, ngày
25/6/2022