Tôi đến Mỹ năm 1975. 3 năm đầu, tôi cư ngụ ở
thành phố Kansas City Missouri, vì người bảo trợ Mỹ của tôi ở
đây. Năm 78, sau hai năm trời đèn sách ở Donnelly College ở Kansas
City Kansas, thấy ở thành phố này buồn quá, tôi quyết định di cư lần thứ
hai. Nhưng đi đâu? Đa số người Việt Nam thời đó thường đi
qua Cali. Nghe nói dân bên đó chỉ lo ăn chơi thôi chứ chẳng ai lo
làm việc gì cả vì tiền chính phủ rất dễ xin, cho rất nhiều, lại còn cho thêm nhà cửa ở miễn phí. Hơn thế nữa, nhờ đó, tiệm cà phê, tiệm phở
đầy dẫy, báo biếu để đầy đường, tha hồ mà đọc. Nghe nói còn có cả những chốn chơi bời, những
sòng bạc ăn thua bạc chục ngàn nữa. Mỗi cuối tuần đều có ca nhạc nhảy
đầm và thỉnh thoảng cũng có… oánh lộn tùm lum. Đủ thứ, giống y như ở
Việt Nam mình ngày xưa vậy. Toàn
là những thứ mà tôi rất thèm, rất... sở trường của tôi ngày xưa.
Nghe thấy lôi cuốn hấp dẫn lắm, nhưng tôi bây giờ không còn là một tôi của ngày xưa nữa. Tâm hồn tôi đã chết, trái tim tôi đã bỏ lại bên kia bờ biển Thái Bình Dương. Giống như nhiều người Việt Nam tị nạn lúc ấy, tôi đã bị mặc cảm nặng nề bởi cuộc thua trận nhục nhã của quân đội mình. Linh hồn tôi bây giờ là một linh hồn rướm máu, rực lửa đau đớn, rực lửa căm thù, tràn đầy tủi nhục. Tôi cảm thấy mình có tội với tổ quốc, có tội với anh em bạn bè đã bị bỏ lại ở Việt Nam. Tôi chẳng anh hùng hay ngon lành hay yêu nước gì hơn ai. Tôi chỉ là một con người, dù rất tầm thường với đủ mọi thứ tật xấu của một thằng đàn ông trên cõi đời này, nhưng tôi không phải là một con vật để có thể dễ dàng quên quê hương đất nước, quên anh em bạn bè, quên những ngày sống mái với quân thù, tuy gian khổ nhưng rất oai hùng.
Quan trọng hơn cả, tôi
vốn xuất thân là một thằng con nhà nghèo. Từ thuở nhỏ,
tôi đã theo thân phụ ra rẩy cuốc đất trồng cây, đã quen dầm mưa dãi nắng,
chịu cực khổ, thức khuya dậy sớm và làm lụng như trâu như bò chứ
không bao giờ thích nằm phè… chim trên giường, ăn của bố thí của chính
phủ hay của bất kỳ ai. Tôi không muốn ở những chỗ
đó. Nó sẽ làm cho con người mình hèn đi. Tôi có thể chịu
được nhiều thứ trên cõi đời này, nhưng không bao giờ chịu hèn được.
Nhưng đi chỗ nào
có nhiều đồng bào Việt Nam mình, có phở để ăn, có quán cà phê để lâu lâu vô làm
vài ly lai rai với bạn bè như Cali đây. Nhìn tới nhìn lui, tôi
thấy chỉ có New Orleans hoặc Houston là lý tưởng nhất. Tôi thích New
Orleans hơn.
Trước hết, đồng
bào mình ở đây khá đông, đa số dân đánh cá. Quan trọng hơn cả, nghe
nói đi đánh cá ở New Orleans kiếm tiền dễ lắm. Mới sau có 3 năm, đã
có nhiều người Việt Nam trở thành triệu phú rồi…
Dĩ nhiên, đây chỉ
là những lời đồn đãi, tôi chưa hề nhìn thấy. Nhưng tôi là một
con người vốn ngây thơ, nhẹ dạ và dễ tin, nghe thiên hạ đồn như thế nào thì
mình tin như thế ấy. Suốt đời tôi khổ bởi cái ngây thơ và dễ tin của
mình.
Thế là, một buổi
sáng mùa hè, tôi một mình một chiếc xe van hiệu Ford cũ mèm, chất hết đồ đạc
phía sau, lái về New Orleans với 2 ngàn đô la dành dụm được từ suốt 2
năm trong túi, tự nhủ với lòng mình và quyết tâm sẽ thành một triệu phú
sau vài năm. Hoặc sau chục năm cũng được, miễn là sẽ trở thành triệu
phú.
Tại sao không nhỉ? Mộng
mơ thì ai cũng có quyền mộng mơ, vả lại, tuổi còn trẻ, với hai bàn chân gang
thép, cộng thêm một linh hồn vũ bão, không bao giờ biết sợ
khổ hay sợ cực, tôi có quyền mộng mơ. Sợ gì ai mà không mộng
mơ nhỉ? Nếu được thì tốt, còn không được thì có sao đâu, có mất mát
gì đâu. Không thành công thì thành... cái con khỉ gì cũng được, tôi
đếch cần, miễn là mình phải thử.
Con đường từ
Kansas City Missouri đến New Orleans, Louisiana dài 900 dặm, tôi lái hai ngày một
đêm. Vừa lái vừa... cầu nguyện. Không phải cầu nguyện để
thành triệu phú cho sớm, mà cầu nguyện cho xe đừng hư dọc đường.
Thành phố New
Orleans lúc ấy, nói về phương diện và sinh hoạt của người Việt Nam tị nạn, là một
thành phố sầm uất, sống động, vui tươi như một cành hoa mới nở. Tôi
ngạc nhiên thích thú khi nhìn thấy những tiệm phở, quán nhậu, tiệm chạp
phô Việt Nam luôn luôn chật cứng khách hàng, dù người Việt Nam mình mới qua Mỹ
chỉ có 3 năm. Mỗi cuối tuần, ở một cái nhà hàng tên gọi là “Saigon
Kitchen” có mở ball, vé vô cửa 5 đồng một người. Ball có ban nhạc đầy
đủ, tuy tên tuổi không ai biết, nhưng hát nghe cũng được và toàn
là những bản nhạc hay nhất thời đó.
Thành phố New
Orleans bị chia đôi bởi dòng sông Mississippi nổi tiếng thế giới, một bên gọi
là Westbank, bên kia gọi là Eastbank. Đa số dân đánh cá Việt Nam dồn
hết ở bên Eastbank, sống theo từng làng, mỗi làng một khu, nhà cửa khang trang
ngon lành, với những nhà thờ, chợ búa, tiệm tùng vân vân. Hồi đó gái
thiếu trai thừa, ai muốn lấy vợ thì chỉ cần chịu khó … đi nhà thờ, trước sau gì
rồi cũng ẵm về nhà được một mụ vợ, đẹp xấu không phải là chuyện quan trọng đối
với những thằng lính lở thầy lở thợ như anh em chúng tôi. Có điều, lấy
em về rồi thì tối ngày em bắt … đọc kinh chết mẹ. Tôi chẳng ham.
Nhờ những móc nối
trước khi đi, tôi mướn được một căn phòng nhỏ với một gia đình Việt
Nam bên Westbank, giá 35 đồng một tháng. Phòng trống trơn,
không có giường, cũng chẳng có gì cả, ngoại trừ ... cái mùi ẩm mốc vì căn phòng
quá cũ. Chuyện nhỏ. Chuyện lớn là, tôi phải trở thành…
triệu phú.
“Muốn ăn phải lăn
vào bếp” là một câu tục ngữ của Việt Nam mà tôi đã áp dụng rất tận tình khi mới
xuống đây. Từ sáng sớm cho đến tối mịt, tôi lái xe qua khu Eastbank,
mất khoảng 45 phút, cà kê dê ngỗng và học hỏi và làm quen với những
người đánh cá ở đây, mục đích để tìm mua một chiếc tàu nhỏ và học thêm
cách... đánh cá của dân ở đây.
Cũng cần phải nói
thêm, ở đây cũng có nhiều lính Việt Nam mình ngày xưa, đặc biệt lính
nhảy dù, và dĩ nhiên, phải có lính Không Quân. Có một tay
phi công trẻ tuổi đẹp giai con nhà giàu, hào hoa phong nhã vô cùng tên là Nguyễn
Lập Đông, mở quán cà phê gọi là “Cà Phê Đôn”, bày biện đơn sơ nhưng trang nhã
và thanh lịch đúng điệu Không Quân. Nhưng trang nhã thanh lịch chỉ
được vào buổi sáng, buổi trưa, dân nhậu ùa vào, từ từ biến cái quán thành một
chỗ ồn ào náo nhiệt, văng tục chửi bới om sòm, chẳng thua gì cái chợ cá ngày
xưa. Lâu lâu cũng có… oánh lộn tùm lum, vui đáo để.
Cùng một tần số gặp
nhau cho nên dễ sinh chuyện... nhậu nhẹt. Nhiều hôm tôi nhậu xỉn,
không dám lái xe về và cũng không muốn ngủ nhà ai, tôi phải ngủ trong
xe. Sáng sớm, tay chân và mặt mày đỏ ừng lên vì bị muỗi cắn.
Sau 3 tuần lễ tìm
kiếm, tôi được giới thiệu một người có chiếc ghe đánh tôm muốn bán...
Người chủ
ghe, dưới cặp mắt nhìn của tôi lúc ấy còn trẻ, có thể gọi là một ông
già. Nghe nói ông sống độc thân, có chiếc ghe đánh tôm muốn bán
vì nghe thiên hạ xúi, muốn giải nghệ để đi ăn tiền chính phủ sướng
hơn, đỡ cực hơn. Đủ thứ tiếng đồn về ông như ngày xưa ông bỏ làng đi
lính cho Tây rồi lưu lạc giang hồ mấy chục năm, rồi lại trở về trước khi mất nước
nên mới đi được. Cũng có tiếng đồn ông ngày xưa ở Việt Nam đánh cướp
tàu để đi Mỹ. Toàn là những thứ tin đồn, chẳng biết hư thực ra sao,
nhưng chuyện này thì tôi biết rõ. Ai gặp ông cũng vái một cái kèm
theo một lời hỏi thăm, chứng tỏ ông là một người được thiên hạ kính nể, chứ
không phải phường đá cá lăn dưa.
Chúng tôi gặp
nhau ở ngoài một tiệm chạp phô.
Ông khá lớn tuổi,
nhưng vẫn còn tráng kiện với những bắp thịt, chẳng khác gì những người đánh cá
mà tôi gặp hằng ngày. Tôi để ý một điều là ông ít nói, chỉ hút thuốc
lá liên tục. Cổ ông có đeo một cái tràng hạt như nhiều người
Công giáo thời đó.
Tôi xin ông cho
tôi đi với ông ra khơi đánh tôm thử một chuyến trước khi nói chuyện
giá cả. Không hiểu tại sao, nghe như thế thì ông chủ tàu
nhìn tôi từ đầu tới chân một phát rồi nhăn mặt lại, nhưng cũng gật đầu đồng ý
cho tôi đi. Mãi sau này, sau chuyến tàu đi thử, tôi mới hiểu được
cái nhìn và cái nhăn mặt của ông ta...
Chúng tôi hẹn
ngày giờ gặp nhau ở bến Empire, nơi tàu đậu cách thành phố khoảng gần hai tiếng
đồng hồ lái xe.
Xin nói thêm ở
đây là tàu đánh tôm nhỏ hơn tàu đánh cá nhiều, nhỏ hơn và rẻ hơn cả chục lần,
nhưng nếu chịu khó, cũng kiếm tiền được dễ dàng. “Nhất phá sơn lâm,
nhì đâm hà bá” là một câu mà tôi vẫn luôn luôn tâm niệm hàng ngày lúc ấy.
Ngày hẹn, tôi đến,
tưởng đã sớm nhưng ông đã có mặt còn sớm hơn cả tôi, ngồi hút thuốc lá, tư
lự nhìn ra biển cả. Tôi vốn đã không thích nói nhiều, nhưng ông còn
ít nói hơn. Vì thế, sau cái bắt tay đơn giản, chúng tôi phóng lên
chiếc ghe của ông...
Lòng tôi tràn đầy
hy vọng. Như thế là ngày đầu tiên để trở thành triệu phú của
tôi bắt đầu từ hôm nay đây.
Nhưng cuộc đời
thường có những cái bất ngờ mà không một ai trong chúng ta có thể đoán trước được…
Chiều hôm đó, tôi
trở về căn phòng trọ, quần áo nặng mùi hôi thúi và dơ dáy tả
tơi, mặt mày hốc hác, tay chân bầm tím trầy trụa nhiều chỗ, bước
không muốn nổi, đi đứng nghiêng ngả như một thằng say rượu, thở không ra
hơi…
Bà chủ nhà vừa
nhìn thấy tôi bước vào đã vội đưa tay lên ... bịt mũi, quát to lên:
-Chú làm gì mà
mình mẩy quần áo hôi hám xú uế như thằng ăn mày vậy?
Biết thân phận
mình, tôi mắc cỡ nói nhỏ, dù chẳng muốn trả lời chút nào:
-Tôi đi...
đi mua tàu đánh tôm.
-Trời đất, đi mua
cái kiểu gì mà ghê vậy chú. Cha sinh mẹ đẻ tới giờ, tôi chưa bao giờ
thấy ai đi mua tàu mà... dơ dáy khủng khiếp như vậy. Thôi
thôi, ông làm ơn lẹ lẹ đi tắm rửa cho sạch sẽ đi, để tôi đi mở hết mấy
cái cửa sổ cho nó bay hết mấy cái mùi xú uế ông mới đem vào
nhà này...
Thật ra thì bà chủ
nhà khỏi cần nói, tôi cũng chỉ muốn chui vào phòng tắm để gột rửa cái thân thể
và bộ quần áo hôi hám của mình. Đúng hơn, không phải tôi chỉ muốn lột
rửa cái thân xác, tôi muốn lột rửa luôn cái giấc mộng làm triệu phú ... ngu dốt
và lố bệch của mình ...
Ôi, đời tôi sao
có nhiều chuyện ngu dốt đáng kể ra co con cháu nghe để mà tránh.
Chuyện xảy ra là
ông chủ tàu cứ tưởng tôi là một tay đánh cá lành nghề, muốn mua tàu đi làm
riêng, không hề biết ngày xưa tôi là lính, lại sinh ra và lớn lên ở Ban Mê
Thuột, miền cao nguyên xa tít, chẳng hề có dây mơ rể má gì tới sóng tới biển,
hay với tôm với cá. Nếu biết tôi xuất thân … bố láo như thế thì ông
đã chẳng bỏ thì giờ mà tiếp tôi, nói gì đến chuyện cho đi đánh tôm với ông.
Tôi đứng trên tàu
chỉ chừng 10 phút là đã thấy say sóng như vừa uống một két bia, đi đứng
không vững, nói gì đến chuyện quăng lưới bắt tôm. Thành thật mà nói,
tôi biết ngay, cái giấc mộng triệu phú của tôi đã tan thành mây khói ngay lúc ấy.
Tội nghiệp ông chủ
tàu, ông không hề biết chuyện này. Và dĩ nhiên, tôi cũng không dại
gì mà khai ra. Có lẽ, ông đã nhìn thấy cái tướng tôi thư
sinh mảnh khảnh, chẳng vai u thịt bắp như những anh đánh cá thứ thiệt, cho nên
ông mới nhăn mặt lại khi tôi muốn xin đi theo ông. Tuy nhăn mặt
nhưng, có lẽ vì muốn bán chiếc ghe, nên mới cho tôi đi theo.
Đến một lúc nào
đó, ông quăng lưới. Hai người chúng tôi kéo lên được một mớ tôm, cộng
thêm cua cá và rác rưởi đủ thứ. Rồi cũng đến một lúc nào đó, ông bảo
tôi quăng lưới cho ông.
Một lầm lẫn to lớn
vô cùng của cuộc đời ông.
Đáng lẽ ra thì
tôi nên thú thật rằng từ nhỏ tới giờ, tôi chưa bao giờ nhìn thấy cái lưới nó
như thế nào, nói gì đến chuyện quăng lưới. Nhưng tôi đã nhìn thấy
ông quăng lưới mấy lần, coi có vẻ chẳng khó khăn gì nên tính bắt chước, liều mạng
quăng thử một lần xem sao. Nếu quăng lưới được, biết đâu chừng, tôi
có thể trở thành một triệu phú thật. Ai bảo đánh tôm là khó, đánh
tôm dễ lắm chứ…
Tôi quăng thế nào
tôi chẳng nhớ, chỉ biết là cái lưới lại dính mẹ nó vào cái chong chóng chân vịt. Chiếc
ghe nhỏ tội nghiệp cà giật mấy phát rồi nằm xụi lơ, rên rỉ như một
con gà bị cắt tiết.
Lúc ấy tôi mới thấy
hối hận nhưng đã quá muộn rồi.
Tội nghiệp ông
già. Nhìn thấy chiếc ghe của mình như thế, ông muốn phát khóc lên, cặp
mắt trợn trừng, giận run lên từng đợt. Nhưng thay vì chửi thề
văng tục, hoặc đấm cho tôi một phát, ông ta cứ mở miệng than, hết “Lạy Chúa
tôi” rồi đến “Giê Su Ma”, rồi đến “Ối giời ơi” rồi đến “Khổ thân
tôi” vân vân ...
Nhưng giữa đại
dương mênh mông, trong hoàn cảnh đó, chúng tôi liền trở thành hai người bạn
thân thiết. Cả hai hợp tác nhau để gỡ lưới. Gỡ không kịp
thì lát nữa mặt trời lặn, sẽ chết chùm một lũ.
Lúc thì ông lặn
xuống biển mò mẫm, lúc thì tôi cũng nhảy tõm xuống biển phụ ông
ta. Có lúc, cả hai cùng mò mẫm dưới nước để gỡ lưới. Tôi
hối hận đến độ chẳng dám nhìn mặt ông già.
Rồi cũng đến một
lúc nào đó, sau khi đã gỡ lưới lên, chúng tôi ngồi xuống nghỉ
ngơi. Ông già mồi một điếu thuốc, hỏi tôi một câu mà đáng
lẽ ông phải hỏi từ khi chúng tôi vừa mới gặp nhau:
-Hỏi thật cậu, cậu
có phải là dân... đi biển không?
Dân đánh cá ở New
Orleans luôn luôn dùng danh từ “đi biển” để thay thế cho hai chữ “đánh cá”
nghèo nàn. Trong hoàn cảnh đó, tôi đành thú thật:
-Thưa không, bác
ơi.
-Lạy Chúa
tôi. Thế thì ngày xưa cậu làm gì?
-Thưa, cháu đi
lính.
-Lính Hải Quân hả?
-Dạ không, lính
Không Quân.
Ông già nức nở
như sắp khóc:
-Lính Không
Quân. Lính Không Quân thì biết cái quái gì về biển mà lại
muốn mua tàu đi đánh cá. Thế thì cậu giết tôi rồi. Sao mà
đời tôi lại bị xúi quẩy như thế này…
Nghe như thế thì
tôi chỉ muốn nhảy tùm xuống biển tự sát cho đỡ hối hận. Ông lại hỏi:
-Sao cậu... cuồng
thế? Cậu nghĩ sao mà cậu lại muốn đi mua tàu đánh tôm?
Chẳng lẽ lại nói
thật là tôi muốn mua tàu để ... trở thành triệu phú, tôi lắc đầu, lí nhí trong
cuống họng:
-Nghe nói nghề
này kiếm tiền dễ lắm, cháu muốn thử.
Ông chủ tàu lắc đầu,
làm như hết ý kiến với tôi. Ông nhìn ra biển, thở ra một hơi khói
thuốc lá thật dài như muốn thổi tất cả những sự bực tức và đau đớn khỏi
lòng mình ra khơi:
-Cuồng thật.
Tôi chỉ biết gật
đầu. Mình cuồng thật chứ chẳng chơi. Chẳng những cuồng mà
còn liều mạng và ngu dốt nữa.
Từ đó trở đi,
ông già không nói gì thêm nữa. Ông cứ lẳng lặng làm việc một
mình. Tôi cũng muốn phụ ông một tay nhưng hình như ông không còn muốn
cho tôi rờ vào bất cứ một thứ gì trong chiếc ghe của ông nữa. Tôi
cũng chẳng trách ông được chuyện này. Người ta chỉ dại một lần, ít
có ai dại đến lần thứ hai.
Lại đến một lúc
nào đó, sau chừng chục cú lưới, tôm cá bắt lên đã thấy nặng, ông ngừng tay, mở
cái hộp Iglo, đưa cho tôi một lon nước ngọt. Ông cũng không nói thêm
một lời nào. Chúng tôi ngồi uống nước trong im lặng, nhìn ra biển cả…
Giữa đại dương
mênh mông, nhìn ông già, tôi chợt nhớ lại truyện “Ngư Ông Và Biển Cả” (*) của
Ernest Hemingway mà tôi đã đọc ngày nào…
Câu chuyện Ngư
Ông và Biển Cả của Ernest Hemingway là một tuyệt tác của nhân loại,
dù chuyện rất đơn sơ. Cái ý chính của câu chuyện muốn nói về cái ý
chí khủng khiếp của con người…
Chuyện bắt đầu bằng
một câu đơn giản như sau: “Lão già ra khơi đã 84 ngày liên tiếp mà chẳng bắt được
một con cá nào cả.” (The old man has gone out to the sea
for 84 days without catching a fish.)
Nhưng cuối cùng,
lão cũng câu được một con cá thật lớn. Lớn nhất trong cuộc đời của
lão. Lớn đến độ nó vùng vẫy và kéo chiếc ghe nhỏ của lão ra biển
khơi trở lại. Một mình một một ghe giữa đại dương, lão cứ để mặc con
cá kéo lão đi. Chẳng cần biết đi đâu. Lão cũng chẳng sợ. Lão
biết trước sau gì thì con cá lớn cũng sẽ chết. Và lão sẽ
kéo nó về. Đúng như lão nghĩ, sau mấy ngày, con cá chết. Lão
giăng buồm, kéo con cá trở về bến. Nhưng đường dài quá, con cá chết
của lão đã bị những đàn cá mập tấn công. Chỉ trong khoảnh khắc, con
cá vĩ đại, chiến công lớn nhất của cuộc đời lão chỉ còn một bộ xương...
Nhưng lão ngư ông
chẳng hề lấy thế làm buồn. Lão đã cố gắng hết sức
mình. Lão đã chiến thắng, đã bắt được một con cá lớn nhất đời
lão. Nhưng trời phụ lão. Nó bây giờ chỉ còn là một bộ
xương khô vĩ đại...
Lão đã ra khơi với
hai bàn tay trắng, sau gần tuần lễ vật lộn với gió biển, với con cá khổng lồ và
đã chiến thắng nó, nhưng cuối cùng lại trở về bến với hai bàn tay trắng.
Nhưng lão vẫn tỉnh
bơ, chẳng coi chuyện đó là quan trọng. Cái quan trọng là
lão đã cố gắng, đã làm hết sức mình. Còn được hay không, là do số mạng.
Tôi không biết
ông lão là một Ngư Ông và Biển Cả, hay chính tôi là một Ngư Ông và Biển Cả. Có
thể cả hai.
Cái đau đớn của
tôi là ngày hôm ấy, tôi biết là mình sẽ không trở thành triệu phú được. Nhưng
ít nhất, tôi cũng đã thử. Bây giờ, 45 năm đã qua đi, ngồi nghĩ lại,
tôi chẳng thấy có gì phải hối tiếc cả.
Ngày hôm sau,
không còn bị giấc mộng triệu phú ám ảnh nữa, tôi ghi tên đi học tiếp và đi làm
lao công nhặt rác ở một xưởng đóng tàu địa phương…
Rồi thời gian qua
đi, tôi cũng lớn lên và trưởng thành và khôn đi theo năm tháng. Cái
giấc mộng triệu phú, tôi tưởng đã tan thành mây khói kể từ ngày đó, té ra vẫn
còn nằm ở một chỗ nào đó trong trái tim mình. Nhưng, cuối cùng, tôi
cũng đã không bao giờ thực hiện được giấc mộng ấy.
Tuy không thành
triệu phú được, và cũng không biết mình có thành Nhân được hay không như người
xưa thường nói. Nhưng tôi biết tôi đã trở thành một con người tử tế,
sống lương thiện, biết giữ đạo làm người, làm tròn bổn phận của một người chồng,
một người cha, theo đúng cái châm ngôn trong một bài đọc ở Tiểu Học mà Cụ Tú
Lãm đã truyền lại cho con cháu mình như sau:
“Thầy chết đi, chẳng
có của cải gì, chỉ có ba thứ gia bảo quý giá sau đây để truyền lại cho các
con: Một là giữ lòng vui, hai là giữ linh hồn trong sạch, và ba là
đem hết nghị lực ra làm việc.”
Tôi không phải là
con của cụ Tú Lãm, nhưng suốt đời tôi, luôn luôn lấy ba điều dạy dỗ đó làm căn
bản để mà sống ở đời. Những lúc tủi cực đắng cay, tôi luôn luôn giữ
lòng vui, những lúc đắc thời, tôi luôn luôn giữ linh hồn trong sạch, và từ lúc
mở mắt cho đến lúc đi ngủ, tôi luôn luôn làm việc bằng tất cả nghị lực của
mình. Dĩ nhiên, ngoại trừ những lúc đi … ăn nhậu.
Tôi đã lập gia
đình, đã sinh con đẻ cái, đã làm lụng cực khổ ngày đêm ở cái thành phố yêu dấu
này. Ngày mùng 1 tháng 2 năm 2021, sau khi về hưu được đúng một năm,
tôi lâm trọng bệnh, tưởng đã đi luôn. Nhưng không
đi. Ngày 31 tháng 8 năm 2021, hai ngày sau khi thành phố tôi bị bão
Ida tàn phá, vợ chồng chúng tôi rời New Orleans, trực chỉ Cali, một nơi chốn mà
tôi rất ghét và khinh bỉ ngày xưa.
Buổi chiều ngày vợ
chồng tôi lái xe đi, cả New Orleans và vùng phụ cận vẫn còn chìm trong bóng tối
vì bị cúp điện. Đó đây vẫn còn đầy dẫy dấu tang thương của sự tàn
phá. Nhà cửa tróc nóc siêu vẹo tơi tả, cột điện gãy nằm đầy đường...
Quẹo xe lên xa lộ
I-10 West, trực chỉ Cali, hai hàng nước mắt tôi bất ngờ đã chảy ra, chan hòa.
Tôi thấy bỏ thành
phố này mà đi như thế là có tội. Có tội như ngày xưa tôi đã bỏ nước
ra đi, nhưng không thể nào làm khác hơn được…
Bao nhiêu người
dân New Orleans, trong đó có gia đình con cái tôi, có anh em dòng họ nhà tôi,
đang chìm đắm trong đau khổ, sao tôi không ở lại để chia sẻ những đau thương mất
mát này với họ? Nhưng khổ một cái, nhà không có điện, nghĩa là không
có gì cả, tôi còn đang bị ung thư chữa chưa lành, làm sao tôi có thể sống được? Thật
ra thì chúng tôi đã chuẩn bị hành trang từ cả năm qua, đã chuẩn bị nhà cửa sẵn
sàng bên Cali, và cũng đang dọn nhà, nhưng bị bệnh ung thư nên kẹt lại, bây giờ
sẵn cơn bão, thôi đành đi luôn.
Tôi đã khóc thật. Tôi
thấy thương và tội nghiệp New Orleans quá. Tại sao tôi phải bỏ một
thành phố mà đi trong lúc nó đang bị hoang tàn đổ nát như thế
này? Tôi thấy thương từng người Mỹ đen, Mỹ trắng, người Mễ và Việt
Nam ở đây. Nơi đây, tôi đã sống và lớn lên cùng với họ. Tôi
đã chia sẻ với họ trăm cay nghìn đắng của cuộc đời trong một thành phố tuy nổi
tiếng thế giới nhưng rất nghèo, rất dơ bẩn và đầy dẫy tội ác. Tôi đã
chia sẽ với họ những khắc nghiệt của thời tiết, những cơn bão tàn độc khủng khiếp
của mẹ thiên nhiên, những mùa hè cháy nắng, những mùa đông lạnh
cóng. Tôi cũng đã chia sẻ những giây phút hạnh phúc sung sướng với
những buổi lễ lạc như Mardi Gras, vân vân. Tôi đã kiếm được những đồng
tiền quý hiếm, bằng mồ hôi nước mắt của mình để nuôi vợ nuôi con ở thành phố
này. Tôi nhớ lại những ngày khởi đầu phải xin vào làm lao công cực
khổ ở xưởng đóng tàu thành phố. Tôi nhớ lại những thảm cỏ xanh rì rì
mát rượi với những cây thông già ở trường UNO mà tôi đã nằm ngủ như chết vì quá
mệt. Những người bạn lính, những chiến hữu trong đoàn thể mà tôi đã
kết thân ở thành phố này. Những cuộc nhậu nhẹt thâu đêm suốt sáng
khi mình còn trẻ, những trận cười nghiêng ngửa, những bài hát Karaokê trong cơn
say hay đến ngọt lịm con tim. Những vui buồn, sướng khổ, có đủ mà
tôi đã sống và đã chia xẻ với họ…
Tôi sinh ra và lớn
lên ở Việt Nam chỉ có 24 năm, nhưng tôi đã ở thành phố này đến 44
năm. Gần gấp đôi thời gian tôi ở quê hương Việt Nam. Đã
làm người, thử hỏi, ai có thể quên được một nơi chốn mà mình đã sống gần nửa thế
kỹ với không biết bao nhiêu là kỹ niệm như thế? Nơi đây, các con tôi
đã lớn lên và trưởng thành. Nơi đây, tôi đã dựng vợ gã chồng cho
chúng nó. Nơi đây, tôi đã sống những giây phút cay đắng cũng như tuyệt
vời nhất của đời mình. Nơi đây, tôi, từ một thanh niên trẻ tuổi, tôi
đã trở thành một ông già. Một ông già… may mà còn sống được…
Nơi đây, thành thật
mà nói, tôi đã bỏ lại linh hồn mình. Đúng hơn, chỉ một nửa linh hồn
thôi. Còn nửa kia, vẫn còn lãng du ở một nơi chốn nào đó bên kia bờ
biển Thái Bình Dương, ở một vùng cao nguyên đất đỏ nằm trên rặng Trường Sơn tên
gọi là Ban Mê Thuột…
Ôi, New Orleans
yêu dấu, sao tôi nỡ bỏ ngươi cho đành…
Tâm địa rộng
rãi bao la như Trời Đất thì bao bọc được cả muôn loài.
(Hàn Thi Ngoại
Truyện)
Trường Sơn Lê
Xuân Nhị
