nhà cũ tôi về tìm lại chỗ
ấu thơ tôi giấu những hòn bi
có con dế ốm bò quanh quất
lối mòn khép lại nẻo thiên di
(Trích thi khúc "Về", cùng tác giả.)
Năm ấy, thoạt đầu chỉ là một khoảnh đất nện tráng xi-măng
cao gần nửa thước xây bên hông ngôi nhà hương hỏa dòng họ Mạc, nằm cạnh hàng
rào bùm sụm, chỗ có con lạch và lối đất ngoằn ngoèo cắt dọc ngang những thửa ruộng,
dẫn về làng mạc xa xôi. Tiếp theo là những cột kèo bê-tông cốt sắt, những tường
vách gạch nung, tráng xi-măng. Sau đó là mái ngói đỏ lợp âm dương, rực rỡ những
ngày nắng, âm u buồn bã những ngày mưa.
Trước cửa nhà và hai khung cửa sổ là hàng hiên rộng thoáng. Ban-công nhà đắp xi-măng, bệ rộng, dùng chưng bày cây cảnh. Cửa chính bốn cánh, sơn nâu sẫm, đánh vẹc-ni bóng loáng, lắp ổ khóa đồng đen, đính khoen chạm đầu sư tử, cho khách gọi cửa. Lúc thợ tới lắp ổ khóa và thử âm thanh, có mặt Tường ở đó. Chú thợ phải lắp vào tháo ra, tẩn mẩn thử tới thử lui, cho tới khi âm thanh dộng cửa trở nên trong trẻo, bật tiếng vang, chú mới ưng ý.
Sau khi tường vách khô ráo, tới lượt một toán thợ sơn tới
thi công. Hai lớp vôi trắng làm nền, phủ thêm hai lớp vôi chính màu bánh trứng.
Rồi những ô cửa sổ được lắp khung chấn song sắt hoa văn uốn lượn, cánh lá sách
sơn nâu, xây thêm bệ cửa lót gạch nung.
Đâu đã xong. Vài tuần sau, có chiếc xe hàng chở tới từng chồng
gạch bông, chất trong sân nhà. Bữa sau, bốn thợ hồ, ba nam một nữ, tới lót sàn.
Tường nghe họ nói với nhau, gạch tráng men loại thượng hạng từ Sài Gòn chở xuống.
Gạch trơn, màu mỡ gà, óng ả tựa nắng sáng ngày đầu năm.
Sau cùng, bốn vách nền đất được cẩn thêm một lớp đá xanh.
Thêm một bậc tam cấp và một lối đi lót hai hàng gạch tàu dẫn ra khung cửa sắt
hình vòng cung, hoa văn uốn lượn, sơn màu nâu đồng.
Tường để ý thấy, mỗi khi thợ tới xây nhà, đều có mặt ba, với
quyển sổ nhỏ và máy chụp hình cầm tay. Ba ghi chép, chụp ảnh chỗ này chỗ nọ,
trao đổi ý kiến cùng nhân viên xây cất, từng chi tiết một.
***
Câu chuyện về ngôi nhà mới, từ ngày đổ móng, làm nền cho tới
lúc xây xong lối đi riêng, lúc nào cũng là đề tài cho ba má Tường trao đổi
trong những bữa cơm.
"Tui ưng bụng lắm rồi, nhưng không biết chú Sáu Bá nó
có vừa ý không nữa?", ba nói.
"Ông có hỏi ý kiến chú mỗi khi thợ khởi công không vậy?",
má hỏi.
"Có chớ. Chú Sáu đồng ý, tui mới cho làm. Làm xong tới
đâu, tui đều chụp hình gởi cho chú coi."
"Vậy được rồi. Chú Sáu dễ tánh mà." Rồi má hỏi
thêm: "Chú có nói, bao giờ chú về không vậy ông?"
"Sau mùa mưa tới. Không chừng, nếu chuyện giấy tờ, nhà
cửa bên đó xong sớm, chú về cuối mùa nắng", ba trả lời, rồi gác đũa ngang
miệng chén, đẩy ghế đứng lên, vội vã: "Tui qua coi thợ lót gạch nền nhà
chút."
Bấy giờ Tường mới rụt rè cất tiếng: "Chú Sáu là ai vậy
má?"
"Chú là em út của ông nội con", má đáp, rồi thấy
ánh mắt Tường lộ vẻ bối rối, bà nói thêm: "Chú được ông bà cố nội cho qua
Tây học lúc còn trẻ. Học xong chú ở lại, không về. Có bao giờ chú liên lạc thăm
hỏi gì đâu. Tự dưng năm rồi chú biên thơ cho ba con, hỏi chuyện bà con nội ngoại
và miếng đất hương hỏa, rồi ngỏ ý muốn về đây hưởng già, bỏ tiền nhờ ba con xây
một ngôi nhà nhỏ trong miếng đất nhà mình. Ờ, con với lại mấy đứa kêu chú bằng
ông chú nha không!"
"Chú có vợ, có con không má?", chị Hai của Tường hỏi.
"Chú có nói, vợ chú bị bệnh gì đó chết mấy năm rồi, để
lại cho chú hai người con, một trai một gái, đã có gia đình, ra riêng hết rồi."
Tường chép miệng:
"Phải chi con của ông chú còn nhỏ, về đây chơi chung với
con cho vui."
Chuyện kể về ông chú có tên Sáu Bá mà Tường chưa một lần gặp
mặt vỏn vẹn ngần ấy chi tiết. Tường nghe xong, không nghĩ ngợi gì thêm. Có điều,
mỗi khi qua coi mấy chú mấy cô thợ làm nhà, trí tưởng tượng Tường không khỏi vẽ
vời hình ảnh một ông chú ở tận trời Tây xa lắc, sắp sửa về đây, sống cận kề
trong ngôi nhà xinh xắn này. Ông chú Sáu chắc hẳn già lắm, đầu tóc bạc trắng hoặc
sói sọi, láng lẩy như cái mõ đồng úp ngược. Biết đâu chừng ông ở bên đó lâu
năm, quen ăn bánh mì bơ phô-mai, uống toàn rượu nho, nên mọc thêm bộ râu quai
nón, cũng bạc trắng như tóc, y hệt mấy ông Tây già thấy trên màn ảnh vô tuyến.
Và ông không còn nói được hoặc chỉ bập bẹ tiếng Việt, lơ lớ âm giọng sắc huyền
hỏi nặng.
Qua tháng mười, thời tiết thưa dần những cơn mưa chiều. Tường
ngủ dậy, lúc ngày chưa thức. Ra sau đánh răng rửa mặt, sửa soạn đi học, Tường
thấy ruộng đồng phía sau nhà còn nhạt nhòa bóng tối. Côn trùng vẫn còn say sưa
tấu khúc đêm. Sương sớm bảng lảng đây đó. Thời tiết se se lạnh. Trong chái bếp
đèn điện tù mù, chị Hai đang chuẩn bị bữa ăn sáng. Hương cà-phê thơm thoảng
không gian tịch mịch. Tiếng ly chén khua động, dè dặt, rón rén, như sợ đánh thức
thời khắc biếng nhác, chưa muốn dậy.
Như mọi bữa, Tường vừa đánh răng vừa day mặt ngó ngôi nhà
ông chú Sáu Bá đã xây xong trước mùa mưa, nằm lặng lẽ trong bóng ngày nhá nhem.
Ngôi nhà mới luôn luôn khóa kín, mỗi ngày đều được ba qua mở toang cửa nẻo cho
thông thoáng, cứ vài bữa lại lau cửa sổ và quét bụi sàn nhà. Hôm nào bận việc,
ba kêu Tường làm thay. Tường thích lắm, cứ loanh quanh hết hiên trước tới sân
sau, lui cui một mình trong gian nhà trống trải, lạnh hơi người. Tường vôi, mái
ngói chưa biết muộn phiền chuyện mưa nắng. Sàn gạch bông chưa một lần thao thức
chờ chân người. Mọi thứ còn gây gấy mùi hóa liệu, khơi dậy lập lòe trong trí Tường
những hình ảnh đã có lần thấy trong truyền hình. Cảnh sân ga vắng người, đêm
đèn vàng khuya khoắc. Đại lộ đêm ngược xuôi hai luồng ánh sáng đỏ trắng. Một
chiếc cầu vạm vỡ vắt ngang dòng sông mù sương. Dãy đèn điện soi sáng những tượng
người lõa thể, sóng soài lan-can cầu. Bậc cấp ngất ngưỡng dẫn lên tòa giáo đường
sơn trắng, mái úp, trên đỉnh đồi sắc trời xanh thẳm. Và bất cứ nơi đâu, đều thấy
thấp thoáng bóng dáng một người đàn ông đeo kính, đầu tóc bạc trắng, quần áo lịch
lãm, dáng dấp khỏe mạnh, … Có phải đó là ông chú Sáu Bá sắp sửa trở về, phà luồng
sinh khí sống động cho tường vách và đêm ngày quạnh quẽ nơi đây?
***
Một xế trưa nắng rực, cả nhà còn đang yên giấc trưa, chợt
nghe tiếng chó sủa vang, tiếp theo là tiếng chuông ba hồi gióng giả. Ba kêu chị
Hai ra mở cửa. Lát sau, chị hấp tấp chạy vô, gọi lớn:
"Ba ơi, có hai xe chở hàng. Ba ra nói chuyện với người
ta!"
Ba lật đật xuống giường, xỏ dép, bước ra. Tường cùng anh chị
cũng vừa tỉnh ngủ, hối hả theo sau. Trước cửa nhà, hai xe hàng chất đầy những
thùng cạc-tông lớn nhỏ và nhiều kiện gỗ, nẹp thép kỹ lưỡng. Tường nghe loáng
thoáng chú tài xế nói chuyện với ba:
"Hàng bên Tây gởi về… Người gởi là.. à.. à… tên tiếng
Tây, tui đọc không ra… Người nhận là Mạc văn Quân… Ông là ông Quân phải
không?... Vậy ông ký tên nhận hàng vô đây… Mở cửa cho xe lùi vô sân được không
ông?... Hàng nặng lắm… Để tui kêu tụi nó lấy xe đẩy vô…"
Phải mất hơn hai tiếng đồng hồ, mấy chú chở hàng mới đem hết
mọi thứ xuống xe. Những thùng cạc-tông được khuân vô chất đầy gian nhà trống.
Những kiện hàng lớn phải để tạm ngoài sân.
Xong xuôi, ba dúi vô tay chú tài xế vài tờ giấy bạc, dặn dò:
"Sáng mai mấy chú ghé ngang, tháo giùm mấy kiện hàng,
tui sẽ đưa tiền cà-phê." Rồi day qua đám con xúm xít vây quanh, ông cất giọng:
"Đồ đạc cho nhà mới của ông chú Sáu Bá tụi bây từ bên Tây gởi về."
Rồi, chỉ một tuần sau đó, gian nhà lạnh hơi người được bàn
ghế tủ giường gởi về từ nơi xa hà hơi ban tặng phần linh hồn sống động. Mọi thứ
toàn bằng gỗ thiệt, lạ mắt và vững chắc. Có cả một tủ, nhiều ngăn, dùng chưng
bày sách, và ba thùng cạc-tông nặng trịch, ghi hàng chữ "Sách". Ba
nói trổng:
"Để đó, chờ chú Sáu về cất lên kệ."
Có một món đồ rất bắt mắt, Tường không biết dùng làm gì, được
ba nâng niu đặt lên mặt tủ thấp dựng cạnh cửa sổ. Ngó kỹ, thấy cái nhãn hiệu
trên mặt gỗ in hình trái địa cầu và người đàn ông trần trụi trong tư thế lực sĩ
ném dĩa, một dải khăn in hàng chữ Tây che ngang bụng, tay cầm cái dĩa đen ngộ
nghĩnh. Hỏi thì ba nói:
"Đó là cái máy hát dĩa, muốn nghe, phải ráp thêm cái
loa có trục gắn đầu kim, rồi lắp cái dĩa này vô…", ba chỉ tay qua thùng cạc-
tông ghi hàng chữ "Dĩa hát. Dễ bể!", "…quay cái cần này cho dĩa
chạy. Xong xuôi, từ từ hạ đầu kim xuống, máy sẽ phát ra tiếng."
"A, máy hát dĩa!", Tường kêu lên.
"Đúng rồi, máy hát dĩa kiểu xưa", ba nói thêm.
Rồi, vừa khi thời tiết trở mình, trời chiều thường giăng mây
xám, trút xuống cơn mưa ấm đầu mùa, ông chú Sáu Bá về ngụ trong ngôi nhà thơm
tho gạch ngói mới.
Ngay lúc đầu tiên thấy ông từ xe khách bước xuống, Tường
không khỏi bỡ ngỡ vì lạ mắt. Trông ông không giống bất kỳ người đàn ông cao
niên nơi đây. Vóc dáng ông cao lớn, da dẻ hồng hào, tóc bạc trắng để dài, sợi
dây thun túm lại thả sau gáy. Ông đeo kiếng trắng, bộ râu mép tỉa khéo, cũng bạc
như tóc. Trong bộ y phục quần dài và áo tay dài trắng, chân đi xăng-đan, tướng
tá, điệu bộ y hệt một ông Tây. Cả cách nói chuyện và chào hỏi của ông cũng
khác. Ông bắt tay ba má, ôm và hôn má từng người một. Trong vòng ôm của ông
chú, Tường bắt được mùi mồ hôi mới trộn lẫn hương dầu thơm gây gấy nam tính. Giọng
nói ông chầm chậm, trầm đều, nghe như có tiếng vang. Cách phát âm và cách dùng
chữ tiếng Việt của ông tương đối rõ ràng, chính xác, không như Tường nghĩ trước
đó.
Chào hỏi xong xuôi, ông day qua, ngó thẳng vô mắt Tường, xẵng
giọng:
"Bất cứ lúc nào con thích, con qua nhà ông chơi cho
vui."
Tường đỏ mặt, chỉ biết ấp úng "dạ, dạ". Lòng Tường
dưng không bật lên những cảm xúc háo hức như vừa mở trang sách mới.
Một chiều mưa, lúc Tường đang ngồi học bài, chợt nghe lẫn
trong tiếng mưa rơi văng vẳng âm thanh là lạ. Tường ngẩng mặt, dỏng tai nghe
ngóng. Tiếng đàn và giọng nữ thánh thót một giai điệu tây phương. Tường bỏ
ngang chuyện học, đội mưa chạy qua nhà ông chú. Ông đang ngồi trong hiên nhà uống
trà, uống cả luồng thanh âm phát ra từ chiếc máy quay dĩa vang vang qua khung cửa
mở. Hai mắt ông nhắm nghiền, bất động như tượng. Khi Tường nhỏ nhẻ cất tiếng
chào, ông mới mở mắt, nhoẻn cười tươi tắn.
"Con vô lấy ly, mở tủ lạnh, rót nước uống. Có mấy lon
nước ngọt. Rồi con ra đây ngồi chơi với ông."
Hai ông cháu ngồi lặng lẽ bên nhau đỗi lâu, Tường mới cất lời,
lắp bắp như sợ phá vỡ chút gì mỏng manh:
"Ông chú nhớ.. nhớ… bên bển, pha.. ai... ải…
không?"
Ông chú Sáu chỉ gật đầu, không nói. Để rồi, khi giọng người
đàn bà tây phương cất lên một ca khúc khác, Tường mới nghe ông thều thào hát
theo. Ngôn ngữ và nhạc điệu, giọng hát lạ tai, nhưng trong khoảnh khắc này, ngắm
nhìn nét mặt ưu tư cùng tiếng thầm thì phụ họa của ông chú, bất giác cõi lòng
Tường dâng trào nỗi xúc động khó diễn tả. Sau khi người ca sĩ dứt tiếng, ông mở
mắt, ngó ra cảnh đất trời giăng mưa rũ rượi, hai dòng lệ bất giác lăn xuống má.
Tường hoang mang nắm lấy tay ông úp trên bàn. Bàn tay nhỏ không khép trọn lưng
tay đầy đặn, in hằn vài đường gân xanh già nua của người đàn ông.
Cơn mưa chiều ấy kéo dài tới giữa khuya mới tạnh. Tường
quanh quẩn bên ông chú cho tới khi nghe má gọi mới ra về.
***
Giờ đây, sau nhiều thập niên dài, mỗi khi ngồi uống trà chiều
trong hiên nhà đặc quánh ký ức này, tôi không khỏi liên tưởng chiều mưa năm
nào. Thuở ông chú Sáu Bá còn sống. Và nhớ. Không nguôi. Không những nhớ giọng
nói, tiếng cười, nét mặt dàu dàu và hai hàng nước mắt của ông khi nghe ca khúc
tiếng Tây chiều hôm ấy, mà luôn cả những sở thích riêng tư của ông. Thích mặc
quần dài, áo sơ-mi trắng. Thích đi ngắm cảnh nhóm chợ mỗi sáng sớm. Thích uống
trà nóng mỗi chiều. Thích ngồi một mình ngắm trăng những đêm rằm…
Ông chú Sáu Bá qua đời sau bảy năm về lại quê nhà. Trong di
chúc, tôi là người độc nhất thừa hưởng ngôi nhà cùng tất cả đồ đạc nội thất,
cũng như mớ tài sản ông dành dụm trong ngân hàng. Trong những món đồ vật của
ông để lại, tôi yêu nhất cái máy quay dĩa hiệu Pathéphone gắn cái loa hình bông
huệ kèn khổng lồ màu ngà, mà tôi vẫn còn giữ cho tới bây giờ. Luôn cả chồng dĩa
hát xưa rích xưa rang, nặng trịch, trầy xước chằng chịt.
Sau đó, tôi biết ra, ca khúc tiếng Tây đã làm ông rơi lệ chiều
mưa nào có tựa "La Vie en Rose", người hát là Edith
Piaf.
"Des
nuits d’amour à plus finir, un grand bonheur qui prend sa place, des ennuis,
des chagrins s’effacent, heureux, heureux à en mourir… C’est toi pour moi, moi
pour toi dans la vie. Tu me l’as dit, l’as juré pour la vie…"
Có điều, tôi vẫn
không, sẽ không bao giờ hiểu, chiều ấy vì lẽ gì ông khóc.
Ngô Nguyên Dũng
