07 October 2023

ĐÁM BẠN NHỎ (MANGE SMÅ VENNER) - Jostein Haraldsen | Dương Kim biên dịch

Jostein Haraldsen sanh năm 1955. Năm 1983 cuốn tiểu thuyết đầu tay của ông, Himmelen Tar Alle, ra đời gây cho người đọc hồi hộp, từng chữ một. Cuốn tiểu thuyết thật sự nói lên một chân lý về cuộc sống sinh tồn: năng xuất chỉ tăng khi con người được no đủ.

Jostein Haraldsen cũng gây chấn động cho người thưởng ngoạn văn học, qua cuốn Fødselsflammen, với những hình ảnh sinh nở của người phụ nữ, qua từng giai đoạn một. Chuyện kể một cặp vợ chồng, từ việc kín đáo ở phòng the, đến các vấn đề mà con người băn khoăn hàng ngày. Jostein Haraldsen diễn tả cuộc chiến đấu sống còn, con người đã vui sống và làm cho cuộc sống được vươn lên từ nỗi tuyệt vọng, bất lực.

Truyện ngắn Đám Bạn Nhỏ cũng là cuộc chiến đấu, dù giữa hai vợ chồng, để giành lấy ý nghĩa cuộc sống, chứ không phải dành giật cuộc sống.

***
Ngồi trong phòng khách với vợ, ông Herbert lo làm bộ sưu tập côn trùng. Ông cầm con bọ hung sọc vàng, giữa ngón tay cái và ngón tay trỏ, soi lên ánh sáng. Ông lật qua lật lại con vật, trong lúc nghiên cứu, để gần sát chiếc kính lúp nhỏ màu đen, đeo ở một bên mắt. Ông đâm cây kim gút xuyên qua lưng con bọ hung, rồi gắn vào chỗ trống ở bộ sưu tập. Các con côn trùng của ông được xếp đặt, có hàng có lối, kim gút được cắm vào từng con dọc theo tấm bảng gắn, mỗi con côn trùng được đặt vào chỗ cố định, và mỗi chỗ được đính một miếng giấy nhỏ ghi tên con vật bằng tiếng La-Tinh.

Ông đặt miếng kiếng vào bảng côn trùng, rồi treo cả bộ sưu tập lên tường. Ông Herbert và bà Marie có một phòng khách lớn, nhưng trên tường không treo một bức tranh nào. Hết khung kiếng này đến khung kiếng khác, đầy côn trùng, che kín cả tường phòng khách, không còn chỗ nào để dành cho hình gia đình, hay tranh ảnh.

Herbert đi tới cửa nhà kho. Ông cầm lấy quả nắm xoay cửa.

- Giờ anh còn xuống nhà kho nữa hả?

Bà Marie đặt tờ báo xuống, gỡ mắt kiếng nói:

- Thật ra anh làm gì ở dưới đó vậy?

Herbert đứng lại, tay vẫn cầm quả nắm cửa, đầu gối quần dính trắng những bụi nhà kho. Ngày nào ông cũng xuống đấy.

Ông nói: «Bộ em muốn nhắc lại chuyện đó sao?»

Khi ông mở cửa, bà Marie liền đứng dậy, rời khỏi ghế sa lông, nói:

- Em chắc là anh đã làm chuyện gì nguy hiểm ở dưới đó. Bây giờ em phải coi cho biết mới được!

- Chỉ có vài con côn trùng thôi mà. Vài con côn trùng, thường thôi ấy mà.

- Ôi, em ghét mấy cái con côn trùng của anh lắm! Chúng không còn sống đấy chứ?

- Marie, em bình tĩnh lại nào. Có chi đâu mà nổi sùng lên với mấy con vật đáng thương vậy!

- Herbert, trong nhà mình có côn trùng sống sao?

- Trời ơi, Marie, chỉ có mấy con kiến thôi mà! Anh bảo đảm với em chẳng có gì nguy hiểm cả! Xuống nhà kho, em sẽ thấy. Chúng bị nhốt hết rồi.

Marie theo sau Herbert xuống cái phòng mà thường lúc nào cũng bỏ trống. Cửa khóa, và vết nứt trên cửa được bít kín bằng dải giấy dài. Ông mở khóa rồi họ đi vào. Căn phòng ẩm lạnh và trống trải, họ phải bật đèn lên mới thấy rõ được, phòng không có cửa sổ nên ánh sáng không thể lọt vào được.

- Em chẳng nhìn thấy con kiến nào, Marie nói. Bà ngồi xổm, và tìm kiến trong bụi bặm.

- Cứ chờ chút nữa rồi em sẽ thấy chúng tới.

Ông đặt một cây bút, trước mũi giầy, ở khoảng giữa sàn.

Ông nói:

- Kiến là cái giống ngu đần. Bộ óc nó nhỏ xíu, sống chỉ làm được mấy cái việc nhất định thôi. Chúng chẳng bao giờ biết suy nghĩ, và không biết một cái chi hết. Hãy chú ý:

Ông dậm chân xuống sàn nhà hai lần rồi hô: Tới!

Ngay lúc đó, quanh căn phòng bị chuyển động. Những con vật nhỏ bắt đầu cử động khắp mọi nơi, chúng tiến chậm vào giữa sàn, chỗ đặt cây bút.

Marie nói:

- Nhiều quá, hàng trăm con!

Lũ côn trùng dần dần bò gần tới cây bút. Chúng xúm lại thành hàng đen và nhỏ, bò êm ả trên sàn xi măng. Tới cây bút, chúng dừng lại. Chúng dồn vào thành một cục đen, mỗi lúc một tụ thêm đông.

Marie nói:

- Em chưa từng thấy!

Chỉ có vài con bò ở vòng ngoài, tự chúng chẳng biết đi đâu. Rõ ràng chúng không nghe lệnh lúc Herbert dậm chân hai lần xuống sàn và hô: «Tới!», đáng ra chúng phải đi tới giữa nhà. Ông di nát mấy con kiến đó như người ta thường di mấy mẩu tàn thuốc lá vậy.

Ông nói:

- Huấn luyện chúng không khó lắm như người ta tưởng. Anh chỉ mất vài tháng làm việc đó. Ngoài thiên nhiên, chúng thường nhận những nguồn cảm hứng để làm nhiều trò. Chúng chẳng hiểu tại sao phải gãi kiến chúa, kiến chúa mới đẻ trứng. Chúng cũng chẳng hiểu tại sao cứ phải bò tới cây bút này. Chúng chỉ biết nghe anh gọi và dậm chân rồi chúng tới.

Ông dùng tay gảy mấy con kiến bị di nát ở dưới sàn, thả vào đám kiến sống. Ngay tức khắc xảy ra những vụ tranh giành, coi con nào sẽ được ăn mấy con kiến chết. Kiến bò lên nhau thành một đống đè lên mấy con chết. Ăn xong, kiến tản mát dần.

- Sao, em hiểu anh nói gì không?

Ông quay mặt hướng về bà hỏi. Bà đứng cạnh tường, tỏ vẻ sợ sệt. Ông nhìn thấy rõ trong ánh mắt bà rất sợ mấy con này. Bà luôn nhìn xuống để coi có con kiến nào bò tới bà không.

Bà nói:

- Em hiểu chứ!

- Không, em không hiểu anh đâu. Em lúc nào cũng chê bai mấy con côn trùng của anh mà. Em không hiểu gì hết.

Ông đi tới đóng cửa lại. Vặn một vòng khóa, cửa khóa lại.

Marie sợ. Bà bắt đầu chà bàn tay này qua bàn tay kia. Khi sợ chuyện gì, bà vẫn làm thế.

Ông thì thích thú.

Ông vẫn thường khoái nhìn bà như thế, tay trong tay, sợ.

- Đừng khóa cửa. Em không thích bị nhốt với mấy con vật này.

- Nhưng chúng đâu có nguy hiểm gì. Em không sợ đấy chứ?!

Nhìn bà, ông nhướng mắt ngạc nhiên.

- Thôi Herbert à!

- Em phải làm quen với mấy con vật nhỏ này đi. Khi quen, em sẽ thấy chẳng có gì đáng sợ cả. Nên anh phải khóa cửa lại đó.

Ông rút chìa khóa ra, đi tới chỗ đàn kiến vẫn còn bò cạnh cây bút.

- Bây giờ em coi anh đã dạy chúng điều này: ĐI!

Lần này ông dậm chân xuống sàn xi măng ba lần, đàn kiến bắt đầu rối loạn. Tựa như chúng hiểu có chuyện xảy ra, nhưng lại không biết chuyện gì. Có con bò đây đó, không phương hướng nhất định. Có con thì cứ chạy toán lên. Rồi bỗng có vài con như hiểu, chúng từ trong đàn xông ra thành một hàng. Rồi tất cả bò theo. Bây giờ đàn kiến cùng đi theo hàng, theo lối về một hướng. Chúng bò thẳng tới bà. Herbert đã cố tình điều khiển chúng đi về một phía, hướng về Marie. Ông đứng dạng chân sau đàn kiến, theo dõi Marie. Ông để ý thấy ánh mắt bà cứng đơ, kinh sợ, bà theo dõi mấy con kiến dẫn đầu. Đầu bà hơi rung. Chắc chắn ông đoán không sai, Marie sợ kinh khủng.

Bà la lên:

- Quay chúng qua đường khác!

- Ngu quá. Chẳng có gì phải sợ cả!

Lũ kiến bò nhanh tới. Bà định cử động, dời chân...

Herbert hét lớn:

- Đứng yên!

Marie xoay mình, chạy nhanh, ngay tức khắc bà đã đứng ở góc phòng phía kia. Đàn kiến vẫn tiếp tục bò, khi chúng bò gần tới chân tường, ông hô: «Ra!», chân dậm xuống sàn hai lần. Dường như chúng nghe theo mệnh lệnh không chút nghi ngờ. Cả đàn quay lại bò tới cây bút.

- Thả em ra đi! Em không thể ở đây được nữa!

Khóe mắt bà có giọt nước lăn ra. Tay bà vẫn chà vào nhau, đầu bà rung, sợ hãi.

- Thôi đi! Giờ em ra lệnh chúng nghe. Tới đây đứng cạnh đàn kiến kêu đi, rồi em sẽ thấy chúng nghe lệnh em.

Bà khóc. Bà khóc với dáng điệu ông rất muốn nhìn, nức nở, mặt cúi xuống, tay run rẩy úp lên trán.

- Xin anh, Herbert.

- Có thể nào! Có thể nào lại khóc kinh khủng trước mấy con kiến tội nghiệp này sao?

Ông vặn khóa mở cửa.

Bà bước nhanh ra ngoài, đi lên thang được nửa chừng, ông kêu:

- Nếu cứ thế thì chẳng bao giờ em mới quen được mấy con vật nhỏ này. Lúc nào em cũng sợ chúng!

Lên khỏi mấy bực thang, bà đóng rầm cửa lại.

Ông lấy trong túi ra một bịch đường, cúi xuống mấy con kiến.

- Mấy đứa con nhỏ của tôi ăn chút này đi, ông nói, tay rắc xuống sàn thành một đống đường trắng cạnh đàn kiến. Chúng thích đường, tủa ra chạy tới ăn, đống đường trắng chuyển sang đen. Ăn đường tới đâu, đám kiến lại từ từ tản bớt. Cuối cùng chúng bò trên sàn trống trơn. Ông rải thêm một đống nữa. Kỳ này chúng ăn không hết, để lại trên sàn một dúm đường rồi lủi đi như tìm kiếm gì đó. Chúng có vẻ rối loạn, sớn sác, làm ông thắc mắc. Chúng ăn nhiều đường rồi, sao coi chúng có vẻ còn đói? Y như tuần trước vậy, cứ rối lên làm như có chuyện gì vậy.

Herbert lên phòng khách ngồi với vợ và bộ sưu tầm côn trùng. Ngày nào cũng thế, vợ chồng ông hiếm khi trao đổi chuyện với nhau. Chỉ có vài lần trong năm bà quên đi, đã nói với ông những chuyện không liên quan tới ông, hoặc tới việc mấy con côn trùng. Lúc ấy ánh mắt ông vẫn lạnh lùng nhìn vào sách côn trùng: Phiền quá!

Họ chẳng bao giờ dùng tới ra-dô, còn ti-vi chẳng bao giờ được mở, bởi có âm thanh lạ là ông bực mình.

Herbert ngồi xuống ghế, tay đỡ sau gáy, nhìn lên nhà.

- Anh không hiểu tại sao mấy con kiến cứ rối loạn. Mỗi lần cho chúng ăn, chúng bồn chồn bò quanh, bò đây bò đó, làm như chúng bị ăn thứ chúng không thích. Càng lúc càng tệ...

Marie ngồi móc đăng-ten tấm vải, không nói một lời nào. Lúc trước bà thường đan, nhưng ông bực mình vì tiếng lách cách của kim đan, buộc bà không được đan nữa.

Ông bắt đầu huýt gió. Cả mấy năm nay ông cứ thổi mãi một điệu nhạc mà không chán. Bây giờ ông lại huýt điệu đó, mắt cứ liếc lên trần nhà, tự lắng nghe mình thổi. Thật ra ông thổi không ra hơi, tiếng huýt gió rất yếu, từng chập một, chỉ có những người không biết nhạc mới nghe nổi.

Marie ngắt ngang:

- Mấy con kiến ăn gì vậy?

Ông ngưng huýt gió. Ông thích bà hỏi những câu như thế.

- Đường. Chẳng có gì khác cả. Chúng kiếm thứ đó từ phân của rệp lá. Chúng cạ lưng rệp để rệp ị ra, rồi chúng ăn.

- Nhưng ở dưới nhà kho kiến ăn gì vậy?

- Anh cho chúng mấy viên đường. Thường thì anh rải đường ra sàn.

- Kiến sống không phải chỉ bằng đường. Anh có cho chúng ăn gì khác không?

- Có chứ. Dĩ nhiên có vài lần chúng tìm được mấy con thú chết trong rừng, đương nhiên chúng ăn con thú đó. Không tưởng tượng được một con kiến nhỏ ăn nhiều ghê lắm. Chúng còn có thể tích trữ rất nhiều đồ ăn. Em không thể nào tưởng tượng được...

Marie không để ý nghe. Bà chỉ chú tâm móc đăngten. Thỉnh thoảng bà nhấc đầu nó: «ồ , hay quá, Herbert», và ông thì cứ nói những điều kỳ diệu về thế giới côn trùng. Cho mãi tới khuya ông không còn gì để kể, ông đứng dậy, huýt gió, đi lên giường.

Sáng sớm hôm sau, trước khi Herbert đi làm, ông phát giác ra con chó nằm chết cạnh cửa, phía nhà kho. Con chó chỉ còn lại bộ xương. Kiến chết nhiều, nằm quanh xác chó. Gần như thịt chó đã bị ăn hết. Chỉ còn vài con kiến vẫn bò chung quanh kiếm thêm đồ ăn. Đuôi chó trơ lại những khớp xương trải dài trên sàn nhà. Ông đem bộ xương chó ra chôn ngoài vườn.

Ông lau sạch sàn rồi xuống kho. Giấy nhét ở giữa cánh cửa và khung cửa bị gặm mất, để lại một khe hở lớn, đủ cho lũ kiến chui ra, chui vào. Ông vào kho, đứng giữa phòng.

- Ra!

Rầm! Rầm!

Đàn kiến bò chậm chậm ra sàn tụ thành một đống. Coi chúng có vẻ hờ hững, lười biếng và no nê. Ông rẩy chút đường, nhưng chẳng con nào ăn. Đàn kiến coi cũng nhiều như trước, nên ông không nghi ngờ kiến ra khỏi nhà. Thay vì lúc trước cái khe hở ở cửa chắn bằng giấy thì nay ông chắn bằng ni-lông, rồi đi làm.

*
Marie hưởng thụ từng phút một những buổi bình minh. Khi thức dậy, bà bật ra-dô. Nếu có lần nào bà nói bà được hạnh phúc, thì chỉ vào những giây phút này, khi Herbert không có nhà. Bà thong thả nghe những bản nhạc bình minh trên ra-dô và yên vui với con cái. Nghĩ lại chuyện hôm qua, bà cảm thấy ngượng ngùng, vì mấy con kiến đáng tội nghiệp chẳng có gì phải sợ. Thật ra bà sợ mấy con kiến? Hay bà sợ sự hiện diện và thái độ của Herbert?

Bà muốn đi xuống kho một mình. Chìa khóa treo ở cạnh cửa kho, muốn vào chẳng khó. Bà không cảm thấy sợ. Đặt cây bút ra giữa phòng, bà kêu mấy con kiến ra rồi dậm chân xuống sàn hai lần.

Bà nhanh nhẹn chạy ra cửa, đứng đó nhìn tổng quát.

Đàn kiến bò lúc nhúc tới cây bút, bà theo dõi đàn kiến, nghi ngờ. Bà thử bước tới mấy bước, cúi nhìn, ngắm chúng, sáu chân, một cái đầu lớn, con này giống hệt con kia. Bà đưa ngón tay trỏ chỉ vào lũ kiến, chúng phát giác có gì hấp dẫn rồi đánh hơi. Một con bò lên, khi bò tới giữa ngón tay, bà khều nó rơi xuống. Con kiến coi vẻ muốn rỡn tiếp. Nó lăn tròn trên sàn rồi đứng dậy tìm cách bò lên ngón tay bà lần nữa. Bà ngồi xổm chơi với con kiến lăng xăng hồi lâu rồi lên lại phòng khách.

*
Khi Herbert về, ông xuống ngay dưới kho. Ông mặc chiếc áo rách tưa, ông có ba chiếc áo y hệt như vậy, ông mua hạ giá cách đây nhiều năm. Ngoài ba cái áo đó, ông không có áo nào khác, họ không có tiền để mua thêm áo mắc, ông cho là thế. Nên Marie cũng chẳng có áo mới. Đã nhiều năm bà chưa một lần mua sắm áo.

Ông mang một lọ thuốc giết côn trùng khó ngửi, xuống rải hết lên bực cửa và khung cửa. Đấy là một loại thuốc tê làm kiến không thể nào bò qua ngưỡng cửa được nữa.

*
Lúc ngồi phòng khách với vợ, nghiên cứu bộ côn trùng, Herbert huýt gió một điệu nhạc. Khi có vợ nghe, ông thích huýt gió. Nếu ngồi một mình, ông không bao giờ huýt gió cả.

Bất thình lình ông nói:

- Anh biết rồi! Anh biết tại sao mấy con kiến cứ rối loạn hoài rồi! Tại chúng không có ổ, nên dĩ nhiên là chúng hoang mang.

Ông đi tới đi lui.

- Hình như có một chỗ nào đó ở trong vườn, em vứt lá khô và rác rưới, mấy thứ đó kiến có thể tha về làm ổ?

- Coi ở cạnh mấy cây thông ấy, Marie nói, vì chỉ có mình bà làm vườn.

*
Ngày ngày Herbert xách hết lưới này tới lưới khác đầy những lá khô và lá thông vào kho. Ông chất vào một góc, kiến cứ bò lại tha lá làm ổ. Mấy con kiến làm việc cần cù, mỗi con tự biết phải làm gì và cái ổ sẽ ra sao. Qua nhiều ngày, cái ổ càng lúc càng lớn. Herbert xách thêm nhiều lưới lá khô vào. Vài tuần sau, khi cái ổ hoàn tất, cầu thang, đường vào kho dơ dáy vì những bận ông xách lá từ ngoài vườn vào.

Marie lau nhà, khi lau xong cầu thang vào tới kho, bà lau bậc cửa, ngửi thấy mùi lạ. Bà lấy giẻ lau bậc cửa một lần rồi ngửi cái giẻ. Mùi khó chịu. Bà xả nước giẻ, lau lại lần nữa, nhưng vẫn còn mùi. Bà không có thì giờ lau nữa vì chồng bà sắp về, cơm phải nấu xong trước. Bà xách xô và giẻ, lên bếp.

*
- Không hiểu con chó Pinko đâu rồi nhỉ? Bà hỏi lúc đang ngồi bàn ăn, nhai miếng thịt.Đã nhiều tuần nó chưa về nhà.

Ông nói:

- Ồ , rồi nó sẽ về.

- Nhưng từ trước tới giờ nó chưa bỏ đi lâu như thế.

Herbert đứng lên xuống kho. Ông cho kiến ăn. Kiến bò ra khỏi ổ để nếm đường ông trải thành một đống. Chúng ăn không bao nhiêu, nhưng rồi lại nhốn nháo như trước. Bò đây bò đó như tìm kiếm gì. Vài con chỉ ngửi đống đường, chán nản trở về ổ. Ông khẩy nhẹ một con, nó liền bò lên tay ông. Hai con gần đấy bò lên theo. Được một lúc, chúng cắn ngón tay ông. Ông đưa tay lên quan sát chúng, ngạc nhiên. Chúng xếp quanh ngón tay rồi bò chậm lên.

Chúng ăn.

Vì chúng chỉ ăn lớp da ngoài, nên không thấy đau gì mấy. Chúng từ từ bò lên, để lại phía sau những vết ăn.

- Bây giờ tao biết chúng bay muốn gì rồi, ông nói xong, vẩy tay hất chúng rớt xuống.

Trong khi đó Marie ngồi ở phòng khách, lật sách mẫu hàng. Đã lâu lắm rồi bà chưa được phép mua quần áo thường dùng. Mỗi lần bà hỏi, chỉ được ông trả lời: «Em có máy may! Nếu mua áo thì cái máy may để đó làm gì. Em cũng biết, Marie, nếu cứ mua áo hoài thì mắc lắm. Anh nghĩ em cũng nên bắt đầu để dành tiền đi.»

Marie đặt cuốn mẫu hàng xuống bàn.

Lát sau ông vào phòng khách. Ngồi cạnh bàn viết, lại huýt gió điệu nhạc cũ, lại nghiên cứu bộ côn trùng. Marie vào bếp dọn cơm. Theo thói quen, bà để một cục xương cho con chó, mặc dù trong tô đã chất đầy xương.

- Em không biết tại sao con chó vẫn chưa về. Em sợ chắc có chuyện gì đó.

Khi nói xong, bà nghĩ bà đã làm một điều sai quấy. Bà vừa mới làm phiền ông. Bà đứng ở trong bếp nhìn, chờ đợi ánh mắt lạnh lùng của ông: Phiền quá!

Nhưng ông quay nhìn bà. Ánh mắt lại tử tế khác thường.

Ông nói:

- Nó sẽ về thôi.

- Em không biết mấy miếng xương phải làm sao đây.

- Cho mấy con kiến ăn đi. Em nói cũng đúng đấy, ngoài đường ra, kiến còn phải được ăn gì khác. Cứ đem xương xuống cho kiến đi.

Thái độ tử tế của ông làm bà rất đỗi ngạc nhiên. Có nghĩa là gì vậy? Bà canh chừng, chú ý sắc mặt ông có gì độc ác không. Nhưng ông vui vẻ lắm. Chính thế, sự tử tế bất thường, làm bà không thích. Bà không ngần ngại, cầm tô thịt xuống kho. Ông có thể bảo bà đi xuống! Dậm chân xuống sàn, bà cũng không ngần ngại. Lúc bước vào kho bà thầm nhủ mình sợ lạ thường. Bà để từng miếng xương một xuống trước ổ kiến, đàn kiến tụ lại, chúng đói điên cuồng, mấy miếng xương loáng một cái bị chúng nhấm sạch. Lát sau, chúng bò đây bò đó như để kiếm thêm. Chúng hoang mang nhốn nháo. Bà ngồi xổm nhìn chúng.

Bà bỗng thấy bị nhói ở đầu gối. Chân bà đầy kiến đang gắng sức bò lên. Hai cẳng của bà bị đàn kiến bu. Bà phủi đi. Bà la lên. Mấy con kiến coi vẻ không sợ mấy cái phủi, chúng càng gắng sức bò nhanh. Bà phủi liên tục. Chúng càng lúc càng hoạt động mạnh. Chúng cắn dữ tợn hơn, bò nhanh hơn.

- HERBERT!

Đám kiến bò lên chân bà, chúng từ ổ, ào ra tấn công. Bà kiệt quệ. Cứ giết được một con thì cả đám khác lại túa lên.

Bà chạy ra đóng cửa lại. Nhưng còn nhiều con cứ bám.

- HERBERT! CỨU EM VỚI!

Ngay tức thì, bà cởi gần như hết cả áo quần ra. Ở chân bà kiến bám, cắn chặt bu đen. Bà gạt chúng ra, lúc đầu còn sợ, nhưng càng lúc càng gạt càng nhanh. Con nào rơi xuống đất, bà dùng tay ép dẹp chúng. Chúng bò sợ hãi. Bà quất, bà đạp, không cho chúng một cơ hội. Lát sau trong hành lang không còn một con nào còn sống sót, bà chạy lên lầu.

- Kiến tấn công em! Chúng điên rồi! Nhìn coi: Chúng ăn thịt em nè!

Bà đưa chân trần đầy chấm đỏ cho ông coi.

- Anh chưa từng thấy!

Ông cúi xuống nâng gót chân bà lên.

- Phải lấy thuốc bôi vào gấp, để anh đi lấy kem bôi.

Sau khi bà rửa chân sạch sẽ, ông bôi thuốc cho bà.

- Lúc em kêu, sao anh không xuống?

Ông nhướng mày: «Cái gì?»

- Tại sao anh không xuống cứu em. Chắc anh nghe em kêu chứ?

- Anh không nghe gì cả. Em lộn xộn quá, Marie.

- Herbert, chắc chắn anh có nghe em! Em lấy hết sức kêu to lắm!

Herbert đứng dậy.

- Em đang nóng, chúng mình đừng nói tới chuyện này nữa. Anh không nghe em kêu. Anh bảo đảm với em là anh không nghe thấy tiếng kêu gì hết. Bình tĩnh lại đi, Marie.

- Bình tĩnh! Phải dẹp mấy con kiến đi! Phải dẹp ngay đi! Herbert, lần đầu tiên, vâng, từ hồi lấy nhau, đây là lần đầu tiên em đòi hỏi một điều. Em yêu cầu anh phải dẹp mấy con đó ra khỏi nhà ngay!

Herbert thoáng nhìn bà. Cả phòng chìm trong im lặng.

*


Qua mấy ngày, hai vợ chồng không hề nói với nhau. Những buổi mình minh hạnh phúc cũng không còn. Mỗi sáng, việc đầu tiên là bà xuống coi đêm qua có con kiến nào bò ra khỏi nhà kho không. Sau đó, bà uống thuốc an thần. Bà không làm đăngten nữa, khi ngồi một mình, bà lại hồi hộp, phải đi vòng vòng trong nhà cho yên tâm. Chỉ mong có việc để làm, một chuyện gì đó.

Nghĩ kỹ lại, cũng có việc đấy, thí dụ như làm sao tẩy cho sạch được mùi hôi ghê gớm ở nhà kho. Mà khi đứng ở cửa cầu thang nhìn xuống kho, bà cứ ngửi thấy mùi hôi kinh khủng đó.

Bà xuống cầu thang kho, tay cầm xô, nước sóng ra ngoài. Khung và bậc cửa kho hôi ghê gớm, bà không hiểu sao lại có mùi như vậy. Bà lau hai lần, nhưng mùi vẫn còn. Bà không chịu thua, lại lau tới lau lui năm lần nữa rồi mới hài lòng. Bà quệt ngón trỏ lên bậc cửa ngửi. Ngửi thấy sạch. Bà đứng dựa cửa một lúc để nhìn lại công việc mình vừa làm, tay chống lên quả nắm cửa. Cửa mở ra, Herbert đã quên khóa cửa.

Bà nhìn kỹ, quan sát, hình như ổ kiến bây giờ to hơn.

Mình không sợ, mình chẳng sợ mấy con nhỏ xíu đó. Bây giờ bà thấy rõ chúng. Chúng bò và sinh hoạt trên ổ. Tay nắm chặt, cân nhắc giẻ lau nhà. Giẻ ẩm nặng. Bà bước vào.

- Ra!

Đàn kiến tụ họp lại.

Cái giẻ bay một đường hình cung trên không, đáp xuống đàn kiến, nước văng ra. Đàn kiến chạy tán loạn. Giẻ bay thêm một lần nữa, bịch! Xuống sàn, kiến chết như rạ. Bà nhặt giẻ bồi thêm một phát nữa, bạch! Đàn kiến túa ra hoảng hốt, lần này chết không nhiều lắm.

- Ra!

Bà dậm châm xuống sàn, nhưng đàn kiến không còn nghe lời nữa. Chúng bò thật xa khỏi bà. Bà đuổi đánh chúng. Tức thì chúng giải tán, giẻ lau chỉ in lại dấu trên sàn. Những con kiến tuyệt vọng, chỉ còn một con đường, tấn công. Khi muốn, chúng bò mau không tưởng tượng được. Chốc lát chúng đã hiện ra trên chân bà.

Thoáng cái bà đã ra khỏi phòng kho, đóng cửa lại. Rồi giết chết mấy con kiến bám vào chân.

*


Giẻ lau nhà vẫn còn ở trong nhà kho, nên Herbert hiểu ngay được chuyện gì đã xảy ra. Suốt ngày ông trầm ngâm theo chừng bà bằng ánh mắt lạnh nhạt. Hôm sau đi làm về, ông xách theo một bình nhìn giống như bình chữa lửa.

- Trong bình này là thuốc độc giết kiến trong nháy mắt, nếu nó bò ra khỏi kho. Bây giờ em yên tâm đi.

Ông nói, tay cầm bình đưa cho bà rồi giảng giải cách xài:

- Khi bấm nút, nó sẽ xịt ra một đường từ vòi này.

Con nào bị dính, ngay sau đó chết liền.

Ông chĩa vòi xịt ra ngoài cửa sổ bếp rồi bấm nút trên bình. Ga xịt ra từ trong bình một đường trắng, giống các thứ bình xịt khác.

Bà không tin ông mua bình xịt này là vì bà. Chắc ông đã hiểu phải cần có một vũ khí trong nhà để bảo vệ. Vậy đủ chứng tỏ ông cũng sợ mấy con côn trùng đó.

*


Sáng bà xuống kho, đưa tay lên cửa, dĩ nhiên cửa đã bị khóa. Dạo này ông rất cẩn thận không cho bà vào kho khi ông vắng nhà. Từ khi ông tỏ vẻ sợ mấy con kiến, làm bà càng sợ hơn trước. Bà tìm thuốc an thần. Bà tìm khắp nơi, trong tủ, trong ngăn kéo, mấy viên thuốc đâu mất hết rồi hở trời? Bà tìm trong bàn viết của ông, trong ngăn kéo trên cùng. Một bức thư hiện ra. Herbert thường được thư từ các hãng ngoại quốc gởi về, ông cất giữ riêng không cho Marie đọc. Bức thư để hở. Trong đấy có một biên lai in bằng tiếng Anh, nhưng bà hiểu chữ «insect»1. Biên lai trị giá năm trăm kroner cho hai con côn trùng. Vậy mỗi con là hai trăm năm chục kroner!

Được!

Bà nhìn những khung chứa côn trùng trên tường trước mặt bà, bắt đầu đếm. Trong khung có tới bốn trăm con.

Vậy tổng cộng là bao nhiêu? Nếu mỗi con là hai trăm rưỡi, như thế mỗi cái khung lên tới... một trăm ngàn? Có thiệt thế không?

Trong phòng khách có tất cả tám cái khung.

Tám trăm ngàn?

Bà tính lại.

Marie cảm thấy choáng váng, môi chúm lại. Bây giờ bà đã hiểu tại sao gia đình bà lại không có tiền để sắm sửa gì khác. Nhà động vật học2 Herbert Gran, lương cao, có tới gần cả triệu kroner treo trên tường, một trò chơi thú vị.

Và lại có một người vợ vẫn vui vẻ.

Tay bà run run, để lại phong bì vào chỗ cũ.

*


Herbert về.

Bà nói:

- Em không tìm thấy thuốc. Anh đã để đâu vậy?

Ông nhìn bà thờ ơ:

- Thuốc? Thuốc gì?

- Thuốc an thần, em biết anh đã cất đi đâu rồi. Bây giờ em cần uống thuốc!

Ông để ý thấy bà bắt đầu vặn tay. Ông muốn kéo dài cuộc nói chuyện:

- Anh không lấy gì cả. Lấy mấy viên thuốc tào lao đó của em để làm gì?

- Herbert!

- Bộ chưa tới lúc em chấm dứt uống mấy viên thuốc đó sao. Chẳng có gì em phải sợ cả.

Bà đứng lại đó. Ông chẳng bao giờ chán cảnh nhìn bà đứng như ăn xin, sợ sệt, bà sắp khóc.

- Ô nhà này em điên mất. Em không chịu được nữa!

- Sao sao, Marie.

Bà khóc. Ông thầm nghĩ: Bà giống y như loài kiến nhỏ tội nghiệp.

- Ô anh là em phải bỏ thuốc đi. Anh chú ý, mỗi lần hoang mang, em lại lấy thuốc ngay. Em phải bỏ thuốc đi.

- Nhưng em phải có thuốc. Không có thuốc em không chịu đựng nổi!

- Tào lao. Herbert nói rồi đi xuống kho.

*
Nửa đêm ông lên phòng ngủ. Bà đang nằm trên giường. Ông ngồi ở thành giường, thay áo. Ông nói:

- Mấy con đó không còn nghe lời anh nữa. Những ngày gần đây anh không còn chế ngự chúng được. Chúng sợ gì ấy.

Ông đưa một chân lên giường, xoa kem. Chân ông sưng, có nhiều dấu đỏ bị kiến cắn.

Marie nhìn thấy thế, bà nằm dưới mền quay lưng đi.

Vài giờ sau bà trở mình, nằm co chân lại, tay gãi gãi cổ chân trong giấc ngủ. Chút sau bà thấy ngứa lên tới ống chân. Bà quay người thu chân lên cao. Vẫn còn ngứa, càng về khuya càng tệ. Sau cùng bà ngồi dậy còn ngái ngủ.

Vết kiến cắn.

Bà la lên. Herbert thức dậy đập những con kiến đang tấn công ông. Chúng từ khe cửa, kéo dài trên sàn, leo lên chân giường. Ông la:

- Bình xịt! Bình xịt thuốc đâu?

Marie chạy ra ngoài. Chẳng bận tâm tới mấy con kiến đã bám lấy chân bà, bà tung một cánh cửa tủ, lấy bình xịt. Chạy lại về phòng ngủ, bật nút xịt. Con nào bị dính thuốc, rớt xuống đất. Ông giành lấy bình, xịt những con tấn công ông.

Tiếng hét từ phòng trẻ con vọng ra.

- Thằng cu Marius!

Chạy ra ngoài hành lang bà thấy một lằn đen từ phía nhà kho, di chuyển vào phòng con bà.

- Đem bình ra đây, lẹ lên! Kiến vào phòng Marius rồi.

Tiếng trẻ khóc tuyệt vọng. Cu Marius nằm ở trong giường đu, nếu kiến bò lên thì hết hy vọng.

- Trời, Marius, Marius!

Bà mở cửa, trong phòng có đèn chiếu nhỏ đủ để thấy một lằn đen đang bò tới giường của Marius. Bà bật đèn. Đứa con nằm la khan cổ. Chỉ có vài con kiến đang mấp mé bò lên chân giường.

- Trời! Thằng con tôi, con tôi.

Bà bồng đứa nhỏ lên áp vào ngực. Trên người thằng bé chưa có dấu vết gì, con bà thức dậy khóc vì tiếng ồn ào vừa rồi từ phòng bà. Bà bế con vào phòng tắm, cởi quần áo nó ra, người thằng bé chưa bị gì.

Herbert cẩn thận đi về phía mấy con kiến. Ông xuống mở cửa kho để kiến dễ bò trở lại. Sau đó ông vào phòng Marius. Ông không xịt thuốc kiến nữa vì chúng đang bò ra khỏi phòng. Chờ chúng đi ra hết, ông đóng cửa phòng lại. Sau đó, ông theo đàn kiến xuống kho, mở cửa cho chúng vào lại ổ. Khi vào kho rồi, chúng trốn trong ổ. Ông quẹt tay lên khung cửa rồi ngửi, thấy sạch sẽ. Ông đưa mũi xuống bậc cửa ngửi. Cũng chẳng có mùi thuốc hôi.

Marie đứng khóc trong phòng tắm.

- Con có sao không? Ông hỏi, đưa tay xuống đứa bé.

Bà nói:

- Cút đi, nếu anh không giết ngay mấy con kiến, thì em dẫn Marius dọn đi.

- Em có xuống kho lau không vậy? Thuốc độc anh rải dưới đó, sao sạch mất rồi!

- Đi diệt mấy con đó đi.

Ông đi. Bà thấy ông xuống kho, tay cầm theo bình xịt thuốc. Lần đầu tiên ông làm theo điều bà muốn.

Suốt đêm hôm đó, không sao ngủ được. Khi ông đã đặt lưng xuống giường rồi, bà lại muốn xuống kho để coi lũ kiến đã bị quét sạch ra khỏi nhà chưa.

Bà thử đẩy cửa nhiều lần, vì lý do gì đó, Herbert đã khóa cửa rồi. Có lẽ trong phòng vẫn còn nhiều hơi thuốc diệt kiến cũng có thể nguy hiểm cho người, nên ông khóa cửa lại. Nhìn qua lỗ khóa thì chẳng thấy gì. Mấy con kiến còn ở trong đó không?

Đêm đó bà không ngủ. Bà tìm hết mấy ngăn tủ bàn viết của ông, tìm thuốc. Tìm không thấy, bà đi qua đi lại trong phòng khách, tay vặn tay. Ánh nắng bình minh bắt đầu chiếu qua cửa sổ phòng khách.

*
Khi Herbert đi làm về, ông xuống kho nói:

- Tôi phải xuống kho dọn dẹp.

Bà Marie ngồi trong ghế sa-lông bồng con, nghe ông lẩm bẩm phía dưới. Bà nghe rất rõ, và rất ngạc nhiên tại sao tiếng người nói dưới kho, ở trên phòng khách lại nghe rõ thế.

Bà cẩn thận đi mấy bậc thang xuống kho. Càng nghe rõ hơn ông đang lẩm bẩm như đang nói chuyện với ai. Cửa kho mở, khi bà bước xuống bực thang cuối, thấy ông đang ngồi xổm trước ổ kiến nói:

- Trời đất ơi, tụi bay bị mắc chứng gì vậy?

Ông cầm một cây bút chì, chỉ vào ổ, để kiến có thể bò lên. Ông nâng bút lên, bước lùi ra giữa phòng. Ông rẩy cây bút, kiến rơi xuống.

- Đi! Ông kêu rồi dậm chân xuống sàn. Nhưng mấy con kiến chẳng phản ứng gì cả. Chúng đứng một hồi, chẳng cần biết có chuyện gì, từng con quay về ổ.

Ông nói:

- Ước gì tôi tìm được một con nghe lời tôi.

- Bây giờ em thấy anh điên rồi, Herbert.

Ông quay lại, ngạc nhiên:

- Em chẳng hiểu mấy con kiến này quan trọng đến thế nào đâu! Đây là lần đầu tiên có người dùng phương pháp huấn luyện một nhóm côn trùng. Lần đầu tiên, Marie! Anh không thể nào giết chúng được.

Lúc Marie đi vào, đàn kiến phản ứng ngay. Trong nháy mắt, chúng chạy vô ổ.

Ông nói:

- Chúng tấn công theo bản năng sinh tồn. Chẳng lẽ anh phải giết chúng vì thế sao?

Đàn kiến bắt đầu từ ổ túa ra. Chúng nhận ra Marie, bà nguy hiểm cho chúng, chúng chuẩn bị tấn công kẻ thù. Bà nhìn thấy chúng tới, hiểu chúng muốn gì. Bà chậm rãi đi ra khỏi kho.

Khi phát giác miếng mồi mất dạng, chúng do dự giây lát, bỗng nhiên chúng chuyển hướng tới Herbert. Một thảm kiến bao quanh chân ông. Ông đánh đuổi chúng, dậm chân lên chúng, thụt lùi về mé sau.

- Bình xịt, Marie!

Marie chạy tìm bình xịt. Bà tìm thấy bình xịt ở dưới bàn viết của ông trên phòng khách, rồi chạy ngược lại kho. Ông chưa chạy ra khỏi nhà kho, vẫn đứng đấy, điên cuồng đánh đuổi bọn kiến đang từ từ bò lên ông. Bà với tay đưa bình cho ông. Bà cố duỗi tay để ông có thể với tới bình, nhưng bà lại thụt tay lại. Bà thụt lùi vài bước về phía cửa ra.

- Marie! Anh vô phương rồi! Đưa bình cho anh!

Herbert chạy đến bà, nhưng bà kịp thời đóng cửa kho lại, tay vặn chìa khóa.

- Marie! Cứu anh với, Marie!

Marie bỏ chạy. Bà ôm bình chạy lên mấy bực thang vào phòng khách, sau lưng bà tiếng đấm cửa dưới kho và tiếng réo tên bà.

Lên tới phòng khách, bà ngồi đấy. Bà không xúc động, không vặn tay vào nhau. Bà không khóc. Bà lạnh lùng, bình tĩnh, rồi dựa lưng vào sa-lông, hít thở chậm rãi. Bà nhìn vào một trong những khung kiếng ở trên tường. Bà nghe thấy tiếng ông khóc và kêu Chúa.

Jostein Haraldsen

Dương Kim biên dịch

1. insect: côn trùng, sâu bọ.

2. Theo nguyên tác, ông Herbert là nhà thực vật học. Nhưng ông lại nghiên cứu và huấn luyện động vật. (DK)