28 October 2023

SƯƠNG BUỒN ÔM KÍN NON SÔNG (2) - Nguyễn Chí Thiện

Đọc: Phần 1

Vũ Hoàng Chương bệ câu "Khóm trúc đợi", thêm vào hai chữ "Xanh mầu" rất thơ, rất đẹp. Các ông ấy còn bàn luận nhiều. Tôi không nhớ hết nổi.

- Còn vấn đề nghệ thuật vị nghệ thuật, với nghệ thuật vị nhân sinh. Họ có bàn tới không?

- Quan điểm của họ rất đơn giản, rộng rãi. Họ cho rằng nếu dở, không đẹp, thì không thể gọi là nghệ thuật. Nghệ thuật chính là cái đẹp. Một bài thơ dù tả đôi mắt giai nhân, hay tả bộ xương người chết đói, nếu tồi, đều không gọi là nghệ thuật được. Mọi nghệ thuật, tức mọi cái đẹp, đều phục vụ nhân sinh, đều làm cho tình cảm, trí tuệ thêm phong phú, tinh tế, sâu sắc, nâng con người lên cao. Trừ thứ nghệ thuật gây hại như đã nói với anh lúc nẫy. Sở dĩ có cuộc tranh luận kéo dài từ lâu lắm rồi, cơ bản là do những người chủ trương nghệ thuật vị nghệ thuật có cái nhìn hẹp hòi, sai lạc, coi những vấn đề xã hội, chính trị, không đáng đưa vào nghệ thuật. Victor Hugo đã trả lời đại ý rằng "Phục vụ việc giải phóng con người khỏi áp bức, việc cải thiện số phận đau khổ của quần chúng, không hề làm xuống cấp cái đẹp, không tước mất của thi ca tí gì". George Sand, Tolstoi, Dostoievski, Goethe, Réné Char cũng nghĩ như vậy. Họ vẫn thường đọc cho nhau nghe những bài thơ hay. Dù chỉ là thơ uống rượu. Thí dụ như mấy câu thơ này. Họ đọc nhiều, đâm ra tôi cũng thuộc:

Ta rót một mình, ta uống một mình.
Say chưa bén đài cô đơn chót vót.
Ta cứ uống và ta cứ rót
Những Kình Nghê uống sông lớn vào lòng.

Phó Nhòm vỗ đùi:

- Hay, thơ hay. Ngang tàng thực! Ông bạn có biết của ai không?

- Hình như của Hoàng Công Khanh, trước tù với tôi ở Yên-Bái. Ông ta ở Toán Văn Nghệ.

Phó Nhòm phát khùng:

- Về, tôi sẽ vứt mẹ nó mấy quyển sách của mấy tên đại bịp kia đi.

Lão can:

- Đọc để biết về các trào lưu văn học, về đủ thứ "Siêu", thứ "Hậu", thứ "Tiền". Có sao đâu. Miễn là đừng nhai lại những thứ người ta đã nhổ đi rồi, mà cứ nghĩ là mới. Bây giờ còn sớm. Anh có thể viết thư cho "Em" còn kịp.

- Làm gì có giấy nữa. Phải đợi tối nay, xin mụ Sài-Gòn. Tôi tập thể dục đây. Sáng nào cũng phải tập nửa giờ. Nếu không, nằm nhiều, teo hết cơ bắp.

- Trên trại, đi lao động, không cần thể dục. Tôi chỉ luyện khí công, cho tinh thần thanh thản thôi.

Lão ngồi thẳng người, xoa bóp toàn thân một lúc, rồi nhắm mắt, hít thở đều đều, từng hơi rất sâu. Sàn bên cạnh, Phó Nhòm chạy tại chỗ, chân nhấc rất cao, miệng thở phì phò. Chạy xong, gã nhảy như con choi choi, cố chạm tay lên trần buồng cao vút, nhưng không nổi, còn cách những mấy chục phân. Gã thở hổn hển.

- Tôi luyện mãi mà không nhẩy tới trần được. Tôi đố ông bạn nhẩy được.

Lão đứng dậy:

- Để tôi thử xem.

Rất nhẹ nhàng, lão vút người lên, đặt cả bàn tay lên trần. Rồi lão lộn người, đi bằng hai tay thoăn thoắt. Phó Nhòm kinh ngạc:

- Ông bạn xương bọc da, mà vừa nhanh, vừa khỏe. Lạ thật.

- Tôi biểu diễn quyền thuật cho anh xem.

Lão đi những đường quyền điêu luyện. Đòn ra nhanh, gọn. Chân đá, tay đấm, tới tấp như vũ bão. Biểu diễn khoảng mươi phút, lão ngồi xuống, mặt không biến sắc, hơi thở bình thường.

Lão tươi cười nói:

- Anh muốn học, tôi dạy cho. Nhưng phải luyện ý trước. Rồi luyện khí. Sau mới luyện đến quyền. Đây là phương pháp đặc biệt để duy trì sinh lực trong hoàn cảnh đói rét. Hồi tôi còn ở Cổng Trời, Hà-Giang, một vị sư già đã truyền cho tôi.

Phó Nhòm sốt sắng:

- Nhất định tôi phải học, để khỏe, để phục vụ các em! Bắt đầu từ hôm nay, ông bạn giúp tôi.

- Được, nhưng nhớ là phải kiên nhẫn. Nóng vội không được. Dục tốc bất đạt. Thôi, chúng ta làm một hơi, để tôi còn giấu thuốc đi.

Trà thuốc xong, Phó Nhòm moi ở khe cùm ra một lưỡi dao cạo. Gã ngồi cạo râu, cắt tóc mai, nhổ lông mũi, sửa lông mày. Mất đến nửa tiếng.

Gã cười hỏi:

- Ông bạn trông tôi có già so với tuổi năm nhăm của tôi không. Tôi nói với em là tôi bốn tám.

- Anh có nước da trắng mịn, nên trông trẻ hơn nhiều. Nếu anh không nói, tôi yên trí là anh ít tuổi hơn tôi.

- Ông bạn tù đầy mấy chục năm. Lại râu ria, hom hem, khắc khổ. Trông tưởng tới bảy mươi. Cạo bộ râu đi, cho nó vui vẻ, trẻ trung.

Lão cười:

- Râu này là râu trốn lao động. Cạo đi thế nào được. Hơn nữa, nếu bộ râu tôi biến mất, Ngưu-Ma-Vương sẽ hỏi dao cạo đâu, thì anh lấy gì để sửa sang sắc đẹp?

- Ừ, tôi không nghĩ ra.

- Giấu lưỡi dao cạo đi. Tôi nghe thấy tiếng giầy. Có lẽ Ngưu-Ma-Vương tới đấy.

- Không ngại. Còn mệt nó mới mở tới buồng mình. Bao giờ buồng mấy bà nhiều tiếp tế cũng được ưu tiên ra trước.

Quả nhiên, Ngưu-Ma-Vương vào mở buồng bà Sài-Gòn đầu tiên. Rồi hắn ra bàn ngồi, cắm điện đun nước, uống trà. Tiếng điếu cầy rít lên sòng sọc, rất kêu.

Phó Nhòm nói khẽ:

- Ông bạn đứng lên xem mặt mụ ta đi. Ngót nghét ngũ tuần rồi, mà trông còn "dùng tốt" lắm.

Lão đứng lên cùm, nhìn ra hành lang. Một bà tóc phi-dê, trắng trẻo, mảnh mai, trông phúc hậu, khá đẹp, tay cầm bô, tay xách một sô nhựa lớn, đi ra. Tới cửa buồng lão, bà ta ngước mắt nhìn lên, mỉm cười chào lão. Lão giơ tay đáp lại, rồi ngồi xuống sàn.

Phó Nhòm thì thầm:

- Ông bạn có thấy một gói lớn ở trong sô không? Ngưu-Ma-Vương lại xin cái gì đấy. Còn hai mụ nữa không xộp bằng, nhưng cũng hay đấm mõm nó lắm.

Lão hỏi:

- Tại sao lại phải thế? Nó giúp các bà ấy được cái gì?

- Chẳng được cái gì cả. Ngoài cái được ra làm vệ sinh lâu, tắm giặt, ung dung, được cắm nước sôi, pha trà, pha mì tôm. Thế thôi. Lương thượng úy 80 đồng một tháng của nó không bằng mấy mụ ấy cho đâu. Nhưng họ có của.Thí cho nó một tí, để thoải mái đôi chút, cũng được.

Bà Sài-Gòn tắm giặt rất lâu, đến gần nửa tiếng. Bà ta ra sân phơi quần áo, rồi vào phòng lấy ca, bát, ra đun nước sôi pha trà, pha mì tôm.

- Báo cáo cán bộ, hôm nay bể đầy nước, tôi muốn rửa buồng cho đỡ hôi.

- Được, được.

Ngưu-Ma-Vương đứng dậy, vào mở cửa buồng gã đầu gấu:

- Múc nước rửa buồng 11.

Gã đầu gấu "Vâng" một tiếng to, rồi uỳnh uỵch chạy vào buồng tắm lấy chổi, lấy sô nhựa xách nước, cọ rửa ào ào.

Phó Nhòm lo lắng:

- Mình mà ra sau cùng, có khi hết nước rửa.

- Tôi định tắm mà cạn nước, thì ngán quá.

- Còn nước, cũng không tắm hôm nay được. Một tuần tắm có một lần, vào ngày thứ tư. Ngày khác mà tắm, nó vớ được, nó cắt không cho ra vệ sinh.

Lão đứng lên xem mặt gã đầu gấu. Đó là một thanh niên cao, gầy, đầu tóc bù xù, có đôi mắt to, tinh nhanh. Gã vừa xách nước chạy, vừa vẫy tay chào lão. Lão mỉm cười, gật đầu. Một lúc sau, gã đầu gấu cọ buồng, làm vệ sinh cá nhân xong, vào buồng. Bà Sài-Gòn cũng bê ca trà, ca mì tôm vào. Ngưu-Ma-Vương mở buồng 10, cho hai chị tuổi chừng ngót bốn mươi ra.

Phó Nhòm chỉ:

- Mụ đi trước, tối qua, cũng cho quà mừng sinh nhật ông bạn đấy. Cả hai đều là cán bộ tham ô, thụt két gì đó.

Lão giơ tay chào, hai chị mỉm cười đáp lại. Hai mươi phút sau, đến lượt buồng 9 ra.

- Buồng em buôn đô la và em tây đen đó.

Lão cũng giơ tay chào hai người. Họ gật đầu chào lại. Phó Nhòm đưa tay lên miệng hôn. Cô buôn đô la ngước mắt cười.

- Ông bạn thấy em thế nào, trông "ngon" không. Ba mươi ba cái xuân xanh rồi đó.

- Còn tươi mát lắm. Nhưng cô ca sĩ da đen, mẹ Việt-Nam, mà không có một nét nào Việt-Nam cả. Giống Châu-Phi nó mạnh. Nó át mất giống mình.

- Con này dại trai lắm. Cách đây mấy tháng, yêu một thằng lưu manh. Có cái nhẫn vàng, cái quần bò, cũng đem cho nó. Thằng ấy đi trại rồi.

Phó Nhòm đợi tới lúc cô đô la vào buồng, đi qua, gã hôn gió một cái nữa, mới chịu ngồi xuống. Tiếp tới buồng giặc lái, buồng tên thượng úy bộ đội, bốn năm buồng nam nữa. Lão lần lượt giơ tay chào tất cả.

Phó Nhòm ngồi bất động trên sàn, cằn nhằn:

- Mình ra sau chót, nước cạn, đục lắm. Ngưu-Ma-Vương vẫn trù buồng này.

- Tại sao nó lại trù?

- Tôi không kêu nó bằng Ban, xưng cháu. Nó ghét. Mấy thằng kia ở ngoài là cán bộ trưởng, phó phòng cả, mà cứ mở miệng là cháu cháu, Ban Ban. Không biết nhục.

Tiếng Ngưu-Ma-Vương quát:

- Gõ cửa buồng người ta làm gì!

- Thưa Ban, cháu có gõ đâu.

- Muốn chối hả? Chính mắt tôi nhìn thấy! Vào tù rồi còn giở lối chim chuột, giăng hoa. No cơm ấm cật, rồi dậm dật hử! Người ta đã có chồng, có con. Chỉ được cái bố láo. Vào, cắt tiếp tế bốn tháng, cho nhăn răng ra. Xem còn đĩ bợm được nữa không.

Tiếng cửa đóng xầm lại.

- Thằng trưởng phòng công ty hóa chất đấy. Nó chớp chới mụ Sài-Gòn. Nhưng có nước non mẹ gì đâu. Cắt tiếp tế bốn tháng thì người bằng cái que. Trở thành "đầu lâu chân tay" (tù gọi bọn quá gầy). Tới buồng người yêu gã đầu gấu đấy. Đứng lên xem mặt đi. Con bé này không đẹp, nhưng hiền lành, tốt bụng, ai cũng mến. Tối qua, nó cũng cho ông bạn quà đấy. Ở cùng buồng với nó là một con trong đoàn kịch nói Hà-Nội. Con này nói năng tục tĩu, lưu manh còn phải chạy dài.

Lão đứng lên cùm, giơ tay chào hai cô gái, rồi ngồi xuống:

- Như thế là sáng nay, tôi đã duyệt binh xong. Coi như biết mặt cả xà lim. Lão Ngưu-Ma-Vương này rông rỡ thực. Ăn nói hết sức thô lỗ. Tên thượng úy bộ đội trông tội nghiệp, gầy còm quá.

- Ai bảo cáo cò! Chết không đáng thương. Ở các buồng chung, nhiều đứa còn gầy hơn nó nhiều. Chỉ sống bằng tiêu chuẩn nhà nước nuôi, thì máu thịt nào không teo, không cạn. Ông bạn cũng có béo tốt gì hơn nó đâu. Sống được hai mươi năm trong tù. Phép lạ đấy. Chúng ta chuẩn bị ra. Buồng mình là cuối cùng rồi.

Ngưu-Ma-Vương mở cửa buồng, giơ tay xem đồng hồ:

- Khẩn trương lên. Tôi phải đi họp ban giám thị.

Phó Nhòm và lão vội xách bô, xách sô, đi như chạy vào nhà vệ sinh.

- Nhanh lên, vào buồng đánh răng cũng được. Rửa mặt, lau người, qua loa thôi.

Phó Nhòm miệng nói, tay đổ bô, tráng bô. Gã đã quen với sự vội vã, nên chỉ dăm phút sau, gã đã rửa mặt, lau người, xách bô, xách sô đầy nước vào buồng. Lão còn đương vò cái quần, thì Ngưu-Ma-Vương đã quát, giục. Một phút sau, lão ra sân, phơi cái quần đùi lên dây thép, rồi trở vào.

Ngưu-Ma-Vương trợn mắt:

- Bận sau mà còn dềnh dàng, tôi cho vài cái bạt tai.

Nghe thấy hai chữ bạt tai, lão quay người lại, nghiêm nghị:

- Ông ăn nói thận trọng. Ông nhớ rằng đứng trước mặt ông là một người có danh dự.

Ngưu-Ma-Vương sững sờ một giây, rồi quát:

- Láo xược! Một tên phản động mà cũng đòi có danh dự. Tôi đã xem hồ sơ anh ở trại gửi về. Anh chuyên chửi Đảng, chửi lãnh tụ.

Hắn hầm hầm rút súng ra, thị uy:

- Anh có giỏi chửi Đảng, chửi lãnh tụ. Tôi bắn chết tươi ngay.

Lão cười ầm lên:

- Ông chỉ dọa nổi những kẻ tham sống, sợ chết thôi. Cả xà lim hãy làm chứng. Hôm nay, sáng 11-8-1983, ông quản giáo phụ trách xà lim 1, đã kích động tôi chửi Đảng, chửi lãnh tụ. Ông đưa ngay tôi lên gặp chánh giám thị để giải quyết vụ này.

Hắn hơi bối rối:

- Ai kích động anh? Không được vu cáo.

- Tôi đề nghị ông đưa tôi lên gặp ông chánh giám thị.

- Ông chánh giám thị đi vắng.

- Vậy ông đưa giấy bút để tôi làm đơn trình bày sáng tỏ sự việc này. Trách nhiệm của ông là phải cho phạm nhân làm đơn, và chuyển đơn của phạm nhân.

- Tôi không có giấy bút. Vào buồng!

- Tôi nói để ông biết, những việc lèm nhèm của ông, tôi không để ý tới. Nhưng nếu ông không biết điều với tôi, tôi sẽ nói rõ tất cả với chánh giám thị, với giám đốc sở. Hỏa-Lò không phải là một hoang đảo, để ông muốn làm gì thì làm. Trên ông, còn có sự kiểm tra của Đảng, của nhà nước. Chắc ông cũng biết, có những quản giáo đã phải vào tù.

Lão đi vào buồng.

Ngưu-Ma-Vương đóng xầm cửa lại:

- Được, tôi sẽ nói chuyện với anh sau.

Hắn khoá cửa khu xà lim, hậm hực bỏ đi.

Gã đầu gấu kêu lớn:

- Ông chú chơi hay quá. Lần đầu tiên Ngưu-Ma-Vương bị một bữa bẽ mặt. Công nhận ông chú anh hùng thật.

Lão đứng lên nói:

- Anh hùng gì ở cái xó Hỏa-Lò này. Nhiều anh hùng vào tù cộng sản thì trở thành anh hèn hoặc anh hề. Tao có một nhược điểm là không chịu nhục nổi. Hơn nữa, tao cũng quá chán đời, nên không sợ chết nữa.

Tiếng anh trưởng phòng công ty hoá chất nói sang:

- Dù sao, ông anh cũng giúp chúng tôi cho nó một bài học đích đáng.

- Tính tôi vốn dĩ hoà vi quý. Nhưng nó quá đáng quá. Không thể để thế được. Hôm qua, nó trỏ tay vào mặt tôi đe dọa, tôi đã không chấp rồi.

Tiếng bà Sài-Gòn:

- Anh Hai làm cho em phục quá đấy.

- Chuyện vặt, có gì đáng phục đâu chị. Tôi chẳng qua là đã tới đường cùng, nên không cần gì nữa.

- Anh Hai khiêm tốn, em càng phục hơn.

- Không, tôi chỉ nói sự thực. Tôi không bao giờ đóng vai khiêm tốn. Cũng không bao giờ tự cao. Nếu tôi thông minh một chút, tôi đã chẳng phải nằm tù mấy chục năm.

Gã đầu gấu cười hô hố, rồi nhại giọng miền Nam:

- Anh Hai, làm em phục quá đấy. Anh em thân ái thế, ông chú phải cảm động đi chứ.

- Anh chỉ được cái ăn nói bừa bãi.

Tiếng người yêu của gã cự gã.

- Thế em không muốn ông chú với bà cô giống như anh với em sao? Sao em ích kỷ thế, không muốn cô chú có hạnh phúc à?

- Thôi đừng đùa nữa. Cô chú không bằng lòng đâu.

Phó Nhòm hứng khởi:

- Ông bạn trúng số rồi. Mụ xưng em ngọt ngào quá.

Lão ngồi xuống, lắc đầu.

- Anh đúng là một thi sĩ. Giầu tưởng tượng thực.

- Không, khoản tình yêu này, tôi kinh nghiệm hơn ông bạn nhiều. Rồi thời gian sẽ trả lời. Bây giờ, tôi muốn hỏi ông bạn chuyện quan trọng hơn. Liệu Ngưu-Ma-Vương có kiếm chuyện với ông bạn không?

- Không ngại. Nó có tật, giật mình. Thái độ của nó, chứng tỏ nó đã chờn. Anh phải biết dưới chế độ ta, Đảng đã thành công ở điểm làm cho mọi người khiếp sợ. Nhân dân khiếp sợ Đảng đã đành. Nhưng cán bộ, đảng viên còn khiếp sợ hơn nhân dân. Sợ lẫn nhau. Sợ cấp trên. Lúc nào cũng phải giữ võ. Hai lưỡi dao đói rét và tù đày, luôn treo lơ lửng trên đầu. Sự khiếp sợ dẫn tới sự khuất phục, biến con người thành tôi tớ ngoan ngoãn, thành công cụ Đảng tùy ý xử dụng. Sự khiếp sợ của dân chính là sức mạnh của Đảng. Khi nào dân hết sợ, là Đảng hết thở.

Một lúc sau, Ngưu-Ma-Vương mở cửa cho các buồng ra lấy cơm. Cả xà lim phấn khởi khi thấy mỗi suất được đầy một bát rau muống. Giữa mùa rau muống, mà Hỏa-Lò họa hoằn mới được ăn. Những người có tiếp tế vắt chanh, trộn muối vừng, trộn ớt, làm thành một món nộm tuyệt vời.

Ngưu-Ma-Vương bảo lão:

- Anh ra ngoài, cắt tóc, cạo râu cho gọn.

Lão ngồi xuống chiếc ghế đẩu ở giữa sân. Một tên tù tự giác dùng kéo cắt tóc, cắt râu một cách chớp nhoáng. Độ bốn, năm phút đã xong.

- Cho anh tắm rửa.

Lão chạy vào buồng lấy khăn mặt. Phó Nhòm đưa cho lão một miếng xà phòng. Kỳ cọ thoải mái xong, lão vào buồng. Ngưu-Ma-Vương bỏ đi.

Phó Nhòm vui mừng:

- Mềm nắn, rắn buông. Đúng là nó sợ ông bạn rồi. Từ xưa tới nay, nó chưa ưu tiên cho ai như vậy. Cắt tóc mấy tháng một lần. Cả xà lim cùng cắt trong giờ vệ sinh. Thái độ của nó cũng khác hẳn.

Gã đầu gấu gọi to:

- Bà cô ơi, ông chú cắt tóc, cạo râu, trông trẻ ra đến hai mươi tuổi đấy.

- Cô thấy rồi.

Phó Nhòm đắc ý:

- Thấy chưa. Mụ ta vẫn theo rõi ông bạn đó. Tốc chiến, tốc thắng đi!

- Nhưng để làm gì mới được?

- Để giải trí, tiêu sầu, quên đi phần nào cảnh tù tội.

- Tình yêu không phải là thứ mang ra đùa cợt, giải trí. Đó là quan niệm của tôi. Thôi, chúng ta ăn.

Thấy lão gắp một gắp rau muống đưa lên miệng, gã ngăn lại:

- Ấy chết, bẩn lắm. Phải nhặt vất những lá úa, lá thối đi. Có khi có cả sâu bọ, cả đỉa. Ông bạn có biết nhà bếp nó luộc rau thế nào không? Rau đưa về bếp là nó quẳng ngay vào chảo, không thèm cởi cả lạt buộc, chứ đừng nói tới rửa ráy. Luộc xong một chảo, nó rải ra bệ xi măng, xếp những bó sống lên. Rồi luộc tiếp, lại chồng lên những bó sống đó. Một lớp chín, một lớp sống như vậy. Hấp hơi thành chín tuốt. Không phải chúng nó lười, hoặc vô lương tâm. Tám, chín thằng nhà bếp mà phục vụ gần ba nghìn tù. Không làm thế, sao kịp.

Cơm nước, thuốc lào xong, Phó Nhòm hỏi:

- Ông bạn có chơi cờ tướng không? Tôi có một bộ quân bằng giấy. Bàn cờ đứa nào đã gạch sẵn lên sàn nằm của tôi đây này. Nếu không ngủ trưa, làm vài ván cho qua thời giờ.

- Ừ thì chơi. Nhưng cờ tôi thấp lắm.

- Tôi cũng chẳng cao gì.

Hai người tập trung vào bàn cờ. Phó Nhòm rất hiếu thắng. Mỗi khi ăn được của lão một quân, gã đắc ý, rung đùi, mặt hớn hở. Lão đưa tốt vượt hà. Gã cho pháo nổ giết ngay. Rồi ngâm nga:

Đáng thương chỉ có dăm thằng tốt
Bị thúc qua sông mấy kẻ về.

Thua liền ba ván, lão nói:

- Cờ tôi thấp như vịt. Không đánh lại anh. Tôi nằm nghỉ một chút.

- Phải giải chiếu ra. Nằm ngay trên sàn xi măng tuy mát, nhưng không hiểu sao, dậy mệt lắm. Có lẽ xi măng nó hút hơi người. Cái chiếu đó của một lão hắc lào đầy mình nằm. Tôi đã giặt phơi cẩn thận rồi.

Lão giải chiếu ra nằm, quay mặt vào tường. Trên tường, lấm tấm những vệt máu thâm xì. Chắc những người nằm trước giết rệp, bôi lên. Lão giở mình nằm ngửa, nhìn lên trần. Lão cố suy đoán xem vì lý do gì, lão đang ở trại, lại chuyển về Hỏa-Lò. Họ định thả lão chăng? Không phải. Thả từ trại cũng được. Việc gì mất công chuyển về đây, mới thả. Chịu không lý giải nổi

Tiếng trẻ em nô đùa ầm ĩ từ trường Tân-Trào vọng vào. Chỉ bên kia bức tường thôi, là phố Hàng-Bông-Thợ-Nhuộm. Đi bộ độ hai mươi phút, là tới nhà em gái lão. Thế mà ngàn trùng cách biệt. Đột nhiên, lão thấy thân phận mình thua con chuồn chuồn, con chim sẻ. Chúng bay nhẩy tự do quá. Không bị cái gì kiềm tỏa. Nhưng bức tường cao sáu thước kia, với mảnh chai, với dây điện, nghĩa lý gì, so với thiên la, địa võng vô hình trùng trùng giăng mắc trên đất nước lão. Năm 61, lão đi tù. Con trai lão mới tám tuổi. Nó đang học lớp hai. Vợ chồng lão cưng nó lắm. Hai người nhịn ăn, nhịn mặc. Tất cả dồn cho nó. Lão sợ trẻ thơ thiếu dinh dưỡng, sau này, óc sẽ kém phát triển, cơ thể sẽ còi chột. Phiếu thịt, phiếu đường, đều để con dùng. Thằng bé nó giống bố ở đôi mắt, cái mũi. Giống mẹ ở nụ cười, cái tai. Nhiều lúc để con ngồi trong lòng, ngắm nó, lão nghĩ con người thực ra không bao giờ chết. Nếu lão có chết, thời một phần máu thịt lão, một phần tâm linh lão, vẫn tiếp tục sống trong thằng con. Cũng như bố mẹ lão tuy chết, nhưng thực tế, hai người vẫn sống trong lão. Cứ như thế, đời này sang đời khác, bất tận. Lão lập gia đình năm mới hai mươi hai tuổi, do bố mẹ sắp đặt. Hai cụ muốn có cháu nội để bế. Tuy nên vợ, nên chồng, theo lối cổ điển, nhưng vợ chồng lão sống với nhau hạnh phúc. Nàng là cô giáo tiểu học. Nhan sắc trung bình. Nhưng tính nết dịu dàng, đoan trang, chiều chồng, thương con, hiếu thảo, tề gia, nội trợ khéo. Đi tù, lão nhiều đêm ân hận, vì trong chín năm chung sống, lão đã không yêu thương vợ nhiều hơn nữa. Đôi lúc, lão nóng nẩy, quát mắng, khiến nàng phải khóc. Nàng hiền quá. Chẳng bao giờ cãi lại lão cả. Năm 77, tù về, được biết nàng ở Sài-Gòn, có ba con với gã quản lý thị trường. Lão bảo em gái đừng báo tin. Để cho nàng khỏi bận tâm. Yên với cuộc sống đang sống. Năm 80, gia đình nàng vượt biển. Tới nay, đã ba năm trôi qua, em gái lão vẫn không được tin tức gì. Rất có thể đã chìm đắm dưới lòng đại dương, làm mồi cho cá biển, như ngàn vạn gia đình bất hạnh khác. Lão thở dài.

Phó Nhòm đương đi đi, lại lại trên sàn, dừng lại hỏi:

- Có gì mà ông bạn thở dài vậy?

- Nằm không ngủ được. Nghĩ ngợi linh tinh. Buồn.

Lão ngồi dậy, giở thuốc ra, chuẩn bị hút.

- Chính vì vậy, tôi sợ nằm lắm. Cứ đi lại trên sàn thế này, cho đầu óc giải tỏa. Mệt lắm mới nằm. Tôi coi như mình đi dạo chơi trên "Đại lộ Hoàng Hôn". Mỗi ngày tôi đi ít nhất mười cây số. Mười sáu tháng nằm xà lim, tính ra tôi đã đi được một phần tám vòng trái đất rồi đó.

Nhả khói ra đầy buồng, lão nói:

- Ở trên trại, tôi sống như cây cỏ, quên hết. Về đây, lại đâm nghĩ ngợi. Tôi không để ý tới chuyện về, ở. Nhưng không hiểu sao chiến tranh Việt-Trung không xảy ra, mà họ cứ giam tôi mãi. Vô lý quá.

- Có cái lý nào ở cái xã hội này! Không có thằng Nga, thì thằng Tầu nó choảng cho bỏ mẹ rồi. Tình hữu nghị đời đời bền chặt, bây giờ thành ra đời đời lỏng lẻo. Thằng em út tôi ngỏm củ tỏi trong trận biên giới năm 79. Nó đóng ở Lào-Cai. Xe tăng Tầu sơn cờ đỏ sao vàng bò vào tới tận nơi, vẫn tưởng là xe tăng của mình. Toi mạng sạch.

Lão lắc đầu:

- Hai bên cùng khoe là đại thắng. Chẳng biết đâu mà lường.

- Chúng nó cùng một lò nói phét cả. Lính Tầu ngỏm nhiều. Nhưng lính mình cũng không kém. Được cái hai thằng cùng coi mạng người như ngóe. Nói thực với ông bạn, tôi chưa bao giờ thấy mấy ông lãnh tụ Đảng hoảng sợ tới như vậy. Đánh Pháp, đánh Mỹ, các ông ấy vẫn ung dung. Đằng này, vừa bị tấn công, báo Nhân-Dân đã đăng tít lớn trên trang nhất, kêu gọi sự can thiệp khẩn cấp của Liên-Xô. Brê-giơ-nép cảnh cáo rất đanh thép: "Trung-Quốc nên rút quân ngay khỏi Việt-Nam, khi còn chưa muộn". Bao nhiêu người bị huy động đi xây dựng phòng tuyến Sông-Cầu, để bảo vệ thủ đô. Chuẩn bị dùng cả võ khí hóa học ở Yên-Bái. Không vận cấp tốc mang quân tinh nhuệ từ Cam-pu-chia về. Địa hình biên giới là nơi phòng thủ lý tưởng, mà mới mười mấy ngày, bọn Tầu đã tiến sâu tới ba bốn chục cây số. Tuyến Lạng-Sơn chỉ còn cách hơn một trăm cây là tới Hà-Nội. Hoảng là phải. Mấy lãnh tụ đã chuẩn bị di tản vào Thanh-Hóa. Dân tộc thiểu số theo Tầu hết, ông bạn ạ. Hôm mùng năm tháng ba, Đặng Tiểu Bình tuyên bố rút quân và đe dọa: "Nếu lợi dụng việc rút quân mà tấn công, thì đừng hối hận". Phía Việt-Nam không dám nổ một phát súng. Bọn Tầu nó dùng thủ đoạn mua chuộc nhân tâm. Nó phát cho dân lương thực, quần áo. Nhưng tất cả nhà máy, hầm mỏ, cầu cống, cơ quan công cộng, nó phá sạch. Hang Pắc-Bó nó cũng cho tan. Mấy chục vạn quân đương đánh nhau ở Căm-pu-chia, không có bố Nga đứng cạnh, thì Tầu nó nuốt chửng. Hoàng Văn Hoan, tay sai hiến cả linh hồn cho Tầu mà thống trị, thì dân mình sẽ khốn nạn gấp mấy. Tay sai Nga cai trị còn đỡ hơn ít nhiều. Trong trận chiến mười mấy ngày ở biên giới, ngoài thằng chết, thằng bị thương tàn phế ra, thằng dân chạy loạn là thằng thua đau nhất. Khi họ trở về, gà, lợn, trâu, bò của họ đã bị bộ đội tới trước thịt sạch.

- Tôi còn gặp rất nhiều người thiểu số vùng biên giới trong tù. Họ nói họ đi tù là may. Vô số kẻ ủng hộ Tầu bị hạ sát, xác quăng xuống vực. Anh nói đúng. Nếu không có Liên-Xô thì nguy. Đánh nhau với Tầu, Việt-Nam bị bất lợi nhiều mặt lắm. Quân Tầu đã từng đóng ở miền Bắc nhiều năm. Địa hình, nó thuộc như lòng bàn tay. Hơn nữa, khi tình nghĩa anh em còn thắm thiết, Bộ Quốc-Phòng Việt-Nam còn đưa cả bản đồ quân sự sang in ở Trung-Quốc. Trong Đảng, trong quân đội không thiếu gì người thân Tầu. Sức dân thì kiệt lắm rồi. Lại đang mắc kẹt ở Căm-pu-chia. Lực lượng quân sự Tầu gấp mười Việt-Nam. Chúng ở sát cạnh, hậu cần thuận lợi…

- Ngưu-Ma-Vương vào đấy! Chúng ta tạm ngừng.

Hắn mở khóa cho các buồng ra lấy cơm, rồi bảo lão:

- Anh đi cung.

Thấy hắn nhìn mình có vẻ lo ngại, lão nói nhỏ:

- Ông an tâm.

Rồi đi theo tên quản giáo thường trực. Lão được dẫn vào một phòng khá rộng, bàn ghế lịch sự, quạt trần chạy vù vù. Có cả một bức tranh sơn dầu lớn trên tường. Không phải là phòng hỏi cung. Một người đứng tuổi béo lùn, đầu húi cua, sơ mi trắng cộc tay, đồng hồ vàng, kính lão, tự giới thiệu là người của Bộ. Ngồi bên y là hai thanh niên, tuổi chừng ba mươi, cũng mặc thường phục. Nhìn thái độ kính cẩn của họ đối với y, lão đoán y là một cán bộ cao cấp. Một thanh niên rót trà ra mấy cái tách. Y chỉ tay vào bao Thăng-Long trên bàn, tươi cười:

- Anh hút thuốc, uống trà đi. Sức khỏe anh tốt chứ? Chúng tôi đưa anh về đây là muốn mở cho anh một lối thoát. Anh tù tất cả bao năm rồi?

- Lần thứ nhất, mười sáu năm. Lần này, từ khi nổ ra chiến tranh biên giới, hơn bốn năm.

Y gật gù:

- Đúng là một thiệt thòi cho anh. Nhưng thời chiến nước nào cũng phải làm vậy. Hồi thế chiến thứ hai, Mỹ cũng tập trung tất cả người Nhật trên đất Mỹ. Khi bọn bành trướng Trung-Quốc tràn qua, đám ngụy quân, ngụy quyền được tha về ở sáu tỉnh biên giới đều theo Trung-Quốc. Họ bị xử tử lập tức theo kỷ luật chiến trường. Anh ở Hà-Nội là may đó. Tôi đã xem hồ sơ anh. Từ năm 77 đến năm 79, gần hai năm ở ngoài, anh không chịu làm ăn gì, chỉ buôn bán bất hợp pháp.

- Tôi không có nghề ngỗng gì. Chỉ biết cắt tóc, do tự học trong trại. Nhưng công an phường cấm tôi làm nghề đó. Họ bảo cắt tóc rong, giao thiệp với nhiều người, không được. Tôi đứng đường bơm xe, cũng bị đuổi. Đi gánh gạch, xách vữa một thời gian cũng bị sa thải, do lý lịch tù tội. Vì vậy, tôi phải đi buôn trà, buôn mật ong từ Phú-Thọ, Lạng-Sơn. Mỗi chuyến buôn dăm cân trà, hoặc dăm lít mật ong. Chỉ tạm đủ sống. Nhiều khi bị tịch thu, mất cả vốn. Có nhiều ngày, tôi phải nhịn đói.

- Sao anh không lấy vợ? Anh muốn rảnh rang để hoạt động?

- Ông nghĩ xem, lấy vợ cũng phải gặp người hợp với mình, bằng lòng lấy mình. Tôi ra tù, vợ đã bỏ đi lấy chồng. Con đi bộ đội chết trong rừng Trường-Sơn mất xác. Lòng buồn rầu, chưa nghĩ tới việc lấy vợ. Hơn nữa, cuộc sống bấp bênh, nuôi thân còn chưa xong. Ông bảo tôi cố ý sống độc thân để hoạt động. Chết đói dở, hoạt động cái gì? Các ông cách mạng ngày trước, đa phần đều vợ con cả. Đâu cứ phải không vợ, không con mới làm cách mạng.

- Thôi được. Tôi biết cuộc đời anh có nhiều đau khổ. Bây giờ chúng tôi muốn tạo điều kiện cho anh làm lại cuộc đời. Anh mới năm mươi ba tuổi. Kém tôi bẩy tuổi. Còn sớm chán. Tôi hỏi thực anh. Anh có muốn ra tù không?

- Con chó nằm trong cũi, còn mong được xổng. Huống hồ con người. Đó là nói chung. Riêng đối với tôi, thực lòng nói với ông, tôi chán chường lắm. Tù lâu đã thành chai rồi. Ra tù, ở tù, cũng vậy thôi. Mỗi thứ có cái khổ của nó. Ở ngoài, tôi biết làm gì để đổ vào mồm ngày hai bữa? Lại lên đồn, xuống sở, hạch hỏi. Quá chết!

- Vì thế chúng tôi mới tạo điều kiện cho anh, bù đắp lại những thiệt thòi anh đã phải chịu. Chúng tôi sẽ bố trí cho anh ở thành phố Hồ Chí Minh. Việc ăn ở, anh khỏi lo. Có thể còn kiếm người chung sống với anh, cho tuổi già đỡ cô đơn. Nhưng với điều kiện là anh phải giúp cách mạng một số việc. Chúng tôi không thiếu người. Nhưng dùng anh, thuận lợi cho công việc hơn. Và chủ yếu cũng để bù đắp lại cho anh. Anh nghĩ sao?

- Ông có thể cho tôi biết cụ thể là tôi phải làm gì?

- Cái đó sau. Phục vụ cách mạng là vô điều kiện. Cách mạng giao cho việc gì là phải hoàn thành việc đó. Tất nhiên, công việc sẽ không vượt quá khả năng của anh. Bây giờ, tôi cần biết là anh có chấp nhận không?

- Khi tôi chưa biết cụ thể, tôi không chấp nhận được.

- Không sao. Chúng tôi không vội. Chúng tôi để thời giờ cho anh suy nghĩ. Khi nào bằng lòng, anh báo cho giám thị trại, xin gặp tôi. Hôm nay, tôi nói thế là rõ ràng lắm rồi. Phải cân nhắc hơn thiệt. Đừng đánh mất cơ hội. Anh có muốn viết thư cho em gái anh không? Chúng tôi chuyển hộ.

Lão xin giấy bút, viết vắn tắt mấy hàng cho em lão, rồi đưa cho một thanh niên. Tên công an cao cấp đứng dậy. Lão cũng đứng dậy.

Một thanh niên đưa cho lão một túi ni-lông, trong đựng một gói đường, hai hộp sữa, một gói trà, một tút Điện-Biên, một bật lửa hơi.

- Thủ trưởng chúng tôi biếu anh đó.

- Ở Hỏa-Lò cấm hút thuốc. Không có nước sôi pha trà. Tôi mang những thứ này vào, có thể bị tịch thu.

Tên thủ trưởng cười:

- Anh an tâm. Tôi sẽ bảo họ. Hãy suy nghĩ kỹ điều tôi nói với anh hôm nay. Tôi đợi câu trả lời của anh.

Tên quản giáo thường trực dẫn lão về xà lim, nói với Ngưu-Ma-Vương:

- Đồng chí thiếu tướng Cục trưởng nói cho phép nó hút thuốc, uống trà.

Ngưu-Ma-Vương nể lão ra mặt. Hắn không khám gì, mở cửa buồng, bảo:

- Anh lấy ca ra mà đun nước sôi.

Lão cảm ơn, mang ca nước của Phó Nhòm ra. Chỉ hai phút, xong việc. Lão bê ca trà vào buồng, lấy chiếc áo bông ra ủ lại.

Phó Nhòm hỏi:

- Thế nào, triển vọng tốt chứ?

Lão lắc đầu:

- Không có gì tốt lành cả. Ăn cơm xong, tôi sẽ nói cho anh nghe.

Tiếng khóa cửa khu xà lim loảng xoảng. Ngưu-Ma-Vương rít một điếu thuốc lào, rồi bỏ đi. Năm, sáu người trong xà lim chúc mừng lão sắp về. Họ nghĩ được chấp pháp cho quà là dấu hiệu đáng mừng.

Gã đầu gấu toang toác:

- Ông chú với bà cô sắp thoát ngục rồi. Ra ngoài gặp nhau, tha hồ vi vu. Đừng quên thằng cháu bất hạnh này nhá.

Tiếng bà Sài-Gòn vui vẻ:

- Về, cô sẽ gửi quà cho cháu.

Có tiếng ai hỏi gì, lão không nghe rõ.

Phó Nhòm đứng dậy nói:

- Giặc lái cùm, không đứng lên được. Ngồi nói, phải nói to mới nghe nổi.

- Ông anh tù lâu, kinh nghiệm. Muốn hỏi ông anh, liệu em có được chủ tịch Trường Chinh ân xá, tha chết không? Có hai mươi tám tấn thóc thôi mà. Đâu đáng tội chết.

Lão an ủi:

- Sống chết có số. Lo nghĩ nhiều, vô ích. Tôi không dám khẳng định cái gì cả. Nhưng cứ hy vọng. Biết đâu, ông trời thương.

Phó Nhòm nói với lão:

- Kể cũng thương hại. Thằng này chết là cái chắc. Lão Trường Chinh có tha ai bao giờ đâu. Còn việc ông bạn thế nào? Đừng nhìn đời bằng con mắt bi quan quá.

Lão kể hết cho Phó Nhòm nghe, rồi buồn rầu:

- Tôi thừa hiểu nó muốn dùng tôi để hại người khác. Tôi nguyên là đại úy quân đội quốc gia, lại tù đày suốt hai mươi năm. Dễ được những người chống đối tin tưởng. Nó muốn sử dụng tôi như một cái bẫy. Việc khốn nạn ấy, đời nào tôi chấp nhận. Bây giờ, tôi mới hiểu tại sao tôi lại chuyển về Hỏa-Lò.

Phó nhòm thán phục, giơ tay, bắt tay lão:

- Ông bạn đúng là bậc trượng phu. Hoàn toàn đồng ý với ông bạn. Để ra tù, mà phải phản phúc, hại người, cái giá đó ô nhục quá. Tôi có nhiều tật xấu. Nhưng lừa thầy, phản bạn, vong ân, bội nghĩa thì không. Tôi có yêu nhiều em thực. Nhưng tôi không phụ em nào cả. Tôi chỉ đa tình, mà không bạc tình. Những thằng sở khanh là tôi chúa ghét.

- Khi nó cho quà, tôi định không nhận. Sau, tôi nghĩ những thứ đó đâu phải của chúng nó. Chúng nó cướp của dân. Mình cứ dùng, mà chẳng chịu ơn nghĩa gì với chúng.

- Khi ăn cắp của công, tôi cũng nghĩ như vậy. Nhưng mua chuộc không nổi, chắc chúng lại tống ông bạn đi trại.

- Đời tôi đã tan nát rồi. Có tan nát nữa, cũng thế thôi.

Ngày hôm đó, hai người ngồi trò chuyện với nhau suốt. Mới gặp nhau có một ngày, mà hai người, một "Đại úy ngụy", một Đảng viên, đã trở thành đôi bạn tâm đắc.

Buổi tối, xà lim sôi nổi, nhộn nhịp. Nam nữ đùa bỡn nhau. Tuy hơi tục tĩu, nhưng vui vẻ. Những cái lược, những cái bàn chải lao từ buồng nọ sang buồng kia, vun vút. Họ trao đổi quà với nhau, cho những người không tiếp tế đôi chút. Tuy không no lòng, nhưng cũng đỡ tủi. Phó Nhòm đứng ngó canh chừng bọn võ trang đi tuần vào.

Lão nói với gã:

- Tôi cũng đã từng ở xà lim. Nhưng những người ở xà lim này tốt thật. Họ cho cả những người không có tiếp tế. Có thể vì họ mới tù, lại có của. Thằng thượng úy bộ đội không ai cho nó cả. Tội thật.

- Nó hay sớ bẩm, ai cũng ghét. Hơn nữa, nó ở tận buồng 1, sát nhà vệ sinh. Xa thế, làm sao chuyển quà được. Muốn chuyển, phải qua buồng mình.

- Từ khi nó bị rạch mặt, anh bảo nó đã chừa rồi. Hay mình cho nó một tí.

Phó Nhòm cũng động lòng:

- Ông bạn nghĩ phải. Nên an ủi nó một chút. Để tôi lái xe sang buồng nó.

Lão xếp hai cái bánh khảo, ít kẹo mè xửng vào túi ni-lông.

Lần đầu tiên có người cho quà, gã cảm động.

- Con cảm ơn bố đã thương tới con.

Gã đầu gấu mắng:

- Loại như mày, tao đã gặp nhiều. Cho ăn thì "bố bố con con", không cho thì "Đ… mẹ thằng già". Hết "tự hào cách mạng" chưa? Nếu còn bệnh xì xọt, tao sẽ rạch mép. Chứ không rạch mặt nữa.

Lão nhờ Phó Nhòm phân phối thuốc lá cho các buồng. Mỗi người ba điếu.

Lão đứng lên hỏi:

- Các chị, các cháu có hút không?

Cô trong đoàn kịch nói, cười khúc khích:

- Cháu hút được cả thuốc lào. Cả xì gà gộc.

Cả xà lim cười ồ.

Bà Sài-Gòn vui vẻ:

- Em không ghiền. Nhưng em phải hút để chia vui với anh Hai. Anh Hai sắp về rồi mà.

- Không có chuyện về đâu, chị ơi. Còn nữ ca sĩ nữa, có hút không?

- Cháu hút, để lấy giọng hát cho hay, phục vụ xà lim.

- Phái đẹp chỉ có ba người hút thôi à?

Các chị, các cô cảm ơn, không hút.

Chương trình ca nhạc thứ bẩy kéo dài tới mười giờ tối. Tất cả mọi người đều phải hát, dù không biết hát. Mấy bà bị ép mãi, không khước từ được, đành đứng lên hát mấy bài ca ru con. Có bà hát cả bài "Bé bé bồng bông, bé đi sơ tán. Má đi lấy chồng" làm cả xà lim vỗ tay, cười sặc sụa.

Gã đầu gấu động viên:

- Không cần hát hay, chỉ cần hay hát thôi. Hoan hô các bà cô!

Cô ca sĩ, cô diễn viên kịch nói hát nhiều nhất. Mỗi người tới hơn chục bài. Toàn loại nhạc vàng.

Phó Nhòm nói với lão:

- Đang lúc cần dũng mãnh chiến đấu, mà toàn là ẻo lả, sướt mướt, rã rời tinh thần. Thua là phải. Đúng là thứ nhạc mất nước, mất nhà, mất vợ. "Lênh đênh đài cao chiến hạm, anh ngồi nhìn sao rơi nhớ tới mắt em" thì còn đánh chác mẹ gì nữa.

Lão thở dài:

- "Phòng trà nghỉ chân nghe Thái-Thanh ca Biệt Ly" thì bây giờ được biệt ly thật, được lao động khổ sai, nghe quản giáo nó sỉ nhục. "Súng gươm từ đây sẽ thôi cách trở tình này" thì bây giờ có trại tập trung nó cách trở hữu hiệu hơn nhiều. Chưa nói tới ý chí. Đa số, ý thức chính trị cũng không có làm sao có thể chống được với cộng sản. Phải trách mình trước. Trách Mỹ sau. Thôi, chuyện đã rồi. Không bàn tới nữa. Đi ngủ.

- Ông bạn ngủ đi. Tôi còn viết thư cho "em". Có giấy rồi.

Lão buông màn, ngủ tới khoảng bốn giờ sáng. Rồi tháo màn, ngồi luyện khí công như thường lệ. Một lúc, Phó Nhòm thức giấc. Gã đun nước pha trà. Mọi người có lẽ còn ngủ cả. Hai người ngồi uống trà, thuốc lá phì phèo. Lão thưởng thức hương trà thơm ngọt, thấm thía, tinh thần sảng khoái.

- Trong tù mà được những phút như thế này, thật là hãn hữu. Ở ngoài cũng chẳng mấy khi có. Lo kiếm sống tối mày, tối mặt. Có lúc nào thư thái. Ngồi đối ẩm với người tâm sự được, đáng quý lắm. Các cụ ngày xưa nói "Đối diện ẩm trà tất ngã thê" là vậy. Tôi nhận thấy, nếu không quá thiếu thốn, nhà tù chính là nơi gần gũi nhau hơn, đối xử với nhau tốt đẹp hơn. Người nào mới vào, cũng được coi như khách quý. Tôi ở đây chưa được hai hôm, mà cảm thấy thân thiết với mọi người. Ở ngoài xã hội, muốn thân với nhau, còn lâu. Ở buồng chung, ở trên trại, giành giật sự sống khiếp lắm. Do quá đói khổ, mất hết tình người. Xà lim ở các trại cũng vậy. Đúng là những nấm mồ câm lặng. Ai cũng đói rũ, cũng cùm kẹp đau đớn. Không ai buồn nói với ai.

- Cùng hoạn nạn, nên thương nhau. Đồng cam khó hơn cộng khổ nhiều. Nhưng khổ quá, thì con người thành con thú, cắn xé nhau. Ở đây, ngoài mụ Sài-Gòn, tất cả chỉ một tháng tiếp tế một lần. Ăn dè, cũng không đủ. Nhưng cũng không đến nỗi quá đói. Do vậy, tình người chưa mất. Rệp cắn ông bạn mẩn cả vai lên kìa.

- Rận, rệp là bạn đồng hành của tù. Không cách nào trừ nổi. Viết xong thư cho em chưa?

- Xong rồi. Yêu đương trong này chỉ để tiêu sầu thôi. Rồi ra, mỗi người một ngả. Họ dậy cả rồi. Chúng ta tập thể dục đi. Ở xà lim, ai cũng phải tập cả.

Gã đầu gấu hát ong ỏng:

Ngày chủ nhật buồn, còn ai, còn ai. Môi em nồng nàn…

Phó Nhòm chửi:

- Đ… mẹ chúng nó. Đương lúc chiến tranh chết chóc như thế mà lúc nào cũng môi em với vai em. Đúng là nhạc phản chiến! Không hiểu chúng nó là cái giống gì?

Có tiếng giầy đi vào. Gã ra nghé, rồi mừng rỡ:

- Hôm nay, Ngưu-Ma-Vương nghỉ. Ông quản giáo người miền Nam coi thay. Ông này hiền như đất thó. Không hiểu sao chưa bị đuổi ra khỏi cái nghề cần độc ác, vô lương tâm này. Sớm muộn gì cũng bị chuyển ngành thôi.

Ông quản giáo đã nhiều tuổi, gầy xọm, vào mở cửa buồng lão trước tiên.

Phó Nhòm nói nhỏ:

- Hôm nay có thể tắm giặt được. Có gì mang tất cả ra giặt đi.

Hai người vào phòng vệ sinh độ hai mươi phút. Họ vẫn hà tiện, không lãng phí nước. Còn dành cho người khác dùng. Họ định vào buồng, thì ông quản giáo bảo:

- Các anh cứ ở ngoài sân một lúc cho thoáng.

Rồi ông vào mở cửa buồng bà Sài-Gòn.

Mấy khi được thoải mái như vậy. Phó Nhòm hứng khởi, chạy vòng quanh sân, trông rất thanh niên. Còn lão giơ tay, hít thở không khí ban mai tươi mát.

Ông quản giáo già ngồi vào bàn, hút liền hai điếu thuốc lào.

Nhìn ra cửa sân, ông nói với lão:

- Anh ra khép cái cửa lại. Họ nhìn thấy, bất tiện.

Phó Nhòm nhanh nhẩu chạy ra khép cửa.

Thấy ông quản giáo không uống trà, lão hỏi:

- Báo cáo cán bộ. Tôi có trà, có thể pha mời cán bộ được chứ ạ?

- Sáng nay, tôi quên không mang theo. Anh pha uống cho vui.

Lão vào lấy gói trà Ba-Đình, cắm nước sôi.

- Anh mới tới xà lim này à?

- Tôi mới tới hôm kia.

- Trông anh gầy lắm. Chắc tù lâu rồi?

- Tất cả hai mươi năm.

- Tội gì mà tù nhiều thế?

Lão kể đầu đuôi về lý do đi tù của lão.

Ông quản giáo già chép miệng:

- Anh thì ở lại miền Bắc năm 54. Tôi thì ra Bắc tập kết. Anh vợ bỏ. Tôi vợ chết năm 1969. Mãi tới thống nhất, tôi mới biết tin. Anh, con chết trong rừng Trường-Sơn. Tôi, con chết bên Căm-pu-chia. Tôi cũng sống một mình như anh. Tôi còn một năm nữa là về hưu.

- Cán bộ uống đi cho nóng.

- Cảm ơn. Anh uống đi. Mỗi người một số phận, anh ạ. Buồn phiền cũng vậy. Không giải quyết được gì. Tôi có người em là thiếu tá ngụy, hiện ở trại Tân-Lập. Nó cũng gầy như anh ấy. Anh chẳng muốn ở tù. Tôi chẳng muốn làm nghề coi tù. Nhưng vẫn phải làm.

- Gặp một quản giáo như cán bộ, tù chúng tôi cũng thấy an ủi lắm.

- Tôi cứ nghĩ cách mạng thành công rồi, tù sẽ giảm. Không ngờ lại tăng gấp bội. Các anh chắc thèm thuốc lào lắm, phải không? Hút tạm một điếu đi. Chiều, tôi sẽ đưa cho anh một gói, phân phát cho họ hút. Nhưng đừng nói với họ là tôi cho. Rách việc lắm.

- Chào cán bộ ạ.

Bà Sài-Gòn mang màn ra phơi, chào.

Lão đứng dậy:

- Cảm ơn cán bộ đã cho hít thở không khí ngoài sân.

- Uống xong trà, hãy vào.

Phó Nhòm chạy đã mệt, dừng lại, nháy mắt với lão.

Ông quản giáo mời bà Sài-Gòn:

- Chị uống trà với chúng tôi đi.

- Cảm ơn cán bộ. Tôi có trà. Xin phép cán bộ cho cắm nước sôi.

- Phép tắc gì. Cứ tự nhiên.

Bà Sài-Gòn mang ở buồng ra một ca nước, và một túi ni-lông gạo nếp rang, khoảng ba kí lô.

- Báo cáo cán bộ, tôi biếu anh Hai đây ít gạo nếp.

Lão vội vàng từ chối:

- Tôi không dám nhận đâu. Chị phải để mà dùng chứ.

Ông quản giáo cười vui:

- Chị ấy thấy anh còm, chị ấy cho. Tôi ra lệnh mang vào buồng!

Phó Nhòm xách túi gạo nếp rang vào. Lão bối rối cảm ơn, rồi đi theo.

Các buồng lần lượt ra, tắm rửa thỏa thích. Họ mở cửa gió buồng nhau ra, nhìn vào, chuyện trò tự do. Ông quản giáo già ngồi hút thuốc, uống trà, vẻ chán đời, không nói năng gì. Chiếc điếu cầy của ông rít lên liên tiếp. Dân nghiện, ai cũng muốn hút bằng điếu cầy có nước, cho nó mát phổi. Thuốc lào cuộn giấy báo hút nóng lắm. Ông cho họ thuốc, cho họ hút. Gã đầu gấu đứng ở cửa buồng người yêu thì thầm rất lâu.

Cô diễn viên kịch nói, giục:

- Hôn nhau đi!

Gã cười:

- Thử hôn rồi, nhưng song sắt to quá, khít quá. Môi không chạm nhau được. Chỉ đưa lọt ngón tay qua thôi.

Người yêu gã bảo:

- Ai anh cũng chửi. Nói nhiều lần, anh không nghe. Nhưng riêng ông chú mới vào, nếu anh chửi, em sẽ cắt đứt quan hệ đấy.

Gã vẻ thuần phục:

- Đời nào anh chửi ông chú. Anh còn bảo vệ là đằng khác. Kể cả lão ở cùng buồng ông chú làm ăng-ten, anh chỉ thỉnh thoảng cảnh cáo thôi. Lão ấy không sớ bẩm gì chuyện xà lim, nên anh không ra tay.

- Thôi, vào buồng đi. Không nên lợi dụng sự dễ dàng của ông quản giáo mà quá đáng. Phải nể ông ấy một chút.

Người yêu giục, gã mới chịu vào buồng.

Phó Nhòm ngong ngóng đợi cô buôn đô la ra. Gã đứng lom khom, áp mặt vào cái cửa gió to bằng hai bàn tay. Cô ca sĩ đi trước, gã cười chào xã giao. Tới lượt cô buôn đô la đi sau. Gã thò qua song sắt lá thư đã gấp gọn bằng bao diêm. Ả cầm lấy, giấu đi rất nhanh, rồi vào nhà vệ sinh.

Phó Nhòm mặt mày rạng rỡ:

- Bước đầu như thế là thắng lợi. Phải chuyển sang bước hai. Tấn công ào ạt.

Lão cười:

- Ông quản giáo này tốt thật. Các buồng, nam nữ nói chuyện với nhau như thế, mà cứ lờ tịt. Phải có sự thông cảm sâu sắc lắm, mới dễ dàng đến thế được. Trong đời tù, tôi cũng gặp vài ông tương tự. Tù quý trọng các ông ấy lắm. Kể cả tù lưu manh. Quả là gần bùn mà chẳng hôi tanh mùi bùn. Bản chất phải lương thiện vô cùng, mới giữ được vậy.

- Ông bạn thấy có nam, có nữ, vui hẳn lên, phải không?

- Đương nhiên. Đơn vị nhân loại không phải là một, mà là một cặp nam nữ. Tạo hoá sinh ra vậy rồi.

Phó Nhòm vẫn nghe ngóng. Thấy tiếng dép lẹp xẹp từ nhà vệ sinh đi tới, gã nhẩy ra cửa. Cô ca sĩ ra sân phơi quần áo. Cô buôn đô la xách bô, xách sô nước vào buồng, rồi trở ra. Qua cửa buồng, cô ta đứng lại.

Phó Nhòm mỉm cười:

- Cái nhẫn ngọc thạch đẹp quá. Có thể cho xem được không?

Cô ta thò ngón tay qua song sắt. Phó Nhòm nắm lấy ngón tay búp măng, vuốt ve, không muốn buông ra. Lão quay lưng đi…

- Ông bạn nhìn gì ngoài sân đấy?

Lão quay lại:

- Không, để cho anh chị tự nhiên thôi. Chúc mừng anh đã toại nguyện.

Phó Nhòm, mắt long lanh:

- Chưa đọc thư, đã quỵ rồi. Tôi dự tính không sai. Còn ông bạn sao cứ lạnh lùng thế. Hãy noi gương tôi. Tù lâu, tim hóa đá rồi sao?

Gã đầu gấu từ nẫy vẫn theo rõi, cười ha ha.

- Công nhận cưa của Phó Nhòm đúng là loại cưa Tiệp thứ thiệt. Xoẹt một cái, cưa đổ Nữ Thần Đô La ngay.

Cơm nước nhà bếp đã chia xong. Ông quản giáo già mở cửa từng buồng, cho ra lấy cơm, rồi khóa cửa khu xà lim, bỏ đi.

Gã trưởng phòng công ty hóa chất trầm trồ:

- Ông quản giáo già này đúng là một Găng-đi Việt-Nam. Đạo đức thực, chứ không đạo đức giả, đạo đức đóng kịch, như mấy vị tai to, mặt lớn tôi đã gặp khi họ tới thăm công ty tôi.

- Từ nay, chúng ta gọi ông là Găng-đi.

- Nhất trí, nhất trí.

Khoảng bốn giờ chiều, Găng-đi vào mở buồng, cho mọi người ra lấy cơm, lấy quần áo vào. Buồng lão ra trước tiên. Găng-đi đưa cho lão gói thuốc lào Thống-Nhất một lạng.

Lão cảm ơn:

- Cán bộ tốt quá. Anh chị em ở đây gọi cán bộ là Găng-đi Việt-Nam.

Ông quản giáo già cười hom hem:

- Tôi đâu xứng đáng như vậy. Đời tôi cũng đã đau khổ nhiều, nên thông cảm với đau khổ của người khác. Tôi thật lòng thương tù. Em trai tôi cũng tù mà. Nhìn suất cơm các anh, tôi ái ngại quá. Nhưng biết làm thế nào? Tôi không nói mầu mè đâu.

- Tôi thấy người miền Nam phần nhiều thật thà, thẳng thắn. Nhất là nông dân. Hồi năm sáu mươi, tôi ngồi ăn bánh xèo ở vỉa hè. Tôi hỏi bác già Nam bộ bán bánh cho tôi: "Bánh xèo trong Nam có làm giống thế này không?" Bác ta đốp chát: "Trong Nam mà làm bánh xèo thế này, chó nó cũng không thèm ăn". Rồi bác kể bánh xèo trong Nam phải có nào là nước cốt dừa, nào là tôm…

Găng-đi cười:

- Đúng vậy. Nông dân Nam bộ nghĩ sao, nói vậy. Lúc đó, anh có giận không?

- Tôi còn thích thú là đằng khác. Tôi đang ngồi ăn bánh xèo của bác ta, mà bác ta lại độp vào mặt là bánh xèo đó, chó trong Nam cũng không thèm ăn. Ngay thật đến thế là cùng. Nhưng đó là sự thật. Tôi đâm quý bác ta. Từ đó, tôi hay ra ăn. Chúng tôi trở thành thân nhau. Cán bộ cho phép tôi đi phân phát thuốc lào.

Lão đi tới từng buồng, đưa thuốc lào cho mọi người.

Gã thượng úy bộ đội năn nỉ:

- Con không có lửa. Bố cho con viên đá. Con đói lắm. Bố có gì cho con ăn với.

Lão chạy vào buồng, lấy cái khuy gắn đá đưa cho gã, kèm thêm một cân gạo nếp rang. Lão tới các buồng nữ, cảm ơn những người cho lão quà mừng sinh nhật. Lão cho cô ca sĩ, cô diễn viên kịch nói, gã đầu gấu mỗi người một bao thuốc lá. Tới buồng bà Sài-Gòn, lão đưa cho bà một bao:

- Chị không nghiện. Nhưng mỗi ngày, sau bữa cơm, hút một điếu cho thơm, không hại gì đâu.

- Em nhận. Nhưng với điều kiện, từ nay em cho gì anh Hai cũng phải nhận. Anh Hai cho em địa chỉ cô em anh Hai. Em về, em sẽ tới thăm, gửi quà cho anh Hai. Liệu anh Hai có được tha không? Hai mươi năm rồi, còn giam đến bao giờ nữa. Độc ác quá vậy.

- Không có hy vọng gì. Công an ép tôi phải làm việc cho họ, hại người khác, mới thả. Tôi không chấp nhận. Họ cho tôi tí quà là để dụ dỗ tôi thôi. Không tốt lành gì cả. Tối nay, tôi sẽ ghi địa chỉ của em tôi đưa cho chị. Tôi rất xúc động trước lòng tốt của chị. Cảm ơn nhớ.

- Có gì mà ơn với huệ. Anh Hai cứ coi em như em gái anh Hai.

Lão giơ tay chào:

- Vâng, cảm ơn cô em.

Rồi vào buồng. Phó Nhòm cũng từ cửa buồng Nữ Thần Đô La trở về.

Gã tò mò:

- Ông bạn "khai hỏa" rồi phải không? Phản ứng của em ra sao? Tôi thấy hai bên có vẻ "hữu nghị" lắm.

Lão lắc đầu:

- Chị ấy tốt với tôi, tôi cảm ơn. Có gì khác đâu.

- Về phía tôi, kết quả vượt chỉ tiêu. Em hứa ra ngoài sẽ tìm tôi. Tôi cho em địa chỉ một thằng bạn. Em sẽ liên lạc với tôi qua nó. Em ly dị lâu rồi. Nhưng vợ tôi là con sư tử Hà-Đông, dữ tợn lắm.

- Thôi, chúng ta ăn đi, rồi uống trà. Ủ lâu cũng nguội mất.

Tối đến, cả xà lim tán tụng Găng-đi không tiếc lời. Mùi thuốc lào, thuốc lá thơm lừng. Phó Nhòm tràn đầy hứng khởi, đứng lên tuyên bố:

- Tối nay, chúng ta hát mừng thánh Găng-đi Việt-Nam. Tôi xin mở đầu với bài "Danube Bleu", tức "Giòng Sông Xanh".

Gã hát cả bằng tiếng Việt, lẫn tiếng Pháp. Mục đích là để trổ tài với Nữ Thần Đô La. Tiếp theo, gã hát bài "Trở Về Sô-ri-en-tô", rồi kết thúc với bài "Lịch Sử Một Cuộc Tình". Mọi người vỗ tay ầm ầm. Cô ca sĩ, cô diễn viên kịch nói, thay nhau hát, không mệt mỏi. Càng hát, càng bốc. Gã thượng úy bộ đội, no bụng, cũng đứng lên góp vui. Không ngờ giọng gã trầm và ấm đến thế! Cả xà lim ngạc nhiên. Gã hát một loạt bài cách mạng. Rồi kết thúc bằng ba bài dân ca Lào, vừa bằng tiếng Lào, vừa bằng tiếng Việt. Gã được hoan hô nhiệt liệt.

- Xà lim đã phát hiện một tài năng mới.

- Đã có một cặp song ca nam nữ tuyệt vời.

Gã tự phụ:

- Nếu tôi có ăn, tôi hát sẽ hay hơn nhiều. Đói hụt cả hơi. Chỉ hát được đến thế!

Gã đầu gấu mắng:

- Chưa gì đã giở giọng vòi ăn. Đồ mạt hạng.

Lão can:

- Thôi, từ nay xà lim là một nhà. Mọi chuyện cũ, bỏ qua hết. Chú mày ơi, đừng giận nữa. Rằng tài nên trọng, mà tình nên thương.

Phó Nhòm đứng lên tuyên bố bế mạc. Mọi người chuyện trò râm ran tới khuya. Chỉ im lặng, khi nghe tiếng giầy công an võ trang vào tuần tra.

Lão nói với Phó Nhòm:

- Bắt đầu đêm nay, tôi dạy anh khí công.

Gã cười:

- Cảm ơn ông bạn. Tôi phấn chấn quá, chưa học nổi. Đợi mấy hôm nữa. "Vitamine E" công hiệu thực.

- Vậy chúng ta làm một điếu. Tôi đi ngủ. Còn anh nằm nhấm nháp khoản "Vitamine E". Không biết em bên kia có nằm nhâm nhi khoản "Vitamine A" không?

- Em đa tình lắm. Mắt lúc nào cũng long lanh là nhờ có "Vitamine A" do tôi cung cấp đấy. Thôi ông bạn ngủ đi. Tôi còn phải mơ màng…

Ngày qua ngày, lão ở xà lim thấm thoát đã hai tuần. Lão không xin gặp tên cục trưởng. Lão biết khi khước từ sự cộng tác với công an, cánh cửa nhà tù sẽ tiếp tục khép chặt. Lão đã tỏ rõ lập trường ngoan cố, không chịu phục vụ cách mạng. Lão thở dài. Không còn lựa chọn nào khác. Phó Nhòm đối với lão đã trở thành một người bạn tâm tình. Lão thấy gã có học vấn, thẳng thắn, tốt bụng và rất ghét chế độ. Gã cứ tiếc rẻ: "Giá miền Nam mà giải phóng miền Bắc thì tốt biết bao!" Từng ở trong Đảng nhiều năm, gã khẳng định guồng máy độc tài này chỉ mang lại tai ương cho dân tộc. Từng được đi ngoại quốc, gã khẳng định kẻ nào đã sống trong chế độ, đã được nhìn thấy thế giới, với tất cả cái tốt, cái xấu của nó, mà còn chấp nhận được chế độ, thần kinh kẻ đó phải có vấn đề.

Em gái lão đã gửi quà cho lão. Kèm theo một lá thư khuyên lão hãy đón nhận sự "mở đường" của Đảng. Xem thư, lão lắc đầu. Chúng nó vận động cả cô em lão, để lung lạc lão. Quà chỉ có mấy cân mì rang, vài lạng đường Cuba, ít muối vừng. Mang tiếng là có tiếp tế, mà không có gì đáp lại những người cho quà mình. Lão áy náy. Phó Nhòm an ủi:

- Họ cũng biết ông bạn nghèo. Chẳng ai nhỏ nhen, để ý đâu. Mụ Sài-Gòn cho ông bạn nhiều thực. Trông ông bạn đã bắt đầu có da, có thịt rồi đó. Trẻ hẳn lại.

- Biết vậy, nhưng tôi vẫn thấy ngượng. Thường tình, có đi, có lại, mới toại lòng nhau.

- Cả xà lim này, ai chả biết ông bạn rộng rãi. Riêng khoản thuốc lào, thuốc lá, nếu ông bạn đổi chác, cũng đủ no hàng tháng là ít. Gã thượng úy bộ đội cũng được ông bạn chia xẻ. Ai cũng phục ông bạn.

- Nó không biết ăn dè như mọi người. Cứ hỏi xin tôi luôn. Nghĩ cũng khổ tâm.



Một buổi chiều, cơm nước xong, Ngưu-Ma-Vương mở cửa buồng, bảo lão:

- Anh thu xếp nội vụ. Chuyển sang buồng 1.

Phó Nhòm tái mặt. Hai người ở với nhau đang hợp, đang vui. Gã thấy bàng hoàng. Gã chưa quen với cảnh bạn bè chia tay đột ngột trong tù. Lão thu xếp đồ đạc, chuyển sang buồng 1.

Gã thượng úy bộ đội hớn hở:

- Bố ở với con. Con sẽ hầu hạ bố, đấm bóp cho bố.

- Buồng này gần nhà vệ sinh, ẩm mốc, hôi hám quá. Mai phải báo cáo cán bộ, xin cọ rửa.

- Nếu được phép, mai để con làm. Bố già yếu rồi, cứ nghỉ ngơi. Con còn thanh niên. Con xin xốc vác hết.

- Mày năm nay bao nhiêu tuổi?

- Con ba mươi mốt.

- Bị bắt lâu chưa?

- Mới mười tháng. Con bị nhốt mấy tháng ở Bất-Bạt, trại giam quân đội. Không hiểu sao lại chuyển về đây. Trại quân đội đỡ hơn. Ở đây đói quá.

Gã đầu gấu kêu:

- Ông chú ơi, ông chú ở buồng ấy là buồn rồi.

- Vẫn cùng xà lim. Xa hơn có bốn thước. Không buồn đâu.

- Thằng thượng úy, mày mà hỗn với ông chú, thì biết tay tao.

Phó Nhòm nói sang:

- Ở với nhau đang vui. Ông bạn chuyển sang đó. Chán quá.

- Anh em hiểu nhau là đủ. Xa một chút, không sao.

Gã thượng úy nhìn lão:

- Con đói quá. Bố có gì cho con ăn với.

Lão ngạc nhiên:

- Hôm kia, tao mới cho mày một cân mì rang. Đã hết rồi?

- Con ăn một lúc hết ngay.

- Ăn lối đó, không được. Phải chia ra mà ăn. Cốt cầm cự, giữ sức khỏe. Không nên ăn cho đã. Tao về đây, nếu hàng tháng được tiếp tế vài cân mì rang, là may rồi. Trên trại, đường xá xa xôi, cô em chỉ tiếp tế vào dịp tết thôi. Tù còn dài, phải chịu đựng cái đói, cái khổ, cho quen đi.

Lão pha một ca nước đường, rồi bốc vài nắm mì rang cho gã. Lão cũng bốc vài nắm, để lên miếng các-tông lão vẫn dùng làm quạt.

- Bố không uống à?

- Mỗi ngày chỉ uống một lần. Tao uống rồi.

Gã nốc một hơi hết ca nước. Rồi bốc mì, nhai ngấu nghiến. Vài phút hết sạch.

- Mày can tội gì?

- Con đóng quân ở Lào. Con phụ trách chở lương thực sang Thái, giúp du kích Thái. Con ăn tiền, đưa người vượt biên. Được mấy chuyến thì bại lộ.

- Sao không ai tiếp tế cho mày?

- Bố mẹ con đã chết. Con chưa có vợ. Có một ông anh, thì đã trốn sang Úc.

- Mày đi bộ đội từ năm nào?

- Con đi bộ đội từ năm 17 tuổi. Con phải khai man thành mười tám. Quê con ở Thái-Bình. Mang tiếng là vựa thóc, là "Quê hương năm tấn", nhưng đói lắm. Bình quân, mỗi đầu người hàng tháng chỉ được chín cân gạo. Bố tính, sức thanh niên chúng con, kể cả con gái, phải ăn mỗi ngày một cân gạo mới tạm no. "Mười bảy bẻ gẫy sừng trâu" mà. Hàng năm đi thủy lợi, mỗi người phải góp một cân gạo mỗi ngày. Thế mà phải ăn như rồng cuốn. Ai ăn chậm thì đói. Để con kể cho bố nghe. Năm đó, có con bạn cùng xóm. Nó đem dăm lạng cá mòi khô đi thủy lợi. Sau mười ngày, lại mang nguyên về. Bọn chúng con cười vỡ bụng. Số là, nếu ăn cá nhằn xương, chậm chạp, thì cơm sẽ bị mấy cô bạn cùng mâm ăn hộ bớt. Thành thử, không dám đụng tới cá. Chúng con hát giễu cô ta: "Cá đi rồi cá lại về", làm cô ta xấu hổ, đỏ cả mặt. Con đói từ bé. Còn nhớ năm con mười tuổi, một buổi tối, bố con nằm ở chõng, cứ thở dài sườn sượt. Một lúc, bố con chửi: "Mang rổ khoai luộc mẹ nó đi. Sáng mai nhịn cũng được". Con sướng quá, bê rổ khoai, nhảy vọt qua bậc cửa, bị vấp ngã, gẫy mất cái răng cửa. Từ đó bạn bè gọi con là thằng sứt. Cái răng sứt vẫn còn đây.

Gã cười, nhe răng cho lão xem.

Lão vét nốt mấy sợi mì, uống một ngụm nước.

- Thế mày trúng tuyển bộ đội ngay?

- Vâng, được biết trúng tuyển, con mừng hơn mẹ con sống lại. Thế là hết cảnh đói mòn, đói mỏi. Mấy đứa gầy yếu quá bị loại, buồn như cha chết. Có đứa khóc.

- Hồi đó, chúng mày có biết đi B, chết rất nhiều không?

- Chúng con biết chứ. Trai làng bao đứa đã vong mạng. Hai thằng em họ con cũng đã chết ở Khe-Sanh.

- Chúng mày không sợ chết à?

- Chẳng đứa nào sợ cả. Cái đói triền miên đáng sợ hơn nhiều. Bố bảo, đi bộ đội, chết chưa thấy đâu, đã thấy no trước mắt. Hai mốt cân gạo, một cân rưỡi thịt, một cân đường, mỗi tháng. Nghe trên thông báo tiêu chuẩn đó, chúng con thèm rỏ rớt, rỏ dãi. Cứ như là một giấc mơ ấy. Chiến đấu dũng cảm được thăng chức lên sĩ quan. Tiêu chuẩn còn cao hơn nữa. Hơn đi thanh niên xung phong nhiều.

- Mày có ở Căm-pu-chia bao giờ không?

- Có chứ. Năm 79, con tiến công Căm-pu-chia theo đường Lào. Con gái Lào, Căm-pu-chia dễ dàng lắm, bố ạ. Nói thật với bố, hồi ở Căm-pu-chia, con ăn cả gan người. Thấy nói bổ lắm.

- Gan tươi hay gan khô?

Gã tiếc rẻ:

- Con chỉ mới được ăn gan khô thôi. Mấy thằng bạn con, chúng ăn gan tươi. Moi từ trong bụng ra, nhắm rượu luôn. Kể cũng tàn bạo.

- Mày không chết là may mắn lắm đó. Năm bảy mươi nhăm, tao xem báo Nhân-Dân. Ông Chế Lan Viên nói là tổng số hơn ba ngàn cán bộ gửi vào hoạt động ở Lâm-Đồng, chỉ có ba mươi người sống sót. Một tướng công an nói là cứ bốn mươi xe tải, mà một vào tới đích, coi như thắng lợi.

- Đúng vậy, bố ạ. Chết nhiều lắm. Đủ thứ chết. Chết bom đạn. Chết bệnh tật. Chết tai nạn, rơi xuống vực. Cánh vận tải chết vô số. Nhưng có hy sinh thế, mới thắng lợi.

- Mày đã vào đảng chưa?

- Con vào đảng lâu rồi. Không phải là đảng viên, làm sao lên được thượng úy.

Lão đứng dậy:

- Thôi, tao đi lại vận động một chút. Mày tham gia ca nhạc với xà lim đi cho vui.

Lão vừa đi lại trên sàn nằm, vừa nghe hát. Khi chương trình kết thúc, lão ngồi xoa bóp toàn thân, rồi luyện khí công.

- Hút thuốc đi bố.

- Mày hút thuốc lào hay thuốc lá?

- Bố cho con thuốc lá.

Hút hết điếu thuốc, gã hỏi:

- Bố có gạo nếp phải không? Bà Sài-Gòn mới cho bố mà. Kể bố cũng có duyên đấy chứ. Bà ta mê bố như điếu đổ.

- Đừng nói nhảm. Bà ta thương hại, bà ta cho thôi.

- Bố để con nấu cơm nếp ăn bây giờ nhá.

Lão ngạc nhiên:

- Lấy gì mà nấu? Xoong, nồi đâu?

- Con nấu bằng cái bô. Con đã cọ sạch sẽ. Xé cái chăn này ra để đun.

Lão cau mặt:

- Nấu bằng bô? Kinh tởm thế, nuốt sao được. Mà ngay có xoong nấu, cũng không nấu được. Mày muốn cùm à? Chúng tao đun hai ly con nước pha trà, mất độ vài phút là sôi, cũng phải có người đứng canh. Thổi cơm nếp, ít nhất mất nửa tiếng. Mùi chăn cháy khét lẹt. Cả Hỏa-Lò ngửi thấy. Làm sao đun nổi. Chúng nó bắt được sẽ kết tội phá hoại tài sản nhà nước. Nếu mày thèm quá, mai tao sẽ nhờ nhà bếp nấu giúp. Thôi, ngủ đi.

Sáng hôm sau, Ngưu-Ma-Vương cho phép lão cọ buồng. Hai người ra sức cọ rửa trong vòng mươi phút. Mùi hôi đỡ hẳn.

Lão nói:

- Mình phải cố giữ vệ sinh tới đâu hay tới đó. Muốn trụ được với nhà tù là phải thế.

Gã thượng úy bộ đội lôi từ gầm sàn ra một túi ni-lông toàn vỏ bưởi, vỏ chanh, vỏ chuối, lá bánh, nhồm nhoàm nhai.

Lão ghê sợ, ngăn lại:

- Không ăn được! Mày lấy ở trong cầu tiêu ra, phải không? Thằng này hỏng. Không thể tưởng tượng nổi! Cái thùng cao su đó chứa giấy chùi đít, giấy vệ sinh phụ nữ. Thế ra hằng ngày, mày vẫn moi những thứ này từ cái thùng đó ra ăn. Mày muốn chết đấy. Gói ngay lại. Chiều, vất đi hết. Đây, tao cho ít mì rang.

Gã len lét gói tất cả lại, vất vào gầm sàn.

Lão cảnh cáo:

- Bận sau mày còn ăn bẩn, ăn thỉu thế nữa, tao sẽ báo cáo quản giáo, và cắt, không cho mày một thứ gì nữa. Kể cả thuốc lào.

Tối hôm đó, ngồi bình tĩnh, lão giảng giải:

- Tao thương mày, tao mới đối xử như vậy. Tao định tới khi hết mì rang, mới ăn tới gạo nếp. Nhưng thấy mày thèm quá, tao cũng nhờ nhà bếp nấu. Kẹo, bánh, đường, mì rang, muối vừng, tao dùng thứ nào, mày dùng thứ ấy. San sẻ đều. Tao biết, ăn thế không thấm tháp gì với mày. Kể cả với tao, cũng còn thiếu. Gọi là đỡ đói đôi chút. Chúng ta không có nhiều. Biết làm thế nào? Ăn căng rốn ra, hai ba hôm hết. Rồi cả tháng nhịn. Ăn kiểu ấy, không có lợi cho sức khỏe. Ốm đau trong tù, lại không có thuốc. Tao rất thông cảm. Tao tù hai mươi năm rồi. Tao quen với đói khổ hơn mày. Nhưng mày cũng cố luyện dần đi, để thích ứng với hoàn cảnh sống trong tù. Tội mày, ít nhất cũng phải năm, bảy năm. Sau này đi trại, nếu vì đói, mà cứ gặp cái gì, ăn cái ấy, sẽ chết rất nhanh. Tuổi mày còn trẻ, phải cố mà sống. Hãy suy nghĩ kỹ lời tao nói: "Ăn để sống, chứ không phải để chết".

- Con đâu muốn ăn những thứ dơ dáy đó. Con cũng là một con người. Một quân nhân cách mạng. Con có danh dự. Nhưng con đói quá. Không kiềm chế nổi.

- Tao hiểu. Trận đói năm bốn nhăm, chính mắt tao nhìn thấy, nhiều người còn ăn bậy hơn mày. Có trường hợp ăn cả thịt người chết. Bên Trung-Quốc, những năm đói, nhiều ông bố, bà mẹ không nỡ ăn thịt con mình, phải trao đổi con với người khác để ăn. Nhưng chúng ta không đói đến mức như họ. Họ không có thứ gì để ăn cả. Chúng ta vẫn có ba lạng gạo hẩm một ngày. Tuy chỉ còn xương da, nhưng vẫn sống trong nhiều năm. Tao không nói chuyện danh dự với mày. Chuyện cách mạng lại càng không muốn nói. Cả một thực tế bi thảm không mở mắt được mày. Vài lời nói của tao, ăn thua cái gì? Tao chỉ muốn nhấn mạnh một điều, đó là cái mạng sống của mày. Muốn giữ được nó trở về, tuyệt đối không được ăn uống bừa bãi, mất vệ sinh. Cách duy nhất để chống lại sự hành hạ của cái đói là không nghĩ tới nó. Cứ nhắm mắt luyện khí công như tao là quên đi. Mày xem, gã đầu gấu, cô ca sĩ, cô buôn đô la, và mấy người không có tiếp tế khác. Họ có no gì hơn mày đâu. Thỉnh thoảng được người ta cho, chẳng qua vài cái bánh, vài cái kẹo. Họ có cào cấu như mày đâu. Phải học tập họ.

- Vâng, con sẽ hạ quyết tâm.

- Không quyết tâm, cũng không có cách nào khác để no. Càng hành hạ mình thôi.

Phải sống với gã thượng úy bộ đội, lão ngán quá. Gã không biết chuyện gì để nói. Lúc nào cũng hau háu nghĩ tới ăn.

Một hôm, thấy bà Sài-Gòn có tiếp tế, gã háo hức:

- Bố xin bà ta ít gạo nếp rang, ít thịt đi. Con thèm thịt quá.

Lão buồn rầu:

- Người ta cho, tao còn không muốn nhận. Làm sao tao có thể nhục nhã xin xỏ được.

- Bố không nên sĩ diện. Bà ta quý bố lắm. Bố hỏi là được ngay thôi.

- Tao đã bảo không là không.

Gã nằm dài ra, tiu nghỉu.

(còn tiếp)


Nguyễn Chí Thiện