28 November 2023

CHÀNG TỪ ĐI VÀO NƠI GIÓ CÁT - Lê Tấn Dương

Tôi xin mạn phép trích câu thơ thứ 65 trong tác phẩm Chinh Phụ Ngâm của Đặng Trần Côn qua bản dịch của nữ sĩ Đoàn Thị Điểm làm tựa cho bài viết lần nầy để nhớ lại hành trình hơn nửa thế kỷ làm người lính Việt Nam Cộng Hòa của riêng tôi và những người bạn cùng trang lứa trong quân ngũ ngày đó. Người lính ấy, dù chưa hoàn hảo trong ý nghĩa uy dũng, can trường theo quan niệm văn hóa Đông phương, nhưng họ là những người lính bất khuất, biết hy sinh thân xác, máu xương và ước mơ tuổi trẻ để bảo vệ miền Nam. Người lính thua trận nhưng lẫm liệt trong lao tù của địch; hiên ngang, bất khuất trước kẻ thắng cuộc và luôn thể hiện tình yêu nước nồng nàn dù trong bất cứ hoàn cảnh nào. 

Bài viết nầy cũng lẩn quẩn trong vùng kỷ niệm đó. Kỷ niệm của những cựu sĩ quan Quân lực VNCH, một thời quân ngũ, một thuở hào hùng súng gươm giữ nước. Nhìn lại quá khứ, trong suốt cuộc chiến chống cộng sản trước 1975, đã có biết bao chiến hữu Khóa 2 Hiện dịch Trường Đại học Chiến Tranh Chính Trị thuộc các Quân Binh Chủng QL/VNCH, đã hy sinh thân xác, gởi tro cốt, xương tàn vào lòng đất Mẹ. Số lớn khác đã ướp máu đào trên biết bao chiến địa lừng danh để bảo vệ mảnh đất miền Nam. Chiến tranh đã qua đi nhưng vẫn còn biết bao hoang mộ của bạn bè trên khắp núi rừng Nam Bắc, sông biển xa xôi, bị vùi thây vì bị đòn thù hèn hạ của đối phương. Họ, những người lính Việt Nam Cộng Hòa mãi mãi không chết. Vì thân xác dù mất đi nhưng tên tuổi không bao giờ mất. 

Mùa Thu 1968. Chúng ta, 400 sinh viên Đại học dân sự toàn quốc, sau khi trúng tuyển vào Khóa 2 SVSQ Hiện Dịch, Trường Đại Học Chiến Tranh Chính Trị Đà Lạt, đã được chia làm 2 đợt  và được gởi vào Trung Tâm Huấn Luyện Quang Trung 3 tháng để học căn bản quân sự của người Lính chiến trước khi trở thành Sinh viên Sĩ quan Trường Đại học/CTCT với thời gian thụ huấn từ 1968 đến 1971. 

Giã từ mái ấm gia đình, trường học và ngậm ngùi chia tay người tình tuổi học trò. Buổi chiều cuối tuần đầu tiên ở Vườn Tao Ngộ, Trung Tâm Huấn Luyện Quang Trung, có gã lính mới, không đi phép, lang thang trong mấy câu lạc bộ, bỗng nghe tiếng hát của ai sao giống tiếng lòng: 

Sao em không đến chiều nay thứ Bảy. Sao em không lại đường vắng em yêu. Sao em không lại, sao em không lại. Quân trường riêng tôi đứng đây, đếm từng chiếc lá thu bay. Sao em không đến, sao em không đến. Để nắng chiều tắt trên cây soan già. Quạnh vắng mình tôi bâng khuâng trông chờ. Nghe lòng thương thương nhớ nhớ. Nhớ thương người em trong ước mơĐời tôi, từ ngày khoác áo chiến y…”

(Sao Em không đến – Hoàng Nguyên) 

Sau ba tháng ở thao trường nắng cháy, chúng ta giã từ Quang Trung, mang theo quân trang đầu đời và tâm tư “Chàng tuổi trẻ vốn dòng hào kiệt, Xếp bút nghiên theo việc đao cung” để lên cao nguyên, về Quân trường Đại học CTCT ĐàLạt có gió lạnh sương mù. Mỗi năm, chúng ta có một mùa Văn hóa học tại Trường Đại học CTCT và một mùa Quân sự theo học tại Trường Võ Bị Quốc Gia trên khu Chi Lăng. Suốt mùa văn hóa, mỗi chiều, chúng ta đều phải tập quân hành mấy vòng quanh Doanh trại. Và riêng tôi, cho đến giờ vẫn còn nhớ nằm lòng lời ca hào hùng những hành khúc ngày ấy. Rất nhiều bài ca nhưng tôi vẫn nhớ và thích nhất lời hát vừa bi hùng vừa lãng mạn của bài ca tiễn đưa người lính chiến ra trận tiền. 

Ra biên cương. Ra biên cương. Thiết tha lòng gái, hôm nay nâng khăn hồng đưa chân anh hùng ngàn phương. Ra biên cương. Ra biên cương. Bóng hôn hoàng xuống ven rừng, qua non sông khuất mờ nẻo sương. Trăng non dị thường, ngựa tung vó bước hiu hiu lá rơi lối mòn tuyết sương…

…Người ngàn trùng, quên niềm son phấn. Biên ải như đuốc thiêng. Ôi non nước linh truyền. Ôi tiếng hát câu nguyền. Đời gai chông, xin thề lưu luyến. Biên ải xin hiến thân, Thấm thoát đã bao lần. Bao người đi đền nợ núi sông. Người đi, không về. Chắc rằng có người nhớ…

(Phạm Duy – Đường ra biên ải) 

Bao bằng hữu đã ra đi đền nợ núi sông. Ôi, lời ca lãng mạn và bi tráng vô cùng. Ra biên cương, ra tiền đồn thì đâu có hẹn ngày về. Nhưng trong sâu thẳm của tình yêu, gã lính trận vẫn còn niềm an ủi vô bờ là ở đâu đó, trong lòng hậu phương xa xăm nhưng yêu dấu, trong lòng thủ đô Sài Gòn lung linh ánh sáng về đêm, vẫn có người đêm đêm dõi mắt trông chờ, vẫn có người mong đợi và nhớ thương “Chàng từ đi vào nơi gió cát, Đêm trăng nầy nghỉ mát nơi nao”.

Nhớ ngày ấy, có nhiều lần tôi tự hỏi, nhạc sĩ Phạm Duy, cây cổ thụ trong khu vườn Âm nhạc Việt Nam, khi viết bài ca nầy năm xưa có cảm thán chút gì từ bài Đường thi “Xuất Tái” của Vương Chi Hoán (-742) thuở xưa không? Câu hỏi là chuyện của 53 năm trước, khi tôi còn là Sinh Viên Sĩ Quan tại Quân trường. Ba mươi năm sau, khi định cư Hoa Kỳ, trong một lần được hội ngộ cùng  Niên trưởng Trung Tá Thi sĩ Nhất Tuấn Phạm Hậu và Nhạc sĩ Phạm Duy tại Seattle (Năm 2002), vài năm trước khi nhạc sĩ đóng vai viễn khách hồi cư, về tìm lại Mẹ Việt Nam trong Trường Ca ông viết năm xưa. Trong lần gặp đó, tôi có đề cập đến thắc mắc của mình về nguyên nhân xuất xứ bài nhạc ông viết năm xưa. Nhạc sĩ Phạm Duy xác nhận bài ca Đường Ra Biên Ải ông viết lúc ấy, đúng là do cảm xúc khi đọc bài Xuất Tái của Vương Chi Hoán và cả bài Lương Châu Từ của Vương Hàn, nó lãng mạn và hào hùng y hệt cái phong cách “tiểu tư sản” của chính ông, khiến ông đã có thời gian bỏ Hà Nội đi theo kháng chiến trong giai đoạn cao trào toàn dân vùng lên chống Pháp. Nhưng chỉ một thời gian ngắn sau, ông lại phải bỏ kháng chiến trốn về Hà Nội vì những khác biệt về ý thức hệ đã trói buộc tư tưởng tự do của ông khiến ông không được thoải mái trong sáng tác. Tôi ghi lại chuyện cũ thay cho lời cảm ơn và tưởng nhớ đến Niên trưởng Trung Tá Phạm Hậu tức nhà thơ Nhất Tuấn, tác giả Thi tập "Chuyện Chúng Mình" và nhạc sĩ Phạm Duy, cây cổ thụ trong vườn Âm nhạc miền Nam mà tác phẩm của ông đã là một gia tài đồ sộ cho văn học sử nước nhà. Tôi cũng xin được ghi lại bài thơ Xuất Tái để chúng ta cùng đọc.

Xuất Tái

Hoàng Hà viễn thượng bạch vân gian

Nhất phiến cô thành vạn nhận san

Khương địch hà tu oán dương liễu

Xuân phong bất độ Ngọc môn quan.

(Vương Chi Hoán) 

Tôi mạo muội tạm dịch

Ra Biên Ải

Hoàng Hà in bóng mây cao

Núi xa vạn trượng, thành hào cô đơn

Tiêu Khương đừng oán liễu hờn

Đường ra biên ải gió Xuân chưa về.

 Ghi chú: Chữ “nhận” trong câu thứ 2 có nghĩa là “trượng”, đơn vị đo chiều dài đời nhà Chu bên Tàu. 

Tháng giêng 1971, khi mùa Xuân chưa mọc cỏ non, hoa lá Đà Lạt còn xôn xao chờ đợi nắng Xuân. Thì 387 tân Thiếu Úy Hiện dịch Khóa 2 Trường Đại học Chiến Tranh Chính Trị Đà Lạt, sau hơn 2 năm thụ huấn, đã mãn khóa ra trường và xuống núi nhập vào lửa khói chiến trường Việt Nam. Từ Đông Hà xuống Phương Nam. Từ Ái Từ đến vùng Bảy Núi. Từ Khe Sanh về mũi Cà Mau. Suốt một giài chiến trường miền Nam ngút ngàn khói lửa, không địa danh nào thiếu bước chân Khóa 2 ĐH/CTCT. Từ Tiền đồn biên giới đến địa đầu trấn ải mịt mờ chân mây. Với chúng ta, những người lính chiến VNCH, thì hình ảnh của bài thơ “Xuất Tái” là chuyện có thực của chiến chinh. Gần năm mươi ba qua, tôi vẫn nghe vang vang bài ca ngày ấy như kỷ niệm một thuở chinh yên. 

Càng nhớ càng thương đời lính chiến,

Tan hàng đâu phải việc riêng tây.

Lòng trai đã nặng tình sông núi,

Thành bại – Thôi đành gởi gió mây.

Gõ nhịp ta ca Từ Qui khúc,

Ngàn năm thương nhớ bóng trăng gầy.

Ta là lính chiến Miền Nam Việt,

Ước nguyện ngày nào vẫn còn đây.

Lê Tấn Dương