1.
Người đàn ông đứng nhìn vào khung cửa kính to rộng của gian
hàng đồ chơi trẻ con. Tiệm đóng cửa từ lâu. Có lẽ đã gần nửa khuya. Đêm Chủ nhật,
khu buôn bán chẳng còn ai lui tới, lâu lắm mới có người tạt ngang tiệm 7-Eleven
mua vội vài món cần thiết rồi tất tả ra xe phóng đi. Bãi đậu xe vắng lặng, hơi
sương lù mù khiến không gian như hẹp lại, xập xoạng dưới những vũng sáng yếu ớt
trắng nhờ, nhợt nhạt phả xuống từ mấy cột đèn trong bãi đậu xe.
Anh phải là người lạ mặt nơi đây. Trông anh thật lạc lõng giữa
khu buôn bán tầm thường, xộc xệch của thành phố, nơi chỉ có đám dân thiểu số
nghèo đến mua sắm những món hàng gia dụng rẻ tiền.
Nhưng nếu không phải là kẻ trộm thì anh làm gì ở đây vào giờ
này?
Anh đứng hai tay thọc túi quần, mắt chăm chú nhìn những món
đồ chơi xinh xắn đủ sắc màu bày biện la liệt bên kia song sắt và lớp kính dày.
Ánh sáng nhợt nhạt của đèn đường hắt vào không cho anh thấy rõ tất cả mọi vật
trong tủ kính, nhưng món đồ đập vào mắt anh nãy giờ là đoàn tàu hoả nằm nghênh
ngang trên đường sắt quây tròn giữa mô hình núi đồi sông ngòi mấp mô lên xuống
thật đẹp mắt. Trông nó như đoàn tàu thật anh thường thấy chạy vùn vụt bên cạnh
xa lộ xuyên bang mỗi lần anh chở vợ con đi nghỉ mát cuối tuần. Thằng con trai bẩy
tuổi ngồi băng ghế sau dán mũi vào cửa kính xe nhìn ra không chớp mắt. Đoàn tàu
chạy băng băng trên cánh đồng thảo nguyên, kích thích trí tưởng tượng của thằng
bé. Nó thắc mắc không biết đoàn tàu đi về đâu; lòng tàu chứa những thứ gì; biết
bao chân trời xa lạ đoàn tàu sẽ xuyên qua. Mỗi lần được dẫn đi thương xá, nó
hay kéo tay mẹ vào tiệm đồ chơi, nơi trưng bày đoàn tàu tuyệt đẹp nằm trên mô
hình núi đồi. Anh biết thằng bé mê tàu hỏa và định bụng sẽ mua làm quà cho nó
nhân dịp Giáng Sinh hoặc sinh nhật nó sắp tới. Nhưng anh cứ lần lữa, chẳng phải
bởi anh tiếc tiền dù món quà trị giá gần hai trăm đô-la, mà chỉ vì tâm trí anh
luôn bị khuấy động bởi trăm thứ linh tinh khác và chuyện mua quà cho thằng bé bị
nhét xuống hàng thứ một trăm lẻ một. Bây giờ, đứng trước tiệm bán đồ chơi, bất
chợt nhìn thấy món quà hứa với thằng bé suốt bấy nhiêu năm, anh bỗng thấy mình
có lỗi với con hết sức. Tại sao chỉ một việc cỏn con như vậy mà suốt mười năm
trời anh không thực hiện nổi? Thằng bé không nhèo nhẹo đi theo vòi vĩnh anh vì
nó là đứa bé ngoan, nhưng không phải vì thế nó không buồn tủi trong lòng. Biết
đâu nó vô cùng thất vọng nơi anh, một người cha không biết con cái muốn gì, chẳng
bao giờ để ý đến tâm tình của thằng bé. Biết đâu trong lòng nó anh hiện thân là
người cha xấu. Bây giờ nó đã mười bẩy tuổi. Dĩ nhiên, nó không còn dán mắt vào
tủ kính tiệm đồ chơi trong thương xá nhìn đoàn tàu hỏa tí hon chạy rập rình
xuyên qua mô hình núi đồi sông ngòi vui mắt nữa. Một hôm nó trốn nhà theo mấy đứa
bạn nhảy tàu hỏa sang tận Chicago chơi. Nó gọi về nhà báo tin, bảo hai ba bữa sẽ
về. Vợ chồng anh thót tim vì cuộc phiêu lưu liều lĩnh của thằng con, nhưng rồi
anh vẫn chẳng nhớ gì đến món quà anh hứa cho đến ngày hôm nay, khi anh một mình
lạc lõng trong khu phố tồi tàn dơ bẩn vào lúc gần nửa đêm giữa lòng thành phố
xa lạ này.
2.
Anh thấy có lỗi không những với đứa con trai mà với vợ nữa.
Từ văn phòng trên lầu năm mươi tư của ngân hàng UBS Manhattan anh gọi điện về
nhà. Anh bảo cô sáng sớm ngày mai, dù là thứ sáu, anh phải bay sang San José dự
phiên họp khẩn với tập đoàn công ty X. Họ đang có nhiều vấn đề, doanh thu đợt
này có thể dưới nhiều mức dự kiến. Anh cần nói chuyện trực tiếp, mặt-đối-mặt, với
tay CFO của công ty.
“Tối nay em đi ăn với Kate, tiệm Giovanni's Atrium trên đường
Washington. Anh nhớ cách đây ba năm vợ chồng mình và vợ chồng Joan ăn ở đó
không? Kate đang gặp khó khăn với thằng con, cần gặp em để tâm sự và vấn kế.”
Giọng vợ anh lúc nào cũng ôn nhu, ấm áp như kể chuyện cổ tích.
“Anh nhớ chứ. Anh cũng thích tiệm này lắm.” Anh vồn vã trả lời
cô. “Tay đầu bếp trứ danh Mauro Torellini nấu món thịt bò phi-lê Mignonette
Cardinale cả New York chẳng tiệm nào ngon bằng. Nhưng nếu không thích thịt bò
phi-lê, em có thể gọi Veal Parmigiana, cũng tuyệt lắm. Nhớ gọi một chai vang đỏ
nữa, Bolgheri Rosso hoặc Torgiano Riserva. Chắc chắn em và Kate sẽ có bữa ăn
ngon... À, có thể tối Chủ nhật anh mới về được, em đừng mong.” Đến đây giọng
anh trầm xuống, hơi ngập ngừng. “Tay CFO mời anh lên nghỉ cuối tuần trên nông
trại của hắn gần thung lũng Napa. Hắn khoe hầm rượu của hắn có hơn nghìn chai,
tha hồ cho anh chọn.”
“Anh yên tâm. Cuối tuần này Eric đi cắm trại với bạn trên
New Hampshire, chỉ có em và Jessica ở nhà. Jessica nhờ em giúp nó hoàn tất bài
viết cho lớp Sử của nó về Victoria Clafin Woodhull và phong trào tranh đấu nữ
quyền hồi cuối thế kỷ mười chín. Sáng Chủ nhật đi lễ ra em định đi mua sắm ít vật
dụng cho căn nhà nghỉ mùa đông của gia đình mình. Còn thời gian em ghé qua văn
phòng làm ít công việc trước khi về nhà nấu cơm tối đợi anh về.”
Vợ chồng anh nói thêm dăm chuyện vu vơ nữa rồi cúp máy. Đặt
điện thoại xuống, vẫn chưa đến giờ ăn trưa nhưng anh không quay lại màn ảnh vi
tính tiếp tục công việc đang dở dang mà ngồi thừ ra, đầu óc luễnh loãng như vừa
hít vào phổi liều ma túy cực mạnh. Anh không còn biết suy nghĩ là gì nữa, từ
giây phút này trở đi hình như tất cả mọi hành vi, cử chỉ, lời nói, việc làm của
anh đều do một sức mạnh vô hình nào đó thúc đẩy. Gần hai năm nay anh sống với cảm
giác bất an, như chờ đợi một tai ương nào đó bất thình lình đổ ập xuống đầu
mình và việc gì đến sẽ đến thôi. Định luật Murphy bảo thế. Đã là định luật, nó
chẳng bao giờ sai trật. Không, công việc anh chẳng hề yêu cầu anh phải khẩn cấp
bay sang San José. Công ty X thua lỗ nặng, bị công ty Y mua đứt từ lâu. Thời của
những cơn sốt thị trường đã qua. Thời của cái gọi là dotcom đến như cơn bão và
chết ngúm sau thời gian ngắn ngủi gây biết bao sóng gió trên thị trường và để lại
biết bao thương tổn. Anh trở lại với công việc nhàm chán viết báo cáo cho khách
hàng muốn đầu tư. Thi thoảng, anh tự kiếm lý do bay sang California, công ty
không hề thắc mắc; một hai ngày ra khỏi bàn làm việc cộng phí tổn di chuyển,
khách sạn chẳng thấm thía vào đâu so với số tiền anh đem về cho công ty.
Anh bay sang California để tìm cô nhân tình của anh.
3.
Đây không phải lần đầu Bruce lừa dối vợ. Ở New York, những
người thành đạt như anh mà không có hàng nửa tá nhân tình trẻ đẹp mới là chuyện
lạ. Anh lại đẹp trai. Năm nay dù đã ngoài bốn mươi anh vẫn giữ được thân hình
thon gọn, cường tráng. Anh biết đàn bà khó cưỡng nổi đôi mắt sâu xanh biếc và nụ
cười nửa miệng của anh. Nhất là lúc anh lột họ trần truồng trên giường những
khách sạn đắt tiền quanh New York. Gần như lúc nào anh cũng có một hai cô nhân
tình để trám vào khoảng thời gian trống từ văn phòng về nhà. Có hôm anh làm
tình với ba người đàn bà khác nhau trong cùng một ngày. Sáng, chiều và tối. Anh
làm tình như người ta ăn lạc rang, đã bỏ hạt đầu tiên vào miệng rồi thì chẳng
thể nào ngưng được. Không, đừng hiểu lầm anh. Anh vẫn thương yêu Sheila, người
vợ anh chung sống gần hai mươi năm nay, đêm đêm anh vẫn nằm bên cạnh cô, nghe
tiếng thở đều đều của vợ, vẫn hít vào buồng phổi hơi hướm da thịt ngai ngái nồng
nàn quen thuộc. Anh chẳng bao giờ dám nhận anh là người chồng gương mẫu nhưng
anh cũng biết anh chẳng bao giờ xa được Sheila. Cô quả là người vợ lý tưởng cho
anh. Thông minh, duyên dáng, hoa khôi thời Trung học, tế nhị, hiểu biết. Ở những
buổi tiếp tân, tiệc tùng của đám dân thượng lưu New York, chưa bao giờ cô làm
anh thất vọng; cô luôn luôn là bông hoa nổi bật gây sự chú ý của mọi người.
Nhưng có lẽ anh yêu cô không phải bởi cô là người đàn bà quyến
rũ (tuy điều đó quan trọng không ít đối với anh) mà bởi cái chất đàn bà đặc
quánh nơi con người cô. Dĩ nhiên cô là đàn bà, nhưng cô không giống những người
đàn bà thông minh, giỏi giang khác anh biết, cô không có tham vọng trèo lên địa
vị cao trong xã hội bằng cách lao đầu vào những công việc đầy tính thủ đoạn,
mưu mô, trí trá trong guồng máy kinh tế tư bản hoặc chính trị nơi đây. Cô cảm
thấy ngột ngạt trong môi trường đó. Mặc dù có bằng tiến sĩ văn chương nhưng cô
cảm thấy hạnh phúc với chân biên tập cho một nhà xuất bản nhỏ, ngày ngày thấy
lòng lâng lâng ngồi đọc bản thảo tác phẩm từ khắp bốn phương gửi về. Cô mê đọc
sách. Trong căn hộ trị giá mười lăm triệu của hai người ở đông ngạn thành phố
New York, anh cho thiết kế một căn phòng thành cái thư viện bỏ túi. Cô thích
căn phòng lắm. Ấm cúng, ngăn nắp, sách vở nghiêm cẩn hàng hàng lớp lớp che kín
bốn bức tường. Đó là nơi cô ngồi hàng giờ với cuốn sách nào đó trên tay.
Cô sống với sách vở và Bruce. Thời sinh viên, hình như anh đến
New York theo học ở Columbia sau cô một khóa. Anh học Kinh tế còn cô Văn học Tỉ
giảo. Anh hay đến thăm cô nơi căn gác cô thuê ở SoHo.
Căn phòng bé tí và bề bộn không thể tả. Chỗ nào cũng thấy
sách. Ngay trên giường ngủ của cô cũng la liệt sách.
“Em ơi! Hôm nay tụi mình làm tình tay ba với Kafka hay
Virginia Woolf đây?” Bruce hay nói đùa với cô như vậy mỗi lần anh đến rủ cô đi
ăn tối hoặc đi chơi New York ban đêm và trước khi ra khỏi phòng bao giờ cũng quần
thảo với nhau cả tiếng đồng hồ trên đống sách vở ngổn ngang của cô.
“Kafka anh ạ. Em trên này đánh vật với Kafka trong lúc anh
bên dưới dùng lưỡi đùa cợt với lớp cỏ muợt mà của em nhé.” Cô trả đũa ngay.
Bruce đè ngửa cô ra giường. Câu nói khiến anh như muốn ăn
tươi nuốt sống cô. Cô cũng vậy. Nói xong cô thấy người nóng bừng và cô cũng hối
hả cởi quần áo, không nhiều gì, chỉ chiếc áo thun mỏng và mảnh quần lót trên
người, căn phòng không máy điều hòa giữa mùa hè oi bức, rồi bấu chặt lấy anh.
Câu nói của cô kích thích anh tột độ. Với anh, Kafka, Woolf, Joyce và tất cả những
tên tuổi lừng lẫy khác trong thế giới văn chương của cô chỉ làm anh điên đầu.
Có lần anh mượn cô đem về phòng thử đọc một cuốn của Kafka và anh thú thật với
cô anh không thể nào hiểu nổi làm sao cô có thể nghiền ngẫm những dòng chữ phi
lý, vô nghĩa đó mà cảm thấy thú vị được. Cô bảo anh đọc văn chương tức là giải
mã. Giải mã được mới thấy văn chương hay, còn không nó chỉ là mớ chữ lổn nhổn,
lùng nhùng, vô nghĩa. Anh bảo cô anh chịu thua, anh chẳng bao giờ giải mã được
văn chương. Có nghĩa là anh sẽ không bao giờ giải mã được cô. Anh sẽ không bao
giờ có khả năng đi vào đầu óc cô. Đầu óc cô là thành trì bất khả xâm phạm, anh
sẽ mãi mãi là kẻ đứng bên ngoài. Nhưng thân xác cô thì không. Nó hơ hớ mời mọc
anh vào. Anh vào và anh ngất lịm trong nhục cảm. Phải chăng sự thỏa mãn chỉ
dâng lên cực điểm khi nào hành vi tìm thoả mãn bị ngăn chặn bởi điều gì. Cái
ngăn chặn anh ở đây chính là mớ chữ nghĩa lổn nhổn trong đầu Sheila.
Phân cảnh buồn cười đó trở thành biến tấu lặp đi lặp lại nhiều
lần ngay cả khi hai người đã thành vợ chồng. Anh chỉ bắt đầu quên dần sau khi
anh tốt nghiệp MBA và có việc làm ngay tại Wall Street. Anh mau chóng gia nhập
cuộc chơi của đám dân có tiền. Anh học không giỏi lắm, nếu không muốn nói là dưới
trung bình, nhưng anh có tài ăn nói và tài ăn nói là yếu tố quan trọng định đoạt
cho sự thành công trong nghề nghiệp của anh, cái nghề mỗi ngày nhìn thấy cả tỉ
đô-la di chuyển từ tay người này sang tay người khác. Chỉ sau ba tháng làm việc
anh đã bò lên giường ngủ với Wendy, cô thư ký có thân hình bốc lửa làm việc vặt
trong văn phòng, và đó chỉ là trò chơi số một, khởi điểm cho vô số những cuộc
phiêu lưu tình ái khác của anh sau đó, những cuộc phiêu lưu thảnh thơi, nhàn
nhã như buổi sáng thứ bẩy anh chạy bộ ngoài Central Park. Anh làm tình với
Wendy và những cô nhân tình khác thật thư thái, đầu óc họ thênh thang, không
như Sheila, anh đi vào họ như vào căn nhà cửa mở không người.
4.
Phi cơ vừa chạm bánh xuống mặt đất anh đã vội vã rút máy di
động gọi cho cô. Anh không mong lắm có tiếng cô trả lời nhưng vẫn gọi, anh gọi
với hy vọng mong manh biết đâu lý do anh không liên lạc được với cô từ New York
chẳng qua chỉ là sự trục trặc kỹ thuật của hãng điện thoại. Sang đến bờ biển miền
Tây rực nắng này, sóng điện mạnh hơn và anh sẽ nghe được giọng nói dịu dàng của
cô trong máy. Anh hồi hộp nghe tiếng chuông reng hai ba lượt nhưng rồi cái giọng
đàn bà máy móc vô cảm lại vo ve trong tai anh khiến anh phải bật lên tiếng chửi
thề. Suốt hai ngày anh phải nghe cái giọng nói đáng ghét đó. Hiển nhiên anh tuyệt
vọng. Đường dây bị cắt. Không để lại số mới. Cô đi đâu? Cô dọn nhà ra khỏi
thành phố rồi ư? Tại sao cô trốn tránh anh? Tại sao cô bỏ đi? Anh hoang mang
quá. Phải làm gì bây giờ? Biết tìm cô nơi đâu? Anh vào quán rượu cạnh hành lang
phi trường, gọi ly vang đỏ rồi ngồi thừ ra đó, lòng dạ như có lửa đốt trong lúc
bên ngoài người đi lại tấp nập và đủ mọi thứ âm thanh hỗn độn ập vào tai anh
như khúc nhạc nghịch âm.
Ngồi cách đó không xa là người đàn bà trạc ngoài ba mươi tuổi.
Cô ngồi một mình, trên bàn cũng ly vang đỏ như anh. Trông cô có vẻ như một nhân
viên tiếp thị của công ty nào đó đi công tác xa đang ngồi chờ chuyến bay chuyển
tiếp. Ngồi bên đó nhưng thi thoảng cô liếc mắt sang anh. Lúc khác anh đã dễ
dàng bắt chuyện làm quen và biết đâu tối nay anh không phải ngủ một mình trong
phòng khách sạn. Nhưng lúc này anh chẳng còn tâm trí đâu để nghĩ đến chuyện
trăng hoa, đầu óc anh đang bão bùng với câu hỏi tại sao cô gái bỏ đi, và cô đi
đâu.
Thật ra anh mang tâm trạng này từ ngày anh mới quen cô. Anh
luôn bất an với cảm giác lo sợ một ngày nào đó cô nói với anh, “Thôi, em chào
anh. Tụi mình chia tay. Em và anh chẳng bao giờ đến với nhau trọn vẹn.” Đúng vậy
thôi, anh chẳng bao giờ có được cô, chẳng bao giờ “đi vào đầu óc” cô như anh chẳng
bao giờ giải mã được mớ chữ nghĩa lổn nhổn trong đầu óc Sheila. Hai người đàn
bà của đời anh, hai người đàn bà anh yêu và với cả hai anh đều bó tay trước
cánh cửa tâm hồn kín như bưng của họ. Hai người đàn bà là định mệnh đời anh.
Hai người, hai cá tính, hai thái cực, hai thế giới hoàn toàn trái ngược, nhưng
cả hai cùng lúc đưa anh lên chót điểm của tình yêu. Anh không chối cãi anh yêu
cả hai người. Nhưng anh hiểu gì nơi họ? Hay chỉ là khoảng không kinh khiếp,
ngay cả với Sheila, người vợ anh chung sống gần hai mươi năm. Anh cố đạp đổ rào
cản đó bằng nhục cảm, nhưng vô ích. Anh tưởng người đàn bà khi nằm trần truồng
trên giường, hai chân dạng ra cho anh đi vào là họ mở hết tâm hồn ra cho anh.
Thật chẳng có sai lầm nào hơn.
“Trâm, có cái gì đó nơi em khiến anh như bị mê hoặc. Phải
chăng đó là cái kỳ bí của Đông phương?” Có lần anh hỏi cô gái như vậy. “Em
không biết. Em tưởng em chỉ là người đàn bà bình thường.” Cô trả lời anh trong
lúc hai mắt cô như bị thôi miên bởi những giọt nước mưa từ mái tranh chảy xuống
thành dòng thánh thót. Hai người ngồi trong một trà quán giữa Vườn Trà Nhật đẹp
đến não nùng của thành phố San Francisco. Hôm đó trời mù sương như hầu hết những
ngày chớm đông của thành phố này, hai người đi chơi lang thang, lúc nhẩy xe
cáp, lúc đi bộ và khi đến Vườn Trà Nhật thì mưa bắt đầu nặng hạt. Lá phong
trong vườn đỏ rực, khung cảnh đẹp nhưng u tịch hoang lạnh, khác hẳn bầu khí quyển
ồn ào nhộn nhịp ngoài kia. Cô kéo anh vào quán ngồi uống trà nhìn ra hồ nước nhỏ
nơi có những con cá koi lượn lờ vô tư lự. Kiến trúc quán phỏng theo mô hình trà
quán Nhật thời phong kiến, mái tranh thấp lè tè, ba mặt trống không. Hai người
ngồi im lặng thưởng thức cảnh đẹp hiếm có. Quán vắng khách, hôm nay trời mưa
gió mù mịt, chỉ có những kẻ lỡ đường hoặc không bình thường mới đội mưa ra khỏi
nhà. Mưa càng lúc càng nhanh, cái lạnh khiến cô run rẩy. Anh thấy da mặt cô tái
xanh, mái tóc đen dài lấm tấm nước mưa lòa xòa trước mặt. Trông cô bé nhỏ quá
và anh thấy lòng tràn ngập nỗi thương cảm lạ lùng.
5.
Cô bước vào đời anh như bước vào rạp chiếu phim lúc phim đã
chiếu xong nửa đoạn. Có lẽ tệ hơn thế, bởi trong rạp chỉ sau ít phút định thần
người ta làm quen ngay với bóng tối và tìm ra chỗ ngồi yên vị. Còn cô, càng lúc
đầu óc cô càng hoang mang rối loạn, càng lúc cô càng lún sâu vào cảnh huống tưởng
như chẳng bao giờ gỡ ra nổi. Cô như con thiêu thân – một lối ví von sáo mòn
nhưng thật khó tìm ra ảnh tượng nào khác diễn tả con người cô – biết mình sẽ
thua cuộc, biết mình sẽ chuốc lấy không biết bao nhiêu nỗi đau đớn nhưng vẫn
lao đầu vào. Biết anh có vợ nhưng cô vẫn yêu anh. Những lần anh sang thung lũng
Silicon công tác, cô sung sướng như con chim nhỏ trong buổi sáng mùa xuân. Cô
ăn mặc đẹp rồi theo anh vào những tiệm ăn đắt tiền, ăn xong đi nghe nhạc jazz đến
nửa đêm mới về phòng và làm tình cho đến lúc cô không còn biết mình ở đâu nữa.
Căn hộ xinh xắn nằm lửng triền đồi gần thành phố Menlo Park là tổ ấm miền Tây của
anh. Cô ghét nhất chiều Chủ nhật bởi đó là lúc cô đưa anh ra phi trường để con
chim sắt khổng lồ đưa anh về lại mái nhà của anh bên kia lục địa, nơi ít tiếng
đồng hồ sau đã thấy anh nằm âu yếm bên cạnh vợ, đi sâu vào thân thể trắng muốt
nuột nà của cô. Còn lại một mình trong ngôi nhà trống trải, cô ôm mặt khóc,
khóc chán cô lăn ra ngủ vùi, bỏ cả bữa cơm tối. Nửa đêm tỉnh dậy cô mò mẫm
trong bóng tối đi tìm chai rượu. Nốc cạn nửa chai rượu, cô nôn thốc nôn tháo đến
tận mật xanh mật vàng, nhưng nhờ vậy cô ngủ thẳng một mạch đến giữa trưa ngày
hôm sau. Giấc ngủ mệt nhọc khiến đầu cô như bị bổ đôi. Cô vào phòng tắm cởi quần
áo rồi vặn nước nóng. Tắm xong cô thấy dễ chịu đôi chút. Cô ra đứng trước tấm
gương lớn, buông tấm khăn xuống sàn để một lần nữa chăm chú quan sát thân thể
mình trong gương. Cô chẳng bao giờ tự hào về thân thể mình, nếu không muốn nói
cô mang nặng mặc cảm ngay từ thuở dậy thì, cô không có một vóc dáng đàn bà hấp
dẫn. Cô gầy quá. Xương vai, xương chậu, xương quai xanh cô lồi lên lõm vào
trông rõ mồn một. Bởi thế lúc nào cô cũng mặc áo quần dày cộm. Tại sao hóa công
hà tiện đến thế? Đã cho cô khuôn mặt đẹp thì có gì hao phí lắm đâu cho cô luôn
thân hình tuyệt mỹ để cô sung sướng hiến dâng lên người tình thương yêu của cô?
Mặc cảm này khiến cô chẳng bao giờ tự tin
khi bước chân vào cuộc tình nào. Sự thật là cô rất khó tính trong các quan hệ
tình ái. Cô khó tính chẳng phải bởi cô kiêu kỳ, chẳng phải bởi cô là người có
tính kén chọn mà chỉ bởi cô sợ hãi gã đàn ông đến với cô sẽ thất vọng trong lần
làm tình đầu tiên khi gã khám phá ra thân hình ốm yếu thẳng băng từ trên xuống
dưới của cô. Cô sợ sau khi đóng thật khéo cho trọn vẹn màn kịch yêu đương với
cô, gã sẽ biến mất khỏi đời cô như kẻ lạ tình cờ chạm trán nhau tại ngã tư nào
đó trong thành phố. Đàn ông khi nhìn cô, họ không nhìn vào mặt cô mà quét tia mắt
từ chân cô trở lên. Cô có cảm tưởng sau khi làm thế họ mới nhướng hai mắt lên
nhìn mặt cô. Cô đọc được vẻ ngạc nhiên đến sững sờ trong mắt họ khi nhận ra
khuôn mặt xinh đẹp thông minh đang nghiêm nghị nhìn họ. Thân hình và khuôn mặt
cô tương phản đến độ họ phải chưng hửng đến thế sao? Cô ghét cay ghét đắng những
gã đàn ông suốt ngày ngồi ngoài quán cà phê tán hươu tán vượn, quai miệng ra
chê bai con nhỏ này vú xẹp, con nhỏ kia mông lép. Những gã đàn ông đó, dưới mắt
cô, là bọn vô lại, dư thừa trong xã hội, chẳng bao giờ xứng đáng cho cô để mắt
tới, nhưng oái oăm thay, tất cả những gã đàn ông đi qua đời cô đều như thế cả,
dĩ nhiên, chỉ bởi cô khờ khạo, cả tin. Tất cả, ngoại trừ Bruce.
6.
Ngồi mãi vẫn chẳng nghĩ ra giải pháp nào, anh đứng dậy bỏ
đi. Người đàn bà với ly vang đỏ vẫn ngồi đó, cô kín đáo liếc đôi mắt đẹp về
phía anh với tia nhìn dọ hỏi, thắc mắc. Có lẽ vẻ bồn chồn rối loạn hiện rõ lên
nét mặt cùng cử chỉ anh khiến cô dù không muốn cũng phải tò mò để ý.
Anh ra thuê xe rồi lái thẳng đến nơi cư ngụ của Trâm trước
đây. Nhà hình như đã có người khác vào ở. Tuy đã sáu giờ tối nhưng thợ sơn, thợ
lót sàn vẫn lăng xăng bận rộn sửa sang lại nội thất căn hộ. Anh thấy buồn bã.
Suốt hai năm trời dù sao nơi đó cũng là tổ ấm của anh và Trâm những ngày anh
sang làm việc ở thung lũng Silicon này. Trâm xem việc săn sóc anh là thú vui của
cô. Những hôm không ăn tiệm, cô chuẩn bị cơm nước chu đáo lắm. Làm cơm Việt
Nam, cô cũng tế nhị chế biến cho hợp khẩu vị anh, không quá nhiều nước mắm,
không quá cay mặn. Trong lúc ăn, cô nhường những chỗ ngon cho anh, thịt gà cô
biết anh chỉ ăn thịt ức, toàn nạc, không chút mỡ. Và bữa nào cũng phải có chai
vang bên cạnh. Trước đây cô không biết uống rượu, nhưng từ ngày quen Bruce cô
trở thành người uống rất khá. Cơm nước xong cô lấy khăn lạnh cho anh lau mặt
trong lúc ăn tráng miệng. Bruce mê xem phim truyện. Cô thuê sẵn một lô phim anh
thích và những lúc ngồi bên cạnh anh xem phim trong căn phòng khách ấm cúng là
giây phút sung sướng nhất đời cô. Có lúc cô gối đầu lên đùi anh, có lúc cô gác
chân. Bruce xem phim còn cô xem anh. Cô nhìn khuôn mặt điển trai nhưng không
trai lơ của Bruce mà thấy lòng dạt dào hạnh phúc.
“Mặt anh tối nay có cái gì bất thường hay sao mà em nhìn anh
như vậy, hả Trâm?” Bruce hỏi cô như thể cô là người đi xem tranh không có chút
kiến thức hội hoạ nào tình cờ bước vào gian phòng triển lãm treo toàn tranh trừu
tượng.
“Em thấy anh lúc nào cũng bất thường.” Trâm đáp lời anh.
“Ngay cả lúc làm tình với em?” Bruce hơi cười cợt.
“Nhất là lúc làm tình với em.” Trâm nói ngay.
“Anh bất thường như thế nào? Nghĩa là anh không giống những
người đàn ông trước đây của em?” Giọng anh bắt đầu hơi mát mẻ, đượm chút ghen
tuông"
“Anh biết rồi còn hỏi.” Trâm lườm anh một cái. “Anh biết em
yêu anh đến nhường nào, trước anh em có bao giờ yêu ai như vầy đâu.” Câu nói
không có ý nghĩa gì lắm đối với Bruce bởi anh từng nghe không biết bao nhiêu
câu tỏ tình từ đàn bà. Đàn bà nào đến với anh cũng nồng nhiệt, và những câu nói
họ rót vào tai anh lúc ân ái bạo liệt lắm, nhưng chính cái lườm của Trâm đã khiến
anh rúng động. Anh chưa bao giờ thấy ai tỏ tình bằng cái lườm như thế cả. Nó
lãng mạn vô cùng mà có lẽ chỉ đàn bà Á đông mới có. Anh gọi nó là niềm bí ẩn
phương Đông. Anh không cắt nghĩa nổi cái lườm khi tỏ tình tại sao lại có năng lực
kỳ diệu như thế, chỉ là ánh mắt nhưng sao nó chứa đựng biết bao điều không thể
diễn tả bằng cách khác. Và chỉ có anh hiểu được nó. Anh chợt nhớ đến câu nói của
Sheila thời đi học khi cô bảo anh văn chương của các nhà văn quái quỷ nằm trong
tủ sách của cô chỉ có thể hiểu được khi chúng ta giải mã được những điều họ viết.
Chỉ khi đó ta mới thấy thích thú. Cho đến nay Bruce vẫn chưa giải mã nổi loại
văn chương đó nhưng anh giải mã được cái lườm của Trâm và anh thấy niềm sung sướng
ngọt ngào dâng lên dào dạt trong lòng mỗi lần Trâm đưa mắt lườm anh vì một chuyện
nhỏ nhặt nào đó như chuyện vừa xảy ra. Anh luôn tìm cách chọc ghẹo Trâm để cô
lườm anh như thế. Nó là nhu yếu cho tình yêu của anh, thiếu nó anh không chịu nổi,
và những lúc ở xa cô anh nhớ nó nhiều hơn là chính con người cô.
7.
Suốt ngày thứ bẩy, Bruce một mình đi lang thang trên San
Francisco. Anh gửi xe ở trạm thành phố Fremont rồi đáp chuyến BART sang đầu bên
kia vịnh. Trước đây Trâm cũng hay dẫn anh đi theo tuyến đường này mỗi lần hai
người lên chơi thành phố thơ mộng đó. Anh đi lại những nơi anh và Trâm hay đi.
Mỗi nơi chốn đều nhắc lại anh một kỷ niệm nho nhỏ nào đó và anh thấy những cảm
xúc trong lòng mình lạ lùng đến nỗi anh không nhận ra đó là tình cảm của anh nữa.
Anh không biết đây có phải là tình yêu không?
Trên đường về lúc ngồi trên xe BART anh chợt nhớ đến một người
mà từ đó may ra anh có thể phăng ra tung tích của Trâm. Đó là người hàng xóm của
Trâm trước đây. Chị ta hình như sống với chồng con cách căn hộ của Trâm vài
căn. Thi thoảng anh thấy chị ta đẩy xe đưa con đi dạo quanh khu xóm. Chị người
Việt, có lẽ lớn hơn Trâm vài tuổi, tính tình hiền lành, ít nói, suốt ngày trong
nhà trông con. Vài lần chị sang phòng Trâm nhờ vả cô việc gì đó, thấy anh, chị
liếc thật nhanh, gật đầu chào rồi quay sang nói chuyện với Trâm bằng tiếng Việt.
Anh nhớ hình như chẳng bao giờ anh nói chuyện gì với chị, anh cũng chẳng biết
tên chị là gì. Nhưng bây giờ chỉ còn chị là đầu dây mối nhợ cho anh tìm Trâm và
anh thấy nôn nóng với ý tưởng này, anh thấy đoàn tàu sao chạy chậm thế, lại còn
ngừng bến quá nhiều lần, chạy năm phút lại ngừng. Anh tự trách mình tại sao
không nghĩ ra chuyện này sớm hơn.
Sau ba lần bấm chuông lầm và phải xin lỗi chủ nhà, anh tìm
ra căn hộ nơi vợ chồng chị bạn Trâm sinh sống. Chính chị mở cửa cho anh. Chị
tròn hai mắt nhìn anh. Để nhìn lên mặt anh chị phải ngửa đầu hẳn ra phía sau bởi
chị thấp lắm, đứng chỉ tới ngực anh. Chị mời anh vào nhà, chắc chị ngầm hiểu lý
do nào khiến anh đến bấm chuông nhà chị vào lúc bẩy giờ tối ngày thứ bẩy. Sau
khi xin lỗi chị về sự đường đột của mình, anh hỏi chị ngay:
“Chị không biết Trâm dọn nhà đi đâu thật sao?”
“Tôi không có lý do nào để giấu giếm ông.” Chị nói tiếng Anh
không thạo lắm nhưng đủ cho Bruce hiểu chị muốn nói gì. “Sáng thứ năm tôi đẩy
xe đưa con đi dạo thì thấy căn hộ của Trâm trống rỗng, tôi hỏi người quản lý
thì ông ta cho biết Trâm đã đưa thư xin dọn ra cả tháng trước. Ông ta cũng bảo
tôi là tất cả đồ đạc nặng của Trâm trong nhà như TV, tủ lạnh, giường ghế, Trâm
tặng hết cho cơ quan từ thiện thành phố và họ đã cho xe tải đến chở đi. Có
nghĩa là Trâm ra khỏi nhà với chiếc va li nhỏ duy nhất trên tay, còn Trâm đi
đâu thì không ai hay biết. Vợ chồng tôi suốt từ hôm đó đến nay bàn tán không dứt
về chuyện này. Chúng tôi cũng thắc mắc không kém ông là Trâm đi đâu và tại sao
Trâm phải đột ngột bỏ đi như vậy.”
“Lần cuối chị gặp Trâm là bao giờ?” Bruce hỏi như thể anh
đang hỏi cung một can phạm nhưng là giọng hỏi cung từ tốn đầy sự lo lắng.
“Cả tháng rồi ông ạ. Con bé con nhà tôi bị đau cả hai tuần
nay, tôi chẳng có thời gian đi đâu.”
“Lần cuối gặp Trâm, chị có thấy cái gì bất thường ở Trâm
không?”
“Không, hoàn toàn không. Thường chúng tôi gặp nhau chỉ để
nói những chuyện vu vơ và bếp núc. Gần đây Trâm học thêm nấu ăn và cô ấy nhờ
tôi chỉ những món Việt Nam tôi biết nấu.”
Nói thêm vài chuyện nhưng vẫn không bật thêm tia sáng nào về
sự bỏ đi của Trâm, Bruce chợt im lặng rồi anh buột miệng nói như thể bị điều
khiển bởi vô thức:
“Chị biết Trâm đang có thai không?”
8.
Phải chăng đó là lý do khiến Bruce bỏ dở công việc, tất tả
bay sang thung lũng Silicon này và suốt hai ngày nay như ngồi trên đống lửa, đầu
óc hoang mang hoảng loạn như kẻ đứng nhìn ngôi nhà mình bốc cháy mà không biết
phải làm gì để cứu chữa? Cũng sáng thứ năm, anh đang ngồi làm việc trong văn
phòng thì có điện thoại của Trâm gọi sang. Giọng cô bình thản như mọi lần. Cô bảo
cô có thai đã gần ba tháng (kết quả của kỳ anh sang lần trước) và cô quyết định
từ giã anh, tìm nơi sinh con rồi tìm cách ổn định lại đời sống mới với đứa con.
Cô gọi cho anh để nói lời từ giã. Cô không để anh nói nhiều. Trước khi gác máy
cô bảo anh đừng tìm kiếm cô làm gì. Nói đến đây giọng cô hơi run lên một chút.
Cô gác máy. Anh hét lên trong máy nhưng cô làm như không nghe tiếng anh. Anh gọi
lại số nhưng đợi cả chục tiếng chuông reo vẫn không có người nhấc máy. Nhìn số
mã vùng anh đoán Trâm dùng điện thoại công cộng ở San José. Cuối cùng có kẻ nhấc
máy điện thoại. Anh nghe tiếng đàn ông giọng Mễ nặng nề nói như quát vào máy.
Anh lịch sự hỏi gã có thấy cô gái Á châu tóc dài nào gần đó không, anh hy vọng
cô vẫn luẩn quẩn đâu đó, gã có vẻ chẳng hiểu anh nói gì và hy vọng của anh tắt
ngúm khi gã đàn ông vẫn quát vào máy những câu nói thô tục nửa tiếng Anh nửa tiếng
Tây Ban Nha. Hơn nửa tiếng đồng hồ anh loay hoay với hai con số điện thoại của
Trâm, số di động và số trong cơ quan của cô, hai đường dây duy nhất nối liền
anh với cô, nhưng anh chỉ hoài công, cô biến khỏi cuộc đời anh như thể có nhà ảo
thuật đại tài nào dùng cây đũa thần biến cô tan vào hư không.
Trâm có thai và đứa con trong bụng cô là con anh. Chao ơi, tại
sao có ngày anh phải đối diện với thực tế vô cùng khó khăn và đau lòng này? Làm
sao anh có thể để chuyện như thế xảy ra? Suốt buổi anh tự trách mình rồi anh chợt
nảy ra ý nghĩ biết đâu đây là cách trả thù tình ái của Trâm? Trâm biết sẽ không
bao có anh trọn vẹn và cô bỏ đi với cái bào thai trong bụng để cho anh đau khổ
với nỗi ân hận dày vò suốt đời? Biết đâu đây chẳng qua chỉ là tấn bi kịch do
chính tay Trâm đạo diễn? Đàn bà trả thù tình ái bằng cách tự kết liễu đời mình,
chuyện đó chẳng xảy ra mỗi ngày đấy ư? Anh nhớ có lần trong lúc nằm trên giường
âu yếm, cô thủ thỉ bên tai anh cô muốn có đứa con với anh. Hình như đàn bà nào
cũng nói với anh câu nói đó trong lúc thân thể trần truồng nằm trong vòng tay
anh. Lần đó anh khéo léo pha trò biến chuyện con cái thành chuyện khôi hài và
anh chẳng nhớ gì sau đó. Nhưng Trâm thì không quên. Cô lừa anh vào bẫy và giờ
đây cô đang thi hành độc kế biến anh thành kẻ có tội, kẻ phải chịu đựng mọi
hình phạt của lương tâm, và không hình phạt nào ghê gớm hơn sự dày vò, cắn rứt
bởi chính lương tâm mình.
Có đúng như thế không? Có phải Trâm là kẻ dùng độc kế đưa
anh vào tròng? Nhưng có gì bảo đảm cái độc kế đàn bà rất buồn cười đó – tự tay
đâm vào trái tim mình để trả thù gã đàn ông bạc bẽo, khiến hắn phải đau khổ suốt
đời – sẽ đánh thức lương tri hắn? Biết đâu hắn lại thấy đây là cơ hội may mắn
duy nhất cho hắn chặt đứt sợi dây chão trói chặt hắn trong cạm bẫy của tình
yêu? Giác quan duy nhất của lương tri là con mắt, nếu hắn trùm mắt nó cho kín,
nó sẽ chẳng bao giờ ngóc đầu lên nổi chứ đừng nói là cắn được con người hắn.
Tôi có thể kết thúc chuyện tình của Bruce ngay đây, bởi có lẽ
anh chẳng khác chúng ta bao nhiêu. Nó như cuộc du lịch xa. Thú vị. Khích động.
Nhưng khi hết hạn nghỉ hè, chúng ta muốn quay về nhà nằm ngủ trên chiếc giường
êm ái quen thuộc hằng đêm. Một thời gian anh sẽ quên Trâm và đời sống cứ thế đẩy
anh về nơi cuối trời miên viễn mỗi lúc mỗi xa dần biểu tượng của cuộc sống và
tình yêu lúc ban đầu. Anh sẽ sống nốt cuộc đời mình, chạy theo những thú vui tầm
thường nhưng nhàn nhã. Một lúc nào đó trong tuổi xế chiều, nếu có nhớ đến Trâm,
chắc anh chỉ nhớ như một kỷ niệm đẹp, bởi trí óc chúng ta lạ lắm, với hồi ức,
nó thải đi tất cả những gì bị nó xem là xấu xa mà chỉ gạn lọc lại những gì tốt
lành, đẹp đẽ.
Nhưng tôi đánh giá vô cùng sai lầm con người của Bruce. Phải
chăng anh không trùm kín nổi con mắt lương tri anh? Phải chăng anh thấy có
trách nhiệm rất lớn về câu chuyện đau lòng này với người anh thương yêu? Phải
chăng anh thật lòng yêu Trâm? Lương tri? Trách nhiệm? Tình yêu? Tôi rất muốn
tin như thế mặc dù từ lâu tôi đã mất hẳn niềm tin này vào cuộc đời. Tôi muốn
tin rằng ngay ở buổi hoàng hôn của nhân loại con người vẫn còn yêu thương nhau,
vẫn xem nhau như con người.
9.
Chị hàng xóm của Trâm nào biết chuyện Trâm đang có thai. Từ
sửng sốt biến thành chua xót, hai hàng nước mắt bỗng lăn dài trên khuôn mặt chị.
Bruce càng thấy gần gũi chị hơn. Chị có vẻ chẳng trách móc gì anh. Hình như chị
thông cảm với anh hoàn toàn và không xem anh là kẻ có lỗi. Tại sao lại có người
cao cả như thế? Chị có thể là người quê mùa, dốt nát, nhưng chị hiểu tình yêu
hơn rất nhiều kẻ đầu óc cao diệu, luôn tự hào mình là thông minh xuất chúng. Cả
hai im lặng một lúc lâu đoạn chị ngước lên nhìn anh:
“Ông định làm gì bây giờ?”
“Tôi không rõ lắm. Bằng mọi cách tôi phải tìm ra Trâm, nhưng
tôi không rõ mình phải làm gì.”
“Ông còn yêu Trâm không?” Chị đột ngột hỏi anh.
“Dĩ nhiên, tôi còn yêu Trâm.” Anh trả lời không do dự.
Đàn bà chỉ cần biết có thế, mọi chuyện khác đều là thứ yếu.
Lạ thật. Đây là lần đầu tiên trong đời anh để tình cảm mình bộc lộ, mà lại bộc
lộ với một người hoàn toàn xa lạ, cho đến giờ phút đó anh vẫn chưa biết tên là
gì. Mới ngày hôm qua hình ảnh chị không hề nằm trong bộ nhớ của anh, thế mà tối
nay anh ngồi đây, mặt mày thiểu não và dốc cả tâm can mình với người đàn bà tầm
thường, dung dị. Lẽ ra giờ này anh phải ngồi trong những quán ăn sang trọng,
chuyện trò bàn bạc cùng những nhân vật quyền uy, tính toán những biến chuyển
lên xuống trong thị trường, trong thế giới doanh thương, bằng những ngôn từ, những
thuật ngữ kinh tế người bình thường không ai hiểu nổi chứ. Nếu không thế thì
anh cũng đang ôm ghì thân thể nóng bỏng của cô gái nào đó trong phòng khách sạn,
uống vào từng phân vuông da thịt thơm tho của cô. Tại sao anh ngồi đây, trong một
căn hộ bừa bãi đồ đạc thô lậu, nhếch nhác, nói những chuyện dấm dớ về tình yêu
với một chị đàn bà đầu óc thô thiển, hành vi quê mùa. Thật không ai hiểu nổi
cái gì đi xuyên qua trí óc anh lúc bấy giờ.
“Hình như Trâm có người anh trai sinh sống ở San José.” Anh
bảo chị. “Suốt thời gian biết Trâm, tôi chỉ nghe Trâm nhắc đến người anh của
mình một lần duy nhất. Hình như hai người không hòa thuận nhau lắm. Ngoài ra
Trâm chẳng còn bà con xa gần nào. Chị biết gì về người anh trai này của Trâm
không?”
“Có lần Trâm nói với tôi ông ta làm chủ một tiệm 7-Eleven dưới
San José.”
“Chị biết tên ông ta không?”
“Có. Trâm gọi là anh Thắng.”
Chi tiết này khiến con người tháo vát hành động của Bruce
quay về với anh. Anh kiếu từ chị đàn bà hàng xóm tốt bụng, cám ơn chị, đoạn ra
xe bấm máy di động tìm địa chỉ tất cả những tiệm 7-Eleven dưới phố San José rồi
lại bấm vào máy GPS trong xe. Anh nổ máy xe và chiếc BMW750 lướt nhẹ dưới ánh
đèn đêm vàng vọt của thành phố. Đã gần chín giờ tối ngày thứ bẩy. Bụng anh
không thấy đói mặc dù suốt ngày anh chỉ ăn uống qua loa trên đường phố San
Francisco. Anh thấy quặn đau như những lần bị chứng loét bao tử hành hạ.
10.
Cuối cùng anh tìm ra tiệm 7-Eleven của người đàn ông tên Thắng.
Nhưng gã nhân viên bán hàng bảo anh ông chủ gã đưa vợ đi Lake Tahoe nghỉ cuối
tuần đến chiều Chủ nhật mới về. Gã cũng bảo thêm cách hay nhất là anh trở lại
đây lúc mười giờ tối mai bởi đó là lúc ông chủ gã ghé tiệm tính sổ sách mỗi tuần.
Anh hỏi xin số điện thoại di động của chủ gã, nhưng gã cương quyết chối từ ngay
cả khi anh xòe ra tờ giấy bạc một trăm. Biết không làm được gì hơn anh bỏ về
khách sạn, tắm rửa rồi lên giường cố dỗ giấc ngủ qua đêm.
Nhác trông thấy Bruce, tưởng anh là khách hàng, anh ta nở nụ
cười gượng gạo trên môi. Nụ cười biến mất và thay vào đó là sắc mặt tối sầm khi
Bruce tự giới thiệu anh là ai và mục đích vào đây của anh là gì. Anh ta mời
Bruce ngồi xuống ghế phía sau quầy tính tiền. Ngay lập tức, anh cảm thấy cuộc đối
thoại với người đàn ông này là một cực hình, khác hẳn buổi nói chuyện với chị
hàng xóm của Trâm tối hôm qua. Anh ta bắt đầu bằng giọng điệu trách móc Bruce,
hiển nhiên xem anh là nguyên nhân cho mọi đau khổ cô em gái anh ta hứng chịu.
Anh ta không cho Bruce có cơ hội chống chế.
“Tôi khuyên ông nên quên em gái tôi đi. Ông đừng làm nó đau
khổ thêm nữa. Nó là người đàn bà cứng cỏi. Nó không chết đâu. Ông đừng lo.” Đến
đây giọng anh ta trở nên hằn học. “Nhưng ngay cả nếu ông gặp lại em tôi bây giờ
thì liệu ông làm được gì cho nó? Tôi hỏi thật, ông có dám ly dị vợ mình để lấy
nó không? Nó là đàn bà và đàn bà nào cũng cần có người thương yêu bên cạnh. Tôi
nói cho ông biết lý do anh em tôi bất hòa cả hai năm nay chỉ vì nó dính líu đến
ông, một người đàn ông có vợ. Và ông không có quyền nửa đêm xông vào đây đòi hỏi
tôi phải làm thế này thế nọ cho ông. Ông hãy tự chất vấn lương tâm mình đi. Ông
có thấy mình công bằng với mọi người không? Em tôi, nó bỏ đi vì nó thương ông,
nó không muốn ông phải vướng bận, nó hy sinh vì nó biết ông không hẳn là con
người xấu và ông có yêu thương nó. Giải pháp nó chọn đó là đúng thôi và tôi
khuyên ông tối thiểu nên tôn trọng nó, hãy để nó yên.”
“Nhưng đứa con Trâm đang mang trong bụng là con tôi...”
Bruce chống đỡ yếu ớt.
“Hừ! Nếu ông biết trách nhiệm là gì thì ông đã không để chuyện
xảy ra như ngày hôm nay. Những đứa con không cha. Ông ơi, ông không biết đấy chứ,
chúng đầy dẫy ngoài xã hội, và chẳng đứa nào chết đâu.”
“Tôi không nói chuyện lương tri hoặc trách nhiệm với ông làm
gì. Lương tri và trách nhiệm là cái gì vô cùng chủ quan, mỗi người một quan niệm,
nói ra ở đây chỉ vô ích, phí thời gian. Cái tôi muốn nói là tình yêu. Như ông
nói, cô em ông yêu tôi và tôi cũng yêu cô ấy. Tôi cần gặp cô ấy để tìm cho nhau
một giải pháp tương đối ít đau đớn nhất, nhất là cho tương lai đứa bé…”
“Tình yêu!” Người đàn ông cười khẩy, “Ông biết quái gì về
tình yêu. Những người như ông chỉ biết thân xác đàn bà chứ biết tình yêu là
gì.” Anh ta không ngớt hắt vào mặt Bruce những ngôn từ đau đớn nhất, “Ông muốn
gặp nó để khuyên nó phá thai chứ gì? Có phải ông chỉ muốn tái lập quan hệ cũ để
ông muốn đến lúc nào thì đến, muốn đi lúc nào thì đi? Tôi lạ gì những người như
ông. Một lần nữa tôi khuyên ông hãy bỏ ý định đi tìm em tôi và quay về thế giới
của ông. Tôi thành thật khuyên ông như vậy. Ông không mất mát gì cả. Phần thiệt
thòi là về phía em tôi, gia đình chúng tôi. Chúng tôi không đòi hỏi từ ông điều
gì, chỉ mong ông để yên cho chúng tôi sống. Chỉ có cách đó chứ không còn cách
nào khác. Mọi chuyện chấm dứt ngay tại đây, vào lúc này… Xin phép ông, tôi phải
quay lại công việc của tôi, đã gần nửa đêm, tôi phải về nhà với vợ con tôi.”
Cuộc đối thoại xem chừng chẳng đi đến đâu. Bruce mệt mỏi quá
sức chịu đựng. Tinh thần anh như khô cứng. Đầu óc anh không còn sự tỉnh táo,
lanh lẹ để đối ứng với người đàn ông nữa. Anh hỏi anh ta một câu cuối cùng:
“Thôi được. Tôi sẽ không làm phiền ông nữa. Nhưng giữa con
người với nhau, tôi chỉ xin ông cho tôi biết hiện nay Trâm ở đâu. Tôi không cần
địa chỉ, tôi chỉ muốn biết tình trạng sinh sống của Trâm ra sao, tôi sẽ không
quẫy nhiễu Trâm như ông sợ đâu, ông đừng lo.”
Người đàn ông ngần ngừ một lúc khá lâu, đoạn hình như cảm thấy
đã hả cơn giận vì được dịp mắng nhiếc không tiếc lời người đàn ông làm khổ em
gái mình, anh ta hạ giọng:
“Nói thật với ông tôi cũng không rõ nó ở đâu bây giờ, chỉ biết
nó có ý định quay về Việt Nam sinh sống, nhưng gia đình tôi ở Việt Nam bây giờ
đâu còn ai, cha mẹ chúng tôi qua đời lâu rồi, những người thân thuộc thì ở tản
mác khắp nơi trên thế giới.”
11.
Bruce có cảm tưởng anh ta nói thật. Anh cám ơn người đàn ông
rồi loạng choạng bước ra khỏi tiệm. Cuộc nói chuyện với người đàn ông không đem
lại kết quả gì mà chỉ khiến anh buồn bã thêm. Anh buồn không phải vì đau đớn tổn
thương sau những câu nói như bổ vào mặt của người đàn ông, anh buồn vì anh biết
anh đã thật sự mất Trâm. Anh yêu Trâm, lần đầu tiên anh thú nhận với lòng mình
là anh quả có yêu thương người đàn bà đó. Nhưng đột nhiên anh cũng thấy mình
điên khùng hết sức. Động lực nào thúc đẩy anh suốt từ sáng thứ năm cho đến tối
nay có những hành vi và ý tưởng lạ thường như bị ma ám? Sự mê muội khiến anh
không còn khả năng suy nghĩ cặn kẽ nữa, sự việc đâu đã đến nỗi nào, Trâm tuy bỏ
đi nhưng cô vẫn còn đấy trên cõi đời này, tại sao anh phải điên khùng như vậy?
Có ích lợi gì đâu? Dù sao anh vẫn còn đời sống không có Trâm của anh.
Không khí lạnh và thoáng bên ngoài khiến đầu óc anh tỉnh táo
lên đôi chút. Anh ra bãi đậu tìm chiếc xe nhưng linh cảm cho anh biết có chuyện
chẳng lành. Chiếc BMW750 mới toanh biến mất, mặt đất vương vãi mảnh kính vụn. Cảm
giác vừa sợ hãi vừa giận dữ khiến anh run lên như muốn đập phá cái gì. Anh hít
vào phổi một làn hơi thật sâu để lấy lại sự bình tĩnh rồi rút máy di động gọi
cho hãng mướn xe. Họ bảo anh đừng lo lắng. Sau khi hỏi anh qua loa về địa điểm
nơi mất xe, họ bảo họ sẽ liên hệ với cảnh sát, còn về phần anh, anh không phải
làm gì cả, họ đề nghị anh lấy tắc xi về khách sạn, sáng hôm sau họ sẽ đưa chiếc
xe khác đến, họ cũng bảo anh khu phố đó nhiều trộm cướp băng đảng lắm, anh
không nên đứng ngoài đường mà nên vào trong một cửa tiệm nào đó. Anh cảm ơn người
nhân viên hãng mướn xe rồi bấm máy gọi tắc xi. Tắt máy di động, anh phùng mang
thở mạnh một hơi, đầu lắc lắc như thể muốn rũ đi tất cả những bực dọc lo âu mấy
ngày hôm nay. Anh mong chiếc tắc xi đến đón anh thật nhanh để anh về khách sạn
và sáng mai bay về bên kia lục địa, trở về với cái cũ kỹ, quen thuộc của anh.
Chưa bao giờ anh nhớ Sheila như lúc này.
Nhìn quanh khu buôn bán, ngoài tiệm 7-Eleven anh thấy chẳng
còn tiệm nào mở cửa. Chẳng lẽ anh lại chui vào nhìn mặt người đàn ông lần nữa?
Anh bước lên vỉa hè đến đứng trước một tiệm bán đồ chơi trẻ con. Anh đứng hai
tay thọc túi quần, mắt chăm chú nhìn những món đồ chơi xinh xắn đủ sắc màu bày
biện la liệt bên kia song sắt và lớp kính dày. Ánh sáng nhợt nhạt của đèn đường
hắt vào không cho anh thấy rõ tất cả mọi vật trong tủ kính, nhưng món đồ đập
vào mắt anh nãy giờ là đoàn tàu hoả nằm nghênh ngang trên đường sắt quây tròn
giữa mô hình núi đồi sông ngòi mấp mô lên xuống thật đẹp mắt…
Anh đứng đó lâu lắm. Chiếc tắc xi mãi chưa thấy đến. Nửa đêm
Chủ nhật, thành phố mơ màng ngủ như muốn quên đi mọi ưu phiền, bức bối của ban
ngày. Chưa bao giờ anh thấy cô đơn như lúc này. Thốt nhiên anh thấy lành lạnh
sau gáy, anh quay lại và thấy hai tên đàn ông to béo, mặt mày trùm kín, đang lù
lù tiến lại gần anh, một tên lăm lăm khẩu súng nhỏ trên tay. Khẩu súng khạc đạn,
tia lửa lóe sáng trong đêm. Hai tiếng nổ trơ trốc. Khô khan và chát chúa.
12.
Lương tri. Trách nhiệm. Tình yêu. Chúng như bầy quái thú
kinh khiếp, hãy xích chúng lại và nhốt chúng trong hầm tối. Một khi được cởi
xích, chúng không để chúng ta yên đâu. Bởi ngay lập tức chúng toa rập với con
quái thú kinh khiếp không kém khác nằm chờ sẵn bên ngoài có tên gọi là định mệnh,
để cả lũ hung hãn xông tới húc văng chúng ta xuống vực thẳm.
Bruce thoát chết nhờ người tài xế tắc xi đến kịp chở anh vào
bệnh viện, nhưng anh phải ngồi xe lăn suốt đời. Cuộc đời anh bỗng chốc đi vào một
ngõ quành khốc liệt.
Thời gian sau, trong một buổi tối ngồi nói chuyện, Sheila
thú nhận với anh là suốt năm năm qua cô có cuộc tình với một người đàn ông. Anh
hỏi cô anh biết người đàn ông đó không, cô bảo không, anh ta là thi sĩ, nhưng
không phải một thi sĩ danh tiếng mà là người đang chờ đợi ngày nào đó tên tuổi
mình sẽ gắn liền với những trào lưu thi ca cách tân đầy táo bạo. Những tên thi
sĩ như vậy – ý nghĩ chậm chạp đi qua đầu anh – ở New York này có cả tá nếu
không muốn nói hàng trăm. Ban ngày họ lái xe tắc xi, phục vụ ở tiệm ăn kiếm sống,
đêm đêm tụ tập trong những quán rượu chật hẹp mù mịt khói cần sa dưới SoHo đọc
cho nhau nghe những câu thơ không ai hiểu. Họ chẳng được ai nhắc đến và ngược lại
họ cũng bất cần đời. Làm sao Sheila có thể yêu một tên loser như vậy được? Anh
tự hỏi. Nhưng anh biết anh thất bại, anh mới là loser, muôn đời anh chẳng bao
giờ giải mã nổi những gì lổn nhổn trong đầu óc cô. Anh hỏi cô muốn gì. Cô bảo
cô muốn ly dị. Anh hỏi cô còn yêu anh không nhưng không nghe cô trả lời và anh
hiểu. Anh gật đầu bảo được, anh cũng nói thêm anh sẽ chia gia sản một cách công
bằng để suốt đời cô không phải lo lắng đến sinh kế. Cô cám ơn anh rồi bỏ vào
phòng ngồi đọc sách cho đến khuya, như mọi đêm.
Sheila biết rất rõ tính trăng hoa của anh, nhưng suốt thời
gian làm vợ anh, cô không hề tỏ lộ chút ghen tương nào, thậm chí một câu nói
bóng gió trách nhẹ cũng không. Hình như người đàn bà trí thức như cô không được
phép ghen chồng. Ghen chỉ dành cho các bà nhà quê tầm thường, thấp kém. Nhưng
anh cũng biết đời sống hôn nhân anh như tòa lâu đài xây trên cát, nó có thể đổ
xuống tan tành bất cứ lúc nào. Sheila ở tuổi trung niên mang nặng căn bệnh trầm
cảm của người đàn bà trí thức, trầm cảm không do bất cứ duyên cớ nào, trầm cảm
vì nó là một thuộc tính tự nhiên.
Căn bệnh trầm cảm của Sheila có lẽ đã giúp cô bình thản nghe
Bruce thú nhận với cô về chuyến đi cuối tuần sang cái thành phố khốn nạn ấy lúc
anh vừa tỉnh táo lại đôi chút và còn nằm trên giường bệnh viện. Và quan hệ giữa
anh và cô gái người Việt trong suốt hai năm, chuyện cô có thai và bỏ đi. Cô nắm
tay anh trong lúc nghe anh nói. Anh không nói nhiều vì đầu óc vẫn còn luễnh
loãng sau tai họa xuýt chết, nhưng cô hiểu tất cả. Khi anh nói xong cô chỉ cúi
xuống hôn nhẹ lên trán anh, vỗ về cho anh ngủ rồi đứng dậy ra về.
13.
Sau khi Sheila bỏ vào phòng đọc sách, còn lại một mình trên
xe lăn ngoài phòng khách, Bruce nhìn ra ngoài khung cửa sổ rộng. New York về
đêm bao giờ cũng đẹp. Nó chỉ đẹp vào ban đêm. Đã bao nhiêu lần anh nhìn khung cảnh
này rồi mà vẫn không thấy chán. Chỉ có cái đẹp mới xoa dịu được anh bây giờ
thôi. Nhưng thật ra mọi đau đớn đã chai lì. Đã qua rồi giai đoạn khổ sở khi những
ý nghĩ quýnh quáng dồn nén xung quanh ý định quyên sinh. Đã một năm trôi qua từ
buổi tối hôm đó. Bây giờ anh không nghĩ đến cái chết nữa. Mọi người không ai hiểu
anh. Họ bảo tuy thoát chết nhưng anh bị sốc quá nặng nên rất có thể bị lâm vào
trạng thái tâm thần, cần được chữa trị. Nghĩa là họ bảo anh điên. Anh là thằng
điên ư? Không đời nào. Từ một người dùng lời nói để kiếm tiền, anh suốt ngày
không nói một câu. Nhưng điều đó không có nghĩa là anh trở thành người điên.
Người điên nói rất nhiều. Tất cả mọi người xung quanh bây giờ mới là người
điên. Nhưng không ai đồng ý với anh như thế. Anh ghét cay ghét đắng cái lão Do
Thái Kuzimitski điệu đà như quan tòa, cậy mình có bằng tiến sĩ phân tâm học,
tra vấn anh đủ điều, những điều anh chưa bao giờ thổ lộ với ai, ngay cả đêm ngủ
anh mơ thấy gì cũng phải khai báo với lão. Sáng mai anh lại phải đi gặp lão nữa
đây, nhưng anh sẽ chẳng kể cho lão nghe về giấc mơ anh mơ đi mơ lại suốt hai
tháng qua đâu. Anh mơ anh gặp Trâm.
Anh thấy anh lạc vào một khu nhà tập thể to rộng. Kiến trúc
ngôi nhà chỉ thấy ở vùng gần Thẩm Quyến, Đông Quan miền nam nước Tầu, nơi anh
hay bay sang công tác trước đây. Phòng ngoài có những cô gái Á châu và cô nào mặt
mày cũng hớn hở chờ làm tình với anh. Không, các cô không phải gái điếm. Anh biết
rất rõ những ổ gái điếm quanh vùng này hay Thượng Hải, Hồng Kông, nơi các tay
tài phiệt Tầu hay đưa anh xuống mua vui mỗi lần anh sang công tác. Những cô gái
trong khu nhà tập thể này trông quê mùa lắm, trông họ như những cô gái quê ngồi
cặm cụi làm công việc lắp ráp trong các hãng xưởng. Nét thành thật, ngây ngô hiện
rõ trên khuôn mặt không son phấn của họ. Họ nhìn anh luyến tiếc trong lúc anh
chạy vụt vào một hàng lang hẹp và sâu hun hút. (Trong giấc mơ anh chạy như bay
chứ không ngồi xe lăn). Hành lang dài lắm, anh chạy mãi vẫn chưa đến phòng
Trâm. Tất cả cửa phòng đều y như nhau, màu nâu nhạt và đều tăm tắp. Nhưng làm
sao anh biết phòng nào là phòng của Trâm? Anh biết chứ. Anh biết bởi trên cửa
phòng hiện rõ đôi mắt của Trâm lườm anh. Anh biết Trâm đang nằm bên trong đợi
anh. Cô sẽ lườm anh một cái rồi bảo, “Sao lâu quá anh không sang với em?” Chao
ơi, anh nhớ cái lườm đó xiết bao!
14.
Tình yêu nào cũng cần có cái gì làm ảnh tượng. Tôi đoán ảnh
tượng tình yêu của Bruce với Trâm là cái lườm đầy tình tứ của cô.