Lúc còn tại thế, có lúc, ông Phạm Văn Đồng đã phải
đối diện với một câu hỏi khó:
“Xin thủ tướng cho biết ý kiến về sự kiện thuyền nhân hồi
1975, nhất là hồi 1978, 1979… Về nguyên nhân và trách nhiệm trong những sự kiện
ấy, với những hiện tượng bán bãi thu vàng và khá nhiều tầu, thuyền bị hải tặc
bão tố và chìm trong đại dương… Là người đứng đầu chính phủ, một trong những
người lãnh đạo cao nhất của đảng cộng sản, thủ tướng nhìn nhận ra sao trách nhiệm
của mình trong cuộc di dân rộng lớn và bi thảm ấy?” (Bùi Tín, “Hai Câu Hỏi Cần
Trả Lời Rõ Ràng Trước Khi Thế Kỷ 20 Khép Lại,” Cánh Én,
Feb.1999:05).
Phạm Văn Đồng, tất nhiên, không “nhìn nhận trách nhiệm” gì ráo trọi. Và đây là thái độ chung của giới hữu trách ở Việt Nam – theo như nhận xét của ông Ngô Nhân Dụng: “Khi thấy dân tố cáo bất cứ cái gì, phải chối ngay, phải lấp liếm, bịa đặt, bưng bít, bằng bất cứ cách nào, không bao giờ nhận lỗi.”
Ông nhà báo này nói tầm bậy tầm bạ như vậy mà …
không trật. Khi được phóng viên báo Nhân Dân, số ra ngày 31 tháng 8 năm
1987, hỏi về cuộc “di dân rộng lớn và bi thảm ấy,” Trung Tướng Nguyễn
Đình Ước (Viện Trưởng Viện Lịch Sử Quân Sự Việt Nam) đẩy cây như máy:
“Đó là chuyện có
thật … Đã có một bộ phận người Việt Nam bỏ đất nước ra đi. Không ít người đã
thiệt mạng trên biển do bị chìm thuyền, bị bọn đưa người vượt biên trái phép lừa
gạt giết chết. Đó đúng là một thảm cảnh nhưng là hệ quả do những chính sách chống
phá Việt Nam từ bên ngoài.”
Mới đây,
ông Dương Trung Quốc mô tả đó là một “vết thương
lịch sử” nhưng (sau một lúc quanh co) ông kết luận rằng là nó sắp …
lành đến nơi rồi : “Tôi không nghĩ kiều bào còn lấn cấn nhiều về chế độ
chính trị, có lẽ chỉ còn ở một thế hệ nào đó do hoàn cảnh lịch sử.”
Cái “hoàn cảnh
lịch sử” này ra sao là điều mà ông Tổng Thư Ký Hội Khoa Học Lịch Sử
Việt Nam không muốn nói đến. Ông Trương Tấn Sang cũng vậy:
“Đảng, Nhà nước
và nhân dân ta luôn khẳng định người Việt Nam ở nước ngoài là một bộ phận không
thể tách rời của cộng đồng các dân tộc Việt Nam, luôn mong muốn và làm hết sức
mình để hỗ trợ đồng bào đoàn kết, giúp đỡ lẫn nhau, ổn định cuộc sống, phát triển
kinh tế, giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc, hòa nhập vào cộng đồng dân cư trên đất
nước cư trú…”
Dưới mắt nhìn
của những người cầm quyền ở Việt Nam thì mấy triệu thuyền nhân cứ y
như một đám người từ trên trời rớt xuống, tứ tán khắp năm Châu. Đảng
và Nhà Nước đã gom cái tập thể này lại và biến họ thành cục bột,
muốn nắn bóp nó ra sao – tùy thích.
Có lúc Nhà
Nước mô tả những kẻ ra đi là một lũ người “bất hảo, cặn bã của xã hội,
ma cô, đĩ điếm, trộm cướp, trây lười lao động, ngại khó ngại khổ, phản bội tổ
quốc, chạy theo bơ thừa sữa cặn… ”. Không hiểu đám thuyền nhân đã hành
nghề ma cô, đĩ điếm và tổ chức trộm cướp ra sao – nơi đất lạ quê người –
nhưng số lượng bơ thừa sữa cặn mà họ đều đặn gửi về cố hương đã cứu toàn dân,
cũng như toàn Đảng, thoát chết (đói) nhiều phen.
Từ đó, Đảng ta đổi
giọng : những kẻ phản bội tổ quốc không những đều được “khoan hồng” mà
còn được “tôn vinh” như “những sứ giả Lạc Hồng,” và (bỗng) trở thành “một bộ phận
không thể tách rời của cộng đồng dân tộc,” hay “là cầu nối phát triển quan hệ hợp
tác hữu nghị giữa nhân dân ta với nhân dân các nước trên thế giới…”
Thiệt khoẻ!
Thế còn chính
những thuyền nhân họ nghĩ sao? Theo nhận xét của giáo sư Nguyễn Văn Tuấn thì dường như đây là một đám
đông thầm lặng, không nghe ai lên tiếng nói năng gì hết trơn hết trọi :
“Đúng là một cuộc di tản qui mô lớn chưa bao giờ có trong lịch sử Việt Nam.
Nhưng không có ai của Nhà nước chính thức ghi nhận sự kiện này. Tôi chưa bao giờ
nghe / đọc một người từ miền Bắc nhắc đến sự kiện này.”
Nói nào ngay
thì có nhưng rất ít. Lý do giản dị chỉ vì những nạn nhân của những
biến cố kinh hoàng, vượt ngoài sức chịu đựng bình thường của con người,
thường không mấy ai muốn nhắc đến những kinh nghiệm hãi hùng mà họ
đã phải trải qua. Đây là hội chứng PTSD (Post Traumatic Stress Disorder)
theo như ghi nhận của DSM – IV – TR (Diagnostic and
Statistical Manual of Mental Disorder, Fourth Edition. Text Revision.
Washington, DC, American Psychiatric Association, 2000 – cẩm nang của khoa Tâm
Thần Học).
Hiện tại, trên
bàn viết của chúng tôi chỉ có hai cuốn sách thuộc loại này:
- Góc Bể Bên Trời của Võ Hoàng có lẽ là
tác phẩm đầu tiên, viết về chuyện vượt biên, tạp chí Nhân Văn
(California) xuất bản năm 1984. Tác giả vốn là một ngư dân ở Rạch
Giá đã ghi lại một cuộc vượt biển “phụ,” một đoạn đường đi “thêm”
từ vịnh Thái Lan đến tận Úc Châu – trên một chiếc thuyền con mong
manh, thiếu thốn tất cả những phương tiện, những điều kiện cần
thiết tối thiểu cho một hải trình dài dặc, và có trăm ngàn thứ
gian nguy – của chính ông và bè bạn.
- Buồn Vui Đời Thuyền Nhân của Lâm Hoàng Mạnh, Tiếng Quê Hương (Virginia) xuất bản
năm 2011. Đây là tập hồi ký dầy hơn ba trăm trang của một y sĩ
kiêm văn sĩ, ghi lại hết sức sống động và chi tiết cuộc trốn
chạy của những người Việt gốc Hoa từ bến Tam Bạc (Hải Phòng)
qua Hồng Kông, và điểm đến cuối cùng là Anh Quốc.
Trang sổ tay hôm
nay chúng tôi xin dành để giới thiệu một tác phẩm khác ( Đường
Phía Bắc) của nhà văn Lê Đại Lãng, tuần báo Trẻ (Texas) xuất bản đầu năm 2012, viết về
“hành trình của những người hướng Bắc sinh và sống từ cầu Hiền Lương đến nàng
Tô Thị.”
Tác giả là
một thuyền nhân đi từ phía Nam nhưng có một thời gian dài làm việc
thiện nguyện trong những trại tị nạn, ở Hồng Kông. Ông cũng là tác
giả của tập bút ký Nước Mắt Trong Tim do tạp chí Người Dân (California) xuất bản năm 1990, và tiểu
luận Vietnamese-English Bilingualism: Patterns
of Code-Switching –
Routledge Studies in Asian Linguistics – xuất bản năm 2003, ký tên thật là
tiến sĩ Hồ Đắc Túc.
Trong phần lời
tựa của Đường Phía Bắc, Lê Đại Lãng tâm sự :
“Tôi viết lại những
mẩu chuyện nho nhỏ mà các bạn đã kể cho tôi nghe
như một người nghèo thiếu áo, chắp lại những mẩu áo đủ
màu đủ cỡ, lành có rách có, đậm có nhạt có, để ráp thành một
cái áo vụng về xấu xí mặc cho qua rét mướt mùa đông. Dù cho
công tôi chắp vá mà thành, nhưng chất liệu vẫn là các bạn, nếu
có chỗ nào (nói cho le) là hư cấu thì cũng xin coi
là cái cúc áo đơm vào để gài kín ngực. Bỏ cái cúc ra,
áo vẫn hoàn áo, vải gấm hay vải thô vẫn là của các bạn. Vốn liếng
và chất liệu đã làm nên cuốn sách này là từ đời sống của
các bạn tôi… và những hạt mưa dầm.”
“Những mẩu
chuyện nho nhỏ” của người đi từ phía Bắc và những kẻ đi từ phía
Nam, gần như, chả khác gì nhau. Đều là những chuyện nát lòng, và
những mảnh đời tơi tả, của những kẻ bị đẩy đến bước đường cùng
không còn lựa chọn nào khác nên phải (đành đoạn) rời bỏ quê hương đâm
sầm ra biển – như một cách lao đời vào cái chết để tìm sự sống.
Người ta ước đoán chừng vài trăm ngàn thuyền nhân đã
vùi thây trong lòng biển cả (*). Những kẻ thoát chết đến được bến
bờ không nhất thiết đã là những người may mắn. Đường Phía
Bắc là tác phẩm viết về họ, những kẻ trong các trại cấm ở Hồng
Kông sau giờ khắc định mệnh “0 giờ ngày 16 tháng 6 năm 1988” – giờ khắc
mà nhiều trại tị nạn ở Đông Nam Á đã đột ngột biến thành những
trại tù, qua ngòi bút của Lê Đại Lãng :
“Những dãy nhà lợp tôn dài hai mươi chín mét, rộng sáu
mét trống trải không có giường nhét đủ ba trăm mạng người. Hải băng qua những
đường rãnh lềnh bềnh rác lẫn với phân người, theo trưởng buồng lách chân giữa một
lối đi hẹp giữa buồng, hai bên thùng bọng la liệt, kẻ nằm người ngồi tràn lan
trên nền đất rin rỉn nước.”
Và đây là vài mẩu đối thoại của những con người
sống trong vòng rào của những trại cấm này:
- Tiên
sư con cái nhà ai mà cứ ỉa tòe loe ra đấy. Bẩn đéo chịu nổi.
- Giọng
một bà trả đũa:
- Con cái nhà bà đấy. Nó muốn ỉa đâu
thì nó ỉa, bà thách thằng chó nào đụng tới nó coi nào.
- Gã đàn ông bị chạm tự ái, cáu :
- Ỉa thì có nhà cầu, cứ tươm cả ra đấy
thì cái nhà này biến thành lăng bác cả à!
- Tiếng cười rúc rích thú vị, chị đàn
bà đổi hướng:
- Có giỏi thì đứng ở Ba Đình nói câu ấy.
Qua đây nói ai nghe nào. Lũ hèn…!
- Thằng
bé cắt lời mẹ, ré lên đòi chùi đít. Bà mẹ bảo: “Cứ chờ đấy, chừng nào nước
mở hẵng rửa”.
- Thằng
bé dang dang hai chân đi về giường. Có tiếng la dẫy nẩy: “Coi chừng nó ngồi
lên giường là khốn đấy. Địt mẹ, biết thế này ông thèm vào”.
- Ở
trong những trại tị nạn này, trẻ con Việt Nam không biết nói
tiếng “không.”
- Chúng
thay bằng tiếng khác :
- Tao
đéo thèm chơi với mày nữa
- Tao
đéo vào
- Mầy
có cái đó không?
- Đéo
có.
Những mảnh đời méo mó qua những mẩu đối thoại thô
tục (thượng dẫn) của những kẻ may mắn sống sót đến được bến
bờ, cùng với oan hồn của hàng triệu sinh linh dưới đáy biển sâu không
thể nói lấp liếm cho qua chuyện (”Tôi không nghĩ kiều bào còn lấn cấn
nhiều về chế độ chính trị, có lẽ chỉ còn ở một thế hệ nào đó do hoàn cảnh lịch
sử”) theo cái kiểu xuê xoa của ông Dương Trung Quốc. Cũng không
thể yêu cầu những quốc gia láng giềng đục
bỏ những bia tưởng niệm thuyền nhân là kể như huề – như
cách hành xử của ông Trần Đức Lương.
Họa cộng sản sẽ qua, và sắp qua. Ngoài chuyện Thu Vàng Bán
Bãi Vuợt Biên, còn nhiều “vụ động trời” khác nữa – như C.C.R. Đ, Nhân Văn, Xét
Lại, Thảm Sát Mậu Thân, Đổi Tiền, Cải Tạo Công Thương Nghiệp, Mười Ngày Học
Tập, Khai Thác Bauxit, Vinashin … – cần phải được ghi nhận, và xét xử
minh bạch, trong tương lai gần.
Vấn đề không phải là để tầm thù hay báo oán. Điều này
hoàn toàn không cần thiết, và hoàn toàn đi ngược lại với truyền thống
văn hoá bao dung dân tộc Việt. Tuy nhiên, quá khứ cần phải được thanh thoả để
chúng ta an tâm hơn khi hướng đến tương lai.
(*) Death
Tolls and Casualty Statistics Vietnam – Vietnamese Boat People
- Jacqueline
Desbarats and Karl Jackson (“Vietnam 1975-1982: The Cruel Peace”, in The
Washington Quarterly, Fall 1985) estimated that there had been around
65,000 executions. This number is repeated in the Sept. 1985 Dept.
of State Bulletin article on Vietnam.
- Orange
County Register (29 April 2001): 1 million sent to camps and
165,000 died.
- Northwest
Asian Weekly (5 July 1996): 150,000-175,000 camp prisoners
unaccounted for.
- Estimates
for the number of Boat People who died:
- Elizabeth
Becker (When the War Was Over, 1986) cites the UN High
Commissioner on Refugees: 250,000 boat people died at sea; 929,600
reached asylum
- The
20 July 1986 San Diego Union-Tribune cites the UN
Refugee Commission: 200,000 to 250,000 boat people had died at sea since
1975.
- The
3 Aug. 1979 Washington Postcites the Australian immigration
minister’s estimate that 200,000 refugees had died at sea since 1975.
- Also:
“Some estimates have said that around half of those who set out do not
survive.”
- The 1991
Information Please Almanac cites unspecified “US Officials” that
100,000 boat people died fleeing Vietnam.
- Encarta estimates
that 0.5M fled, and 10-15% died, for a death toll of 50-75,000.
- Nayan
Chanda, Brother Enemy (1986): ¼M Chinese refugees in two
years, 30,000 to 40,000 of whom died at sea. (These numbers also repeated
by Marilyn Young, The Vietnam Wars: 1945-1990 (1991))
- Rummel
- Vietnamese
democide: 1,040,000 (1975-87)
- Executions:
100,000
- Camp
Deaths: 95,000
- Forced
Labor: 48,000
- Democides
in Cambodia: 460,000
- Democides
in Laos: 87,000
- Vietnamese
Boat People: 500,000 deaths (50% not blamed on the Vietnamese
government)