Chiều cuối năm năm ấy…
Ngoài trời mưa bay lất phất. Như cuộc tẩy trần cho sạch sẽ những gì còn sót lại
của năm qua, hầu đón chào một Tân Niên tinh khôi. Những người khách sau cùng đã
chào chúng tôi, về nhà chuẩn bị tiệc "CountDown" năm mới. Tôi ra mở cửa
sau để hưởng chút không khí lạnh dìu dịu từ bên ngoài. Bỗng một cô thợ gọi:
- Chị ơi! "Bà già gân" tới kìa! Chị đã chuẩn bị mẫu mới cho bà ấy
chưa?
Cô không nói tôi cũng biết, Laura bà khách già người Đức đang tới, vì tiếng nổ ầm
ầm quen thuộc từ chiếc truck GMC bự chảng của bà nghe như rung rinh cả tòa nhà.
Khổ rồi. Tôi than thầm. Mỗi lần bà Laura tới là tôi phải tốn ít nhất hơn một giờ
đồng hồ cho bà, thay vì nửa tiếng như những khách hàng khác. Đã vậy, bà không
bao giờ làm hẹn, mà chỉ ghé lại bất cứ khi nào bà rảnh. Nếu tôi bận thì bà chạy
đi, lát sau trở lại.
Tôi ra đón cái thùng dụng cụ trên tay bà Laura. Bà tự mang
theo đồ nghề vì không muốn dùng đồ của shop, sợ lây bệnh. Bà vừa mừng sinh nhật
thứ tám mươi tư, nhưng nhìn bà người ta tưởng chừng bảy chục. Da bà không trắng
lắm. Người cao ráo gọn gàng. Ăn mặc phù hợp "tông-xuyệc-tông" từ quần
áo đến nữ trang. Bà luôn trang điểm kỹ, mày cong vòng nguyệt, mắt xanh, má hồng,
môi đỏ thắm. Và mái tóc nâu luôn được chải sấy kiểu cách. Bà khỏe nhiều so với
độ tuổi vì nhờ biết ăn uống cẩn thận, và dù bận cỡ nào, bà cũng cố gắng đi Gym
tập thể dục. Bà lái xe rất cừ khôi, mà toàn là xe tải hạng nặng.Lần đầu tiên đến, bà chạy chiếc GMC to kềnh và đậu phát một
vào chỗ trống giữa hai chiếc xe trước cửa. Cả tiệm chúng tôi phục lăn, trầm trồ
bà dám lái chiếc truck to mà còn đậu đẹp nữa. Bà cười: -Đó chỉ là chiếc…xe đạp
của tôi! Tôi còn lái xe tải chở hàng thật dài kìa! Sau này chúng tôi biết, bà
có rất nhiều xe tải vì làm chủ một cơ sở lớn, chuyên bán dụng cụ bảo vệ sức khỏe
(health therapy equipment) như giường rung, nệm nước, ghế xoa bóp, máy đấm
lưng, mền điện, và nhiều dụng cụ khác. Bà luôn lái xe tải dẫn đường để các tài
xế công nhân chở hàng chạy theo bà tham dự hội chợ "State Fair" khắp
nơi trong tiểu bang, và giao hàng tận bên Nam Cali hoặc Lake Tahoe, Reno.
Chẳng những bà Laura mạnh mẽ, lái xe tải chạy ầm ầm, mà bà
còn biết bắn súng. Khi ra ngoài, bà thường bỏ trong xe khẩu súng nhỏ để đề
phòng cướp. Lần nọ bà ghé shop mặt còn vương nét hoảng sợ, nhưng lại cười rất
thích thú. Bà nói vừa đến tòa án để lo một số giấy tờ. Trên đường đi, bà có chở
dùm ông khách hàng một đoạn vì xe ông hư. Ông ta từng là bạn học bắn súng với
bà, nên hai người lấy súng ra khoe với nhau. Không biết bằng cách nào ông nọ đã
cầm nhầm súng của bà, và khẩu súng của ông ta thì lại chui vào nằm trong túi
xách bà ấy.
Thế mà khi bà vào cửa, máy rà an ninh của tòa án không phát hiện khẩu súng mới
lạ. Bà nói trong tiếng cười sảng khoái. -Vô trong ngồi, tôi mở xách lấy cây son
môi thì thấy khẩu súng nên hết hồn vội vã đứng lên đi ra. Bà nói "hết hồn"
nhưng mặt vẫn tỉnh bơ: -Nếu họ thấy khẩu súng thì tôi…tiêu tùng. Vì chẳng những
phạm tội mang vũ khí vào nơi công quyền, mà tệ hơn nữa, khẩu súng đó không có
giấy tờ vì nó là của người khác. Có lẽ mấy chiếc lượt, cái máy sấy tí hon, và số
phấn son trong xách đã che chắn cho khẩu súng của bà. Quả là cái tính "xí
xọn" lúc nào cũng mang theo đồ làm đẹp đã cứu bà thoát được một "kiếp
nạn" ngồi tù rất hy hữu. Do đó mà chúng tôi gọi bà là "Bà Già
Gân."
Bà Laura rất khó tính, nhưng lại tốt bụng và thương người. Một
lần cận Tết Âm Lịch, bà đến gặp lúc tôi đang ngồi ghi cái list gửi tiền về Việt
Nam. Tôi kêu bà chờ để tôi hoàn tất danh sách gửi tiền giúp mấy người già yếu bạn
của mẹ tôi ở quê ngày xưa. Tôi tiện miệng kể, dù mẹ tôi không còn nhưng thuở
sinh tiền bà rất thương những bạn già trước 1975 từng có ruộng đất cò bay thẳng
cánh, sau này không đủ cơm ăn áo mặc, cho nên năm nào chúng tôi cũng gửi giúp
chút đỉnh để họ ăn Tết. Tôi chỉ nói để bà khỏi giận vì phải chờ. Không ngờ nghe
xong bà đứng dậy ra xe lấy vào một tờ trăm đưa cho tôi và nói bà cũng muốn giúp
họ.
Người nhà bên Việt Nam nhận được tiền của tôi và của bà
Laura, đem đổi cả ra tiền Việt, bỏ vào phong bì mang về làng cũ tặng những người
già nghèo khổ ốm đau, và chụp hình gửi qua. Bà Laura rất xúc động khi nhìn hình
ảnh những ông bà già hom hem áo quần rách rưới nhưng cười móm mém trong hạnh
phúc khi cầm lấy bao thư. Từ đó về sau, đến Tết tôi chưa kịp nói bà đã hỏi chừng
nào thì gửi tiền Tết cho mấy người già.
Dù là người gan dạ, nhưng có lẽ sống một mình bà Laura cũng
rất cô đơn. Bà thường trao đổi tâm sự với tôi. Độc đáo và ly kỳ nhất là câu
chuyện vượt thoát kinh hoàng khỏi nước Đức của bà. Nghe chuyện, tôi mới biết bà
là một trong những nhân chứng sống từ thời Đệ Nhị Thế Chiến còn lại đến bây giờ.
Chuyến đi của bà cũng thật dễ sợ, hiểm nguy không kém những chuyến vượt biên của
người Việt tị nạn. Sự giết người man rợ của lính Đức Quốc Xã thời Hitler làm
cho chính người dân của họ cũng phải bỏ chạy.
Năm 1944, thời điểm quân Hitler sắp thua, Laura mới hơn 15
tuổi. Bà được cha dắt trốn đi tị nạn. Nhưng giữa đường hai cha con bị bọn lính
Đức Quốc Xã bắt lại. Để bảo vệ cô con gái nhỏ, người cha dặn dò bà cách tìm đường
đến trại tị nạn rồi ông bỏ chạy qua hướng khác để cho bọn lính rượt theo. Họ bắt
ông lại và bắn chết trước mắt cô con gái đang run rẩy núp trong bụi rậm gần đó.
Nhìn cha bị giết, bà quá kinh hãi nên đã ngất xỉu.
Laura tỉnh lại thì bọn lính bỏ đi hết. Nhớ lời cha dặn, bà
đành bỏ mặc xác cha nằm trong đống xác người, lần mò đi tiếp. Trong sợ hãi và
đói khát, nhiều lần bà phải rúc vào nằm chung với các xác chết bên đường, lấy
máu của họ bôi vào mặt giả chết, chờ bọn lính của Hitler qua khỏi mới đứng dậy
đi tiếp. Lê lết đến mười mấy ngày, thường xuyên liếm những giọt sương bên đường
cho đỡ khát và nhai cả cỏ để đỡ đói. Laura theo một nhóm người vượt qua biên giới,
tới được cổng trại tị nạn thì ngã vật ra vì kiệt sức.
Cuối cùng, cô bé mồ côi được nhận đến tị nạn ở San
Francisco, Hoa Kỳ. Laura kể, bà tồn tại được cũng nhờ vào lời căn dặn sau cùng
của cha trước khi ông lao mình chạy đi:
- Con hãy nhớ đừng bao giờ bỏ cuộc! Nếu ngã xuống thì hãy đứng lên và đi tiếp!
Bà nói lời căn dặn đó đã theo bà suốt đời. Bà chưa bao giờ biết bỏ cuộc dù
trong việc làm ăn hay bất cứ việc gì, cho nên sự nghiệp ngày hôm nay của bà
cũng nhờ đó mà có. Hồi mới đến Mỹ, bà vừa học vừa làm ở McDonald cho đến khi lấy
được bằng High School rồi lấy chồng.
Chồng bà Laura, Steve, là người Mỹ, cấp bậc trung úy quân đội
Hoa Kỳ. Ông mất tích trong cuộc chiến Nam Bắc Triều Tiên, để lại cho bà hai người
con, một trai một gái. Dù khi ấy mới hai mươi hai tuổi, bà vẫn ở vậy một mình
nuôi con chờ tin tức chồng. Người con gái lớn của bà hiện là một bác sĩ Tâm Lý,
người con trai là thạc sĩ Khoa Học và bà có năm đứa cháu nội ngoại.
Dù chồng mất tích hơn năm chục năm, bà Laura vẫn đợi, vẫn nghĩ Bắc Hàn còn giam
giữ ông. Mỗi khi có ai hỏi cuộc chiến Triều Tiên qua lâu rồi, sao bà vẫn nghĩ
chồng bà còn sống, bà trả lời, "Không có tin nghĩa là tin tốt (No news is
good news), chưa có tin ông ấy tử trận thì tôi còn hy vọng. Biết đâu bọn Bắc
Hàn điên khùng còn giữ ông ấy chờ dịp đòi điều kiện với Hoa Kỳ thì sao?"
Tuy bà Laura đến shop gần chục năm, quen biết hết mọi người,
nhưng chẳng ai dám "lãnh" bà khách này, trừ tôi, vì bà rất khó tính
trong việc làm móng. Móng tay móng chân của bà đều giả và rất dài. Mùa nào kiểu
nấy, từ ngày bà đến tiệm, tôi phải tự "design" cho bộ móng tay và cả
mười móng chân cho bà. Những mẫu bà đòi nhiều khi thật lạ kỳ, khó vẽ. Lúc thì
chiếc lá shamrock màu xanh trong ngày Thánh Patrick, khi thì con thỏ trong lễ
Phục Sinh. Có lần bà mang đến một chiếc móng ngựa thật, là một cục sắt nặng chình
chịch, rồi kêu tôi vẽ design y như vậy cho bà. Dù cái mẫu móng ngựa nom kỳ cục,
tức cười, bà nói mang nó sẽ đem lại may mắn. Phiền nhất, mặc kệ tôi bận cỡ nào
bà cũng không tha, mà bắt tôi phải vẽ trực tiếp bằng sơn chứ không chịu dán mẫu
"sticker" có sẵn. -Tôi muốn độc quyền mẫu của tôi, không muốn giống
kiểu với ai hết! Bà nói.
Ngoài những mẫu "quái dị" trong dịp đặc biệt của
riêng bà, các ngày lễ lớn trong năm bà Laura thích design theo biểu tượng.
Giáng Sinh vẽ cây thông, Tạ Ơn thì gà tây, lễ Ma trái bí đỏ… Nhưng thật lạ,
ngày Tết Tây bà không cho tôi vẽ ly rượu hay chữ "Happy New Year" như
mọi người. Bà bắt tôi phải vẽ hình con dao xếp trên móng tay và móng chân, kể cả
những móng chân út nhỏ xíu. Việc ấy quả là một cực hình cho tôi. Phần thì khách
hẹn đang chờ, phần vì phải nín thở vẽ để khỏi bị lem mất công chùi đi vẽ lại,
nên tôi rất căng thẳng. Lúc nào vẽ cho bà, trong bụng tôi cũng kêu khổ và rủa
thầm "bà già chằng ăn!" Một điều làm tôi khổ sở hơn, là mỗi Tết Tây
bà Laura bắt tôi phải vẽ những con dao xếp kiểu mẫu khác nhau, không được trùng
lập với các mẫu design năm trước.
Chúng tôi có tò mò "tra gạn" để tìm hiểu tại sao
bà thích vẽ con dao xếp. Nhưng bà không nói. Riết rồi chúng tôi không hỏi nữa
vì biết đó là điều riêng tư của bà.
Năm nay tôi đã chuẩn bị từ sớm một mẫu vẽ rất mới cho bà Laura. Hình con dao xếp
nhỏ xíu, bầu dục, chính giữa hơi eo lại nhìn rất uyển chuyển, theo một mẫu tôi
tìm thấy trên online. Vỏ con dao màu huyết dụ, lóng lánh kim tuyến vàng, trên
có viết tên "Laura" màu trắng. Một đầu mở ra lưỡi dao bé tí, cây dũa
răng cưa bên phải, và một cái đinh xoắn khui rượu mở ra bên trái. Mới thoạt
nhìn, nó giống như con rùa tí hon màu đỏ với cái đầu và hai chân trước óng ánh
bạc.
- Wow! Đẹp quá! Bà Laura trầm trồ, lộ vẻ xúc động khi tôi vẽ xong con dao đầu
tiên trên móng tay cái của bà. Đây là mẫu đẹp nhất từ trước tới giờ đấy. Nhìn
giống như thật!
Trước khi ra về, bà bỗng nhìn tôi: – Này! Ngày mai là New Year, cô có rảnh
không? Nếu rảnh trưa mai đến nhà tôi chơi, tôi sẽ cho cô xem một thứ, bảo đảm
là cô sẽ thích!
Đây quả là một lời mời bất ngờ. Tôi rất thân với bà Laura, từng
nhiều lần mời bà đến nhà tôi dự tiệc, năm mới, đám giỗ, và cả đám cưới các con
tôi. Nhưng bà chưa một lần mời tôi đến nhà riêng ở thành phố lân cận. Bà chỉ mời
tôi đến cơ sở kinh doanh của bà, vì nó nằm cùng con đường với tiệm của tôi. Tôi
thích thú nhận lời ngay không chút do dự.
Ngày Tết Tây shop đóng cửa, tôi lái xe một mình đến nhà bà
Laura. Ngôi nhà hai tầng nằm bên trong hàng rào cây xanh kín mít dọc con đường
lớn ở vùng ngoại ô thành phố, nhưng cửa chính thì quay vào mặt đường nhỏ phía
trong. Một ngôi nhà kiểu cổ (Victorian house) rất đẹp. Nhà lớn, nhưng nó như lọt
thỏm vào giữa khu vườn rộng thênh thang rậm rạp cây cối. Chào đón khách ngay cổng
là một chiếc xe RV (Recreational Vehicle) thật to, cửa đang mở.
Tôi vừa ngừng xe, bà Laura từ trong chiếc RV bước ra chào đón. Bà nói đang dọn
dẹp và trang bị các thứ trong xe để đến chiều các con cháu bà về sẽ cùng bọn họ
đi chơi xa một chuyến nhân dịp nghỉ lễ.
Vừa đi vào nhà với bà Laura, tôi vừa hỏi bà có sợ khi ở một mình nơi vắng vẻ thế
này. Bà cười, tuyên bố một câu "xanh dờn":
- Tôi bật Alam trước khi lên lầu ngủ. Đứa nào lạng quạng mò vô, hệ thống báo động
réo, tôi sẽ bắn chết chúng!
Chỉ tôi ngồi ở sofa trong phòng khách, bà Laura nói chờ một chút, rồi đi ra
phía sau. Gian phòng thật ấm áp với ánh lửa bập bùng trong lò sưởi. Tôi nhìn
quanh, thầm khen bà chủ nhà có con mắt thẩm mỹ, đã sưu tập những bộ ly tách,
bình hoa, các bộ đồ trà kiểu Á Châu rất độc đáo chưng trong tủ kính.
- Qua đây Linda! Tiếng bà gọi từ phòng ăn. Tôi bước lại và suýt chút nữa không
nhận ra đó là bà. Trước mặt tôi là bà Laura kiều diễm trong chiếc áo đầm trắng
dài lướt thướt kiểu cô dâu. Mái tóc nâu của bà được bới lên cẩn thận. Đầu đội lệch
chiếc mũ trắng có vành, đóa hoa trắng lớn với hai dây tua lấp lánh kim tuyến nằm
bên phải, rũ dài theo gương mặt sáng ngời trang điểm của bà.
- Wow! Bà đẹp quá! Tôi buột miệng trầm trồ. Trông giống một cô dâu!
- Thì hôm nay tôi là cô dâu mà! Bà cười nói. Mồng một Tết năm nào tôi cũng kỷ
niệm ngày cưới của tôi. Rồi bà lẩm bẩm: -Năm mươi mấy năm rồi…
Tôi đứng sững sờ. Không ngờ một người có cá tính mạnh mẽ như bà Laura lại là
người dạt dào tình cảm. Vậy mà trước giờ tôi cứ nghĩ bà cứng rắn như đàn ông.
Mời tôi ngồi vào ghế xong bà lại ngồi phía đối diện. Trên
chiếc bàn ăn dài bằng gỗ nâu bóng loáng, mấy món ăn đơn giản được bày sẵn. Một ổ
bánh CornBread, đĩa bắp cải muối chua, khay xà lách trộn pho mát bào và các loại
hạt, tô thịt bò hầm đậu, và một khúc thịt xông khói. Bà lúc nào cũng chọn món
ăn tốt cho sức khỏe, tôi thầm khen.
Nhìn về phía đầu bàn, tôi ngạc nhiên thấy một khung ảnh lớn lộng tấm hình trắng
đen. Bên cạnh là một lá cờ Mỹ được gấp gọn gàng, và một chiếc hộp nhỏ màu đen
hình chữ nhật đặt bên trên lá cờ.
Đó là hình một cái đám cưới nhà binh. Chú rể cao lớn đẹp
trai, oai nghi trong bộ quân phục sĩ quan, khoác tay cô dâu đang cầm bó hoa trắng,
áo đầm trắng dài kiểu xưa không chấm đất, eo thật nhỏ bên dưới xòe bung, đầu đội
lệch chiếc mũ trắng có hoa, giống hệt trang phục bà Laura hiện giờ. Một điều rất
kỳ lạ, là cặp đôi này bước đi giữa hai hàng lính. Đối mặt với nhau, quân phục
chỉnh tề, đứng nghiêm thẳng tắp, trên tay mỗi người lính đều cầm một thanh kiếm
dài sáng choang. Hai hàng quân cùng đưa cao kiếm lên khỏi đầu, bên này đâu chéo
kiếm lại với bên kia tạo thành một mái che cho cô dâu chú rể bước đi bên dưới.
- Ô! Đây là đám cưới của bà ngày xưa hả? Tôi hỏi. Cô dâu chú rể trông oai quá!
- Ừ, đám cưới của tôi đấy. Cô nhìn kỹ tấm hình đi, xem có thấy gì lạ không?
Tôi quan sát thật kỹ tấm hình, nhưng không thấy gì ngoài cặp tân lang tân giai
nhân đang đi dưới "rừng gươm" giữa hai hàng lính và một cây kiếm ai bỏ
nằm dưới đất sau lưng họ.
Tôi nói cho bà biết.
- Đúng rồi! Cô đã thấy nó! Bà Laura gật đầu nói tiếp: Đó là cây kiếm của một
trong những người lính của Steve chồng tôi. Anh ta là lính mới, và không biết
vì run hay vì lạnh mà khi chúng tôi vừa bước qua khỏi anh ta là thanh kiếm vụt
rời khỏi tay anh ta bay cái vèo xuống đất. Sém chút nữa là chúng tôi đã bị chém
trúng rồi!
- Trời! Tôi kêu lên, người nổi đầy gai ốc. Thật là một điềm rất xấu cho đám cưới.
Bà Laura kể, có lẽ vì điềm xấu đó đã báo hiệu trong ngày cưới, mà chưa đầy hai
năm sau, khi bà vừa có thai đứa con thứ nhì, thì chồng bà bị mất tích ở Đại Hàn.
-Anh lính đó đã ân hận và khóc đến mù mắt khi Steve bị mất tích, vì cho là lỗi
tại anh ta mang điềm xui tới cho chúng tôi trong ngày cưới. Bà thẫn thờ nói.
- Đó có phải là thời kỳ chiến tranh Nam Bắc Triều Tiên? Tôi hỏi.
- Đúng rồi! Steve mất tích trong trận Hồ Nước Chosin (Battle of Chosin
Reservoir) ở Triều Tiên, tháng Mười Hai năm 1950. Anh ấy thuộc Sư đoàn 7 Bộ
Binh Hoa Kỳ. Là cấp chỉ huy, khi trung đội anh bị vây hãm nhiều ngày và có
lệnh rút lui, Steve đã cho binh sĩ rút trước. Anh tình nguyện một mình ở lại
ngăn chặn địch quân.
- Vậy sao? Trận Hồ Nước Chosin?
Gì chứ trận Hồ Nước Chosin nổi tiếng trong chiến tranh Triều Tiên thì cả thế giới
đều biết. Nhiều tài liệu cho thấy khi ấy Bắc Hàn đã thua đậm các lực lượng của
Nam Hàn và Liên Hiệp Quốc đuổi đến tận vùng biên giới Đông Bắc của Bắc Hàn,
nhưng nhờ đại quân Trung Quốc tràn sang trợ giúp nên mới cầm cự được. Đầu tháng
12, 1950, trong trận Hồ Nước Chosin -the Changjin Lake Campaigne- 30,000 quân
Nam Hàn và quân Liên Hiệp Quốc, trong đó có Sư đoàn 7 Bộ Binh và Thủy Quân Lục
Chiến Hoa Ky, đã bị 67,000 quân Trung Quốc vây hãm nặng nề. Sau 17 ngày chiến
trận với số thương vong lớn cho cả hai phía, quân Mỹ vẫn phá được vòng vây để
rút lui. Đây là trận đánh đưa tới kết cục là quân Liên Hiệp Quốc cho thoả hiệp
ngưng chiến, và Hàn Quốc bị chia đôi.
Bà Laura bắt đầu kể về trận đánh cuối cùng của ông chồng,
trong khi tôi ngồi im, mắt nhìn chăm chăm vào hình Steve vị chỉ huy anh hùng với
lòng ngưỡng mộ. Người ta nói lại với bà Laura, khi Steve ra lệnh cho quân sĩ của
anh chạy đi, không ai chịu bỏ đi vì họ rất thương quý cấp chỉ huy của họ. Mọi
người đều nói anh không đi thì họ cũng liều chết ở lại chiến đấu đến cùng.
Nhưng Steve buộc tất cả phải rút, và nói cùng lắm anh sẽ tình nguyện chịu bị bắt
rồi sau trao đổi tù binh chứ anh không để mất mạng đâu. Nghe vậy mọi người mới
rút đi.
Bà Laura dừng lại, vói tay cầm lấy chiếc hộp màu đen bên trên lá cờ, vừa mở hộp
ra vừa nói tiếp với giọng trầm khác thường:
- Sau khi quân đội bình định, họ trở lại chỗ bụi cây, nơi Steve đã nằm bắn chận
cho quân sĩ rút, thì không tìm thấy anh đâu cả. Họ lục lạo cùng khắp nhưng chỉ
tìm được cái này. Bà đưa chiếc hộp cho tôi.
Tôi đón lấy chiếc hộp đen mở nắp nhìn vào. Và bỗng lặng người
há hốc. Tôi nín thở, muốn kêu “Trời ơi!” Nhưng không phát ra lời.
Trong hộp là một con dao xếp vỏ màu đỏ đậm, lóng lánh kim
tuyến vàng, trên có khắc tên "Laura" màu trắng. Lưỡi dao trên đầu đã
được mở ra, cây dũa răng cưa cũng mở ra bên phải, và một cái đinh xoắn mở ra
bên trái. Nó giống hệt con dao xếp tôi đã vẽ trên móng tay bà Laura năm này. Thảo
nào bà đã xúc động khi tôi vẽ xong con dao và nẩy ra ý định mời tôi đến nhà để
cho tôi xem con dao thật. Tôi cầm con dao lên ngắm nghía với tâm trạng bồi hồi,
xúc động, lẫn ngưỡng mộ.
Quả là một sự trùng hợp ngẫu nhiên đầy thú vị và cảm động.
Tôi chỉ vẽ theo mẫu hình con dao xếp tôi tìm thấy trên Google. Không ngờ nó lại
giống y chang con dao mà mấy chục năm về trước vị sĩ quan kiêu dũng của dân tộc
Hoa Kỳ đã bỏ lại cho vợ anh. Steve người chỉ huy ấy đã can đảm hy sinh để cứu
binh sĩ của mình. Vợ anh Laura mất đi người chồng, con anh mất cha, nhưng anh
đã được tổ quốc ghi công lưu danh thiên sử.
- Đây là con dao tôi tặng Steve trong lần cuối cùng chúng tôi ở với nhau. Bà
Laura chợt lên tiếng sau một lúc yên lặng. -Anh ấy đã lén bỏ nó lại như là lời
nhắn nhủ trước khi bị bắt đi. Người ta đem nó đến cho tôi lúc báo tin anh mất
tích. Con dao bảo tôi là anh ấy còn sống.
- Từ đó đến giờ bà có nghe tin tức gì của ông ấy không? Tôi hỏi khi đã qua cơn
xúc động.
- Không. Tôi luôn luôn hy vọng và chờ đợi. Nhưng mà…Bà dừng lại, chỉ vào lá cờ
gấp để trên bàn: – Trước lễ Memorial Day năm nay, tổng thống Goerge W. Bush đã
duyệt lại danh sách những quân nhân mất tích trong cuộc chiến Triều Tiên. Và
ông ấy sai người đem đến lá cờ Mỹ này trao cho tôi cùng với lời tuyên bố là
Steve đã chết. Tổng thống Bush cũng mời tôi đi Washington một chuyến để dự buổi
lễ tuyên dương. Bà dừng lại một lát rồi nói giọng quả quyết: – Nhưng tôi vẫn
không tin Steve đã chết!
- Điều gì làm cho bà nghĩ vậy? Tôi hỏi.
- Bỡi vì chính phủ cũng chưa có thông tin gì về cái chết của Steve. Khi tôi hỏi
nếu anh ấy đã chết thì bằng chứng đâu, hài cốt đâu, họ không có được câu trả lời.
Tôi biết là vì thời gian quá lâu nên họ đoán vậy thôi. Hiện tại còn nhiều nghìn
quân nhân Mỹ, MIA (Mising In Action) mất tích trong cuộc chiến Triều Tiên chưa
có tin tức, nên tôi vẫn còn hy vọng.
Tôi đứng lên, bước lại ôm lấy vai người vợ lính tám mươi bốn tuổi, xúc động đến
nghẹn lời. Sự thủy chung của người phụ nữ phương Tây đã quá bát tuần này cũng
đâu thua kém người thiếu phụ trong "Hòn Vọng Phu" của Việt Nam tôi
ngày trước.
- Laura, bà nói rất đúng! Tôi cũng nghĩ như thế! Tôi thì thầm bên tai bà. -Cho
nên bà cần phải giữ niềm hy vọng ấy.
Người vợ của vị sĩ quan anh hùng đưa tay lên vỗ vỗ vào bàn
tay tôi như muốn nói lời cám ơn. Dưới ánh sáng của chùm đèn hoa thủy tinh kiểu
cách treo trên trần nhà tỏa xuống bàn ăn, những con dao xếp trên bộ móng tay bà
Laura lấp lánh lung linh như những đôi cánh Thiên Thần, đang dang ra che chở
cho niềm tin và hy vọng của bà.
Tôi đứng im bên bà một lúc. Trong cái tĩnh lặng của buổi trưa ngày đầu năm, tiếng
củi cháy tí tách từ lò sưởi vọng sang cộng với tiếng gõ tích tắc của chiếc đồng
hồ cổ trên tường, bình yên như một khúc hòa tấu êm đềm, sao tôi lại cảm thấy
lòng mình sóng dậy..
Lát sau bà Laura mời tôi cùng bà dùng bữa. Bà nói năm nào
vào ngày Tết Tây bà và các con cháu cũng đều làm tiệc kỷ niệm ngày cưới của bà
rất linh đình thay cho tiệc Tết. Bữa trưa nho nhỏ này bà chuẩn bị chỉ để đãi
tôi, tiệc dinner vào tối nay mới là tiệc chính. Sau đó thì cả nhà sẽ đi chơi
xa.
Khi tôi từ giã, Laura tiễn tôi ra xe. Trời đã quá trưa nhưng vẫn hiu hiu lạnh.
Chúng tôi sóng bước trong hương gió đầu năm. Hương gió thoang thoảng nhẹ nhàng,
quyện cùng mùi gỗ đốt từ lò sưởi trong nhà đưa vào không khí một mùi hương đặc
thù mùa lạnh
- Lái xe cẩn thận! Bà nói và vẩy tay chào khi tôi ngồi vào xe.
Tôi hạ kính xuống vẫy lại bà. Xe ra khỏi cổng tôi vẫn còn thấy
bà Laura đứng nhìn theo. Vạt áo đầm trắng của cô dâu năm xưa, sau cả nửa thế kỷ,
vẫn bay bay trong cơn gió đầu năm. Hình ảnh bà Laura vẫn liêu xiêu, bà trông thật
cô độc bên ngôi nhà to lớn và khu vườn rậm rạp thênh thang. Nhưng tôi biết, bà
không cảm thấy cô độc tí nào. Bà đang sống với một niềm hy vọng vô biên. Niềm
hy vọng có ngày được biết tin về Steve, chủ nhân của con dao xếp đỏ gửi lại
trên chiến trường trận Chosin, Korea.
Chúc bà may mắn. Tôi nói thầm và nhấn ga.
Tết Dương Lịch 2015
Phương
Hoa