Tôi bán hàng giải khát trước cổng nhà máy, khách hàng là những
công nhân, bộ đội và cán bộ trong nhà máy. Tôi là “mụ” bán hàng “phản động”
luôn tơ tưởng đến chuyện vượt biên. “tri kỷ” của tôi có chị Ky buôn bán ở xa cảng
miền Tây, nghề mới của chị sau cuộc đổi đời 1975, trước kia chị là nhân viên một
ngân hàng quận Gò Vấp. Chị Ky là hàng xóm, hôm nào ghé quán tôi không chỉ
để uống ly đá chanh, uống ly cà phê mà cũng là dịp cùng tôi tâm tình than
thở cuộc sống dưới thời xã hội chủ nghĩa, mơ ước chuyện vượt biên.
Một hôm chị Ky ghé vào quán vui mừng báo tin con gái chị đi cùng với em gái chị ở Xóm Mới vượt biên đường bộ từ Campuchia sang Thái Lan êm ru trót lọt chỉ trong vòng 3 tuần lễ, dân Xóm Mới tin tưởng đường dây tổ chức vượt biên này lắm, nhà nọ đi được giới thiệu nhà kia, tất cả ba bốn chuyến đều thành công.
Người tổ chức là “Anh Minh bộ đội ”. Anh
Minh người miền Bắc, là bộ đội từng đóng quân ở Campuchia nên anh Minh rất rành
đường đi nước bước và quen biết nhiều, những chuyến xe chở khách vượt biên anh
Minh đều “mua” bến bãi cả, thậm chí nếu bị lính Miên bắt anh Minh vẫn có thể
“chạy” ra. Cuối cùng chỉ cần vượt qua một eo biển nhỏ là sang đất Thái.
Nghe chuyện vượt biên là tôi mê liền, lại là
đường bộ tôi càng mê vì tôi tin là an toàn hơn đường biển, nhưng tôi hơi khựng
lại, vụ này vẫn phải đi qua biển. Chị Ky thản nhiên:
– Chỉ một khúc biển nhỏ thôi, thuyền anh
Minh chở người sang đó và quay thuyền về ngay như đi chợ ấy mà.
Nghe thế tôi hào hứng muốn cho Thoa đứa
em gái áp út đi dù cha và các em tôi đang có giấy tờ bảo lãnh đi Mỹ. Tôi sốt ruột,
đợi chờ bảo lãnh lâu quá, phí phạm thời gian tuổi trẻ của Thoa, mà đi vượt biên
dễ dàng như thế này, không phải trả trước đồng nào tội gì không thử, nếu chuyến
đi không thành công thì Thoa về nhà lại chờ đợi bảo lãnh, chẳng sứt mẻ gì. Tối
về tôi bàn với bố và các em, tôi nói đường dây tổ chức rất tốt, nhất là đường bộ
không có mưa bão sóng gió hiểm nguy, không lo hải tặc cướp bóc. Bố tôi nói nếu
Thoa đồng ý đi thì bố cũng tán thành, Thoa nghe tôi ca tụng chuyện vượt biên
ngon lành nó đồng ý liền, cứ làm như sắp được “du lịch” Campuchia.
Thế là tôi nhờ chị Ky giới thiệu “Anh Minh bộ đội”.
Anh Minh đến quán như một người khách vào uống
nước nhưng chúng tôi đã trao đổi chuyện trò. Giá cả là 3 cây vàng, đúng như chị
Ky nói không phải trả trước xu nào, khi tôi nhận được tin nhắn của người
thân đã bước chân sang đất Thái Lan thì mới chung tiền. Tôi kỳ kèo trả giá mỏi
miệng từ 3 cây vàng xuống…1 cây vàng rồi nhúc nhích lên từ từ tới 2 cây rưỡi.
Anh Minh sốt cả ruột:
– Tổ chức một chuyến vượt biên là
bao công phu, bao tốn kém mà chị mặc cả như mua con cá bó rau ngoài chợ.
– Tại tôi quen trả giá khi đi chợ rồi, đi
vượt biên cũng có quyền trả giá chứ anh.
Cuối cùng anh Minh chịu bớt 5 chỉ vàng. Tôi hân hoan nghĩ thầm
“Anh Minh chắc giá thế, là tiền nào của nấy” chuyến vượt biên sẽ an toàn cao.
Thoa đã sửa soạn vài thứ đồ dùng tối cần thiết cho chuyến đi
vượt biên . Tôi đưa cho Thoa một chỉ vàng mà tôi đã thuê anh thợ bạc ở Xóm Mới
cán mỏng ra làm mấy miếng và vài cục gum để mang theo, khi nào bắt đầu vào cuộc
hành trình có vẻ gian nan thì nhai gum ra và dán dính những miếng vàng này vào
trong mái tóc để tránh bị rơi rớt và tránh cả kẻ cướp. Nghĩ tới phải qua một
khúc đường biển mới sang đến đất Thái tôi liền tức tốc đi mua một cái phao nhỏ
và dặn Thoa, tôi nói chung chung, kiêng cử không dám nói đến cảnh nguy biến nước
tràn vào thuyền vì sợ bị xui xẻo:
– Khi nào… cần thiết thì thổi phao lên
mà…xài. Nếu Thoa không đủ sức thổi cái phao thì nhờ mấy đàn ông chung chuyến thổi
giùm.
Nhưng Thoa nghĩ sao nói vậy:
– Chị ơi giây phút đắm tàu thì ai rảnh mà
thổi phao giùm mình? Có khi họ cướp cả phao của em luôn, có khi chưa kịp thổi
phao thì nước đã cuốn phăng cả người và phao ra biển rồi.
– Ấy chết em đừng nói những điều ghê gớm ấy,
thuyền chỉ đi qua một eo biển nhỏ …êm đềm thôi mà.
Tôi nào biết eo biển nhỏ ấy ra sao, chỉ
nói đại cho xong, tuy trấn an Thoa thế mà lòng tôi càng thêm lo, tôi bắt Thoa
thực tập thổi cái phao, nó phồng mang phồng má lên thổi mãi cũng xong.
Gia đình chúng tôi có 2 căn nhà, một căn trong
xóm để ở và một căn ngoài mặt đường là nơi kinh doanh quán cà phê giải khát bấy
lâu nay. Sau biến cố buồn riêng mẹ mất và biến cố buồn chung tháng Tư
1975, cha con, chị em chúng tôi ở chung nhau, đùm bọc lẫn nhau.
Tuy hai chị em nôn nóng chuyến vượt biên nhưng
hôm chồng tôi từ nhà trong chở Thoa ra điểm hẹn ở bến xe Bà Hạt để khởi hành
sang Campuchia tôi không dám ở nhà vì tôi biết giây phút tiễn đưa này tôi sẽ
không chịu nổi, vội vàng đội chiếc nón lá ra quán giải khát dù hôm nay tôi chẳng
còn lòng dạ nào mà bán hàng, vừa đi tôi vừa khóc, nhờ đội nón lá nên hàng xóm
không ai biết tôi đang khóc. Ở nhà trong Thoa cũng khóc và chào tạm biệt mọi
người, thằng Bi con tôi nằm cuộn chăn trong giường khóc nức nở, Dì cháu cách
nhau 9 tuổi, dì là người từng bồng bế cháu khi nó còn bé nên hai dì cháu
thân nhau lắm. Cuộc chia tay đầy nước mắt liệu có là điềm… xui xẻo gì
không?
Tôi ngồi thẫn thờ ngoài quán nước mà tưởng
tượng suy đoán ra từng giai đoạn một: Giờ này Thoa đang ngồi trên chuyến xe đò
Bà Hạt. Giờ này xe đò đang chạy đến Mộc Hóa Long An. Giờ này Thoa sang tới
đất Campuchia. Giờ này Thoa …đang ở đâu?
Chiều tối tôi dọn hàng về nhà trong xóm, thấy
đôi dép Thoa còn để trước cửa tôi lại khóc òa, đôi dép đây mà Thoa thì đi xa.
Ôi, giá mà Thoa vượt biên hụt trở về nhà ngay lúc này chắc tôi sẽ mừng vui hơn
là thất vọng nữa đấy.
Đã hai lần tiễn hai thằng em đi vượt biển,
đứa đến Thái Lan đứa đến Mã Lai, nghe kể lại những ngày hãi hùng lênh đênh trên
biển gia đình tôi sợ biển quá rồi, nay Thoa đi vượt biên bằng đường bộ thì đỡ
lo hơn. Người đi cảm giác lo lắng hồi hộp bao nhiêu thì người ở nhà cũng bấy
nhiêu. Xóm tôi có mấy vụ vượt biển thất bại đau thương, những chuyến tàu bặt vô
âm tín, bác hàng xóm một lúc mất mấy đứa con, bác gầy sộc hẳn đi, buồn thảm, phờ
phạc thất thần trông bác như một bà điên.
Ngày từng ngày trôi qua, tôi ăn không ngon ngủ không yên.
Tôi chờ tin anh Minh, chờ bóng hình anh cứ như là chờ người yêu. Sau ba tuần
thì anh Minh bộ đội đến quán nước gặp tôi, anh đến là có hi vọng có tin vui rồi.
Tôi luống cuống pha vội cho anh ly cà phê đá mang ra bàn, anh đưa tôi một mẩu
giấy nhàu nhòe Thoa viết vài chữ như sau: “Chị Thanh ơi, em vẫn bình yên”.
Trước khi Thoa đi chị em tôi đã có 3 mật
hiệu để báo tin về nhà:
Mật hiệu ” Ba ơi, con vẫn bình yên” là an
toàn 100% nhà cứ việc trả vàng cho anh Minh.
Mật hiệu ”Chị Thanh ơi, em vẫn bình yên”
là 50/50. Tùy ..
Mật hiệu “Anh Thu ơi, em vẫn bình yên” là
xấu nhất, bị lừa hay chưa đến Thái Lan. Không trả.
Tôi nghi ngại hỏi anh Minh:
– Nghĩa là hiện nay em tôi cũng như khách
trên chuyến vượt biên đang ở trên đất Thái Lan?
– Phải. Chúng tôi đã làm xong nhiệm vụ giao
ước. Bây giờ xin chị trả chi phí 2 cây rưỡi vàng.
Tôi trì hoãn:
– Hẹn anh ba ngày nữa tới đây. Tôi cần
bàn với gia đình.
Buổi tối về nhà trong, gia đình tôi cùng
quây quần bàn bạc, nửa vui nửa lo cái ám hiệu “ba phải” 50/50 kia. Có nghĩa là
gì? Không hoàn hảo nhưng cũng không quá xấu? Nếu không giao vàng cho người ta
thì mình thành thất hứa. Nếu giao vàng mà Thoa chưa đến nơi thì coi như mất toi
món tiền lớn.
Bố tôi quyết định bảo tôi:
– Làm người phải có chữ tín. Con cứ giao
vàng cho anh Minh. Mật hiệu lửng lơ thế cũng tạm coi như an toàn rồi. Chứ chờ
Thoa đến Thái ổn định viết thư về thì lâu lắm.
Ba ngày sau anh Minh đến quán, tôi trao đủ
2 cây rưỡi vàng cho anh, mặt anh tươi rói nhưng vẫn than thở:
– Không phải ai cũng tử tế sòng phẳng như
chị, nhiều người còn đang hẹn chày hẹn cối khi nào con em họ tới Thái Lan gởi
thư về có đóng dấu bưu điện Thái Lan họ mới chồng vàng cho tôi.
Anh Minh ra về, anh khen tôi tử tế trả tiền
sòng phẳng mà chẳng bớt thêm cho tôi đồng nào trong khi mấy người kia đang lấy
cớ quỵt tiền công anh.
Gần 2 tháng sau thì tôi nhận được thư Thoa gởi từ trại
Panatnikhom Thái Lan, có đóng dấu bưu điện Thái Lan đàng hoàng, tôi tự hỏi
không biết giờ này anh Minh có đòi thêm được người nào không? Hay họ lại hẹn
chày hẹn cối tiếp khi nào con em họ qua tới Mỹ gởi thư về có đóng dấu bưu điện
Mỹ mới chịu trả tiền?
Thoa đã ổn định trong trại tị nạn do cao ủy
phụ trách, gia đình tôi yên tâm. Lần lượt Thoa viết thư về kể mới biết cuộc vượt
biên đường bộ cũng đầy hiểm nguy, mỗi một bước chân đi là một bất trắc đang đón
chờ, anh Minh chẳng ba đầu sáu tay, anh Minh chẳng là thần thánh phù phép lo hết
được khi qua những trạm lính Miên, khi băng rừng xuyên đêm và chỉ một khúc đường
biển mà thật khủng khiếp. Từ thành phố cảng Kompong Som, là thành phố cảng đẹp
nhất của Campuchia nhưng thuyền chở khách vượt biên của anh Minh phải tìm một
“hóc bà tó” nào đó của biển bên này mà lén lút vượt qua để sang bên kia vùng biển
Tha Luông tỉnh Chad của Thái Lan, nào thuyền có “hiên ngang” cặp bến biển
Tha Luông như ước mong, họ chở khách ra giữa dòng, đậu lại lửng lơ con thuyền
không bến. Nơi đây họ yêu cầu mọi người viết tin nhắn về cho gia đình rồi đợi
chiều tối mới đi tiếp. Mọi người trên thuyền như cá nằm trên thớt họ bảo gì
nghe nấy dù chỉ…sắp sửa đặt chân lên đất Thái. Đó là lý do Thoa viết mật mã “nửa
nạc nửa mỡ.”
Họ đổ khách vào một hòn đảo đá ong lúc 7
giờ chiều. Họ chỉ chỏ bờ Thái bên kia rồi vội vàng quay thuyền trở về đất liền
Campuchia. Mọi người nhìn xa mờ thấy một giải đất dài nên cũng tạm yên tâm, tưởng
có thể lội bộ tới, nào ngờ chưa biết tính sẽ lội bộ thế nào thì nước thủy triều
bắt đầu dâng lên trong vòng một tiếng đồng hồ nước từ từ ngập phủ đảo, lên tới
chân, tời đầu gối, tới đùi mọi người, cứ cái đà nước dâng thế này thì cả bọn sẽ
bị nhấn chìm trong nước biển. Mọi người kêu la khóc lóc cầu nguyện.
Chẳng lẽ cả đám chịu trận chờ chết thảm
cùng nhau, anh Phương một người biết bơi tình nguyện nhảy xuống biển để bơi
sang bờ Thái hầu tìm người đến cứu, nhưng anh ta vừa thò chân xuống nước đã
kinh hãi vì nước quá sâu, nếu không đủ sức bơi sang bờ kia thì sẽ chết chìm như
chơi. Lúc này Thoa nhớ tới cái phao cá nhân của mình liền đưa ra nhờ cánh đàn
ông khỏe thổi phao cho căng phồng, đưa phao cho anh Phương Thế là anh
Phương chòang cái phao vào nách yên tâm nhảy xuống biển bơi đi thật nhanh, khi
anh sang tới bờ bên kia hình bóng anh xa tít mù khơi, thì ra nhìn tưởng gần
nhưng đi rất xa. Nếu không có cái phao thì anh Phương không đủ sức bơi và chết
chìm trước khi thấy bến bờ Thái.
Anh Phương đã đi tìm gặp dân ở gần đó nhờ
họ mang thuyền ra cứu mọi người trên đảo đá ong. Họ chẳng tử tế cứu giùm,
mà phải trả công bằng vàng, trong giây phút tử sinh ai dấu vàng ở đâu cũng moi
ra trả chủ thuyền để mà sống sót, một vài người thật sự không có vàng thì mượn
hay đi ké theo người có vàng cũng xong.
Những lá thư, những điều Thoa kể làm tôi
kinh hãi và hối hận vô cùng, chính tôi đã có ý tưởng cho Thoa đi vượt biên,
chính tôi đã nghe chị Ky kể chuyện vượt biên đường bộ mà mê tơi lên, cứ tưởng
anh Minh tài ba, chở người vượt biên nhởn nhơ trên các nẻo đường Campuchia và
bước chân sang Thái Lan như khách lãng du. Nếu Thoa có mệnh hệ nào thì tội của
tôi to như cái đình và chắc tôi sẽ khổ đau điên dại giống như bác hàng xóm kia.
Sau vài ngày, sau vài thủ tục khai báo tại
trại nhỏ, cả đám được chuyển đến trại tị nạn lớn. Tại đây Thoa mới biết thời
gian này trở đi sẽ có cuộc thanh lọc ai đủ tiêu chuẩn đậu thanb lọc mới có cơ hội
đi định cư nước thứ ba.
Người mới đến hỏi han người đến trước,
truyền tai nhau những kinh nghiệm, tô vẽ cho mình một lý lịch gay go, một cảnh
đời bầm dập để khai với cao ủy tị nạn. Còn Thoa chẳng tìm ra cớ gì đành khai
thành thật vì chán chế độ cộng sản muốn tìm cơ hội tiến thân nơi đất nước tự do
dân chủ hi vọng họ sẽ cảm thông cho đậu thanh lọc.
Cuối cùng sau gần 3 năm qua bao trắc trở
Thoa may mắn đậu thanh lọc và chờ đợi hơn một năm sau mới được đi định cư nước
thứ ba như một phép màu vì có nhiều người với lý lịch rõ ràng là lính Việt Nam
Cộng Hòa, là dân “phản động” từng bị chính quyền cộng sản Việt Nam bắt đi tù, từng
bị trả thù còn bị rớt thanh lọc chờ ngày hồi hương.
Sự may mắn của Thoa nhờ công của người
này người kia, họ chỉ dẫn, họ giúp đỡ, họ cảm thương và biết đâu nhờ chút tử tế,
chút điều lành của gia đình tôi trong đó. Gia đình tôi đã giữ chữ tín, chồng
vàng đầy đủ cho anh Minh như đã giao ước và nhờ cái phao của tôi bắt Thoa mang
theo, cái phao đã cứu sống mấy chục mạng người trên hòn đảo đá ong khi nước thủy
triều dâng cao, họ không chết chìm cũng chết khát chết đói vì chẳng ai biết mà
đến đây cứu họ.
Nhưng trên hết là nhờ trời Phật, thương đế đã ban cho gia
đình tôi ơn phước này.
Thế là gia đình tôi đã tham gia vượt biên
đủ cả đường biển và đường bộ, ngoài ra còn đi chính thức bằng đường bay.
Sau khi Thoa đi định cư, vài năm sau đó gia đình chúng tôi cũng lần lượt sang Mỹ
định cư theo diện HO và ODP đoàn tụ gia đình.
Chị Ky “tri kỷ” hàng xóm của tôi được con
gái bảo lãnh sang Mỹ đoàn tụ. Chúng tôi lại là tri kỷ của nhau trên đất Mỹ,
cùng vui hưởng cuộc sống văn minh tự do với bao điều mà ngày xưa còn ở Việt Nam
chúng tôi đã từng khao khát chờ mong.
Nguyễn Thị Thanh Dương