Nhà tôi có bốn chị em gái. Hai người chị của tôi: chị Thanh
Tâm và chị Cẩm Thành hoa tay nữ công đầy mười ngón. Tôi và nhỏ em Ngọc Hiền
thêu thùa may vá cũng thuộc hạng nhứt, nếu tính từ dưới lên. Qua đường kim mũi
chỉ khéo léo của hai chị, chúng tôi đã có được những tác phẩm nghệ thuật vừa đẹp,
vừa thắm tình yêu thương.
Sau khi học (lóm) may áo cổ cánh sen, chị Cẩm Thành trổ tài cho tụi tôi. Nhưng lúc chị ráp cổ áo, hai phần không đều nhau. Có lẽ do “sư phụ” chỉ dạy chưa thấu đáo. Bởi vậy, mặc áo này, tụi tôi phải lận hai cánh sen vào phía trong, giấu đi. Bác hàng xóm, tình cờ đứng gần Ngọc Hiền, thấy là lạ, âu yếm móc cổ áo, lật ra ngoài, dặn dò:
– Con gái ăn mặc, nhớ để ý nghe con. Cổ
áo là phải lận bẻ ra ngoài.
Ngọc Hiền dạ dạ, nhưng sau đó, len lén cất
kỹ hai cánh sen.
Chị Thanh Tâm khăn gói học may nhà chị bạn.
Về nhà, chị thực tập may cho hai đứa em gái nhỏ, hai cái áo đầm có “li” to, màu
xanh nhạt, vải popeline. Áo đầm dài quá gối. Vải dày, hơi cứng. Chắc
là khi tụi tôi chạy nhảy, áo kêu sột soạt như áo bà vú của Scarlett O'Hara
trong phim Cuốn Theo Chiều Gió. Chị Thanh Tâm thuở đó rất tân tiến.
Chị sưu tầm những cuốn catalogue Sears, chọn mẫu
áo đẹp, tìm vải thích hợp. Chị dẫn tôi và Ngọc Hiền đi may áo ở nhà may Lyly.
Thế là hai chúng tôi được xúng xính trong những chiếc áo đầm tân kỳ, kiểu cọ.
Hai đứa em trai út lúc mới vài tháng tuổi, cũng được diện áo chị Thanh Tâm may.
Chị tỉ mỉ thêu rua hình mắt cáo ở trên ngực áo. Nhìn mấy cái áo xinh xắn cho
hai thằng nhóc, tụi tôi mê mẩn. Nhưng chị Thanh Tâm bận học, không may vá nhiều
được. Khi vải tê-tô-rôn thịnh hành với các mẫu hình trái cây, Mạ cho tụi tôi
theo kịp thời trang. Tôi được một bộ đồ hình trái lê màu xanh, nhỏ em được hình
trái táo màu đỏ.
Ở miền trung, vào mùa mưa, áo mưa gần như
là vật bất ly thân. Thuở ấy, loại áo mưa phổ biến là áo ny lông có nón liền,
màu xanh nhạt, màu hồng, màu vàng với những đường chỉ vân ngang dọc mờ mờ. Thời
trang hơn là các áo mưa nylon trong suốt, điểm những chấm tròn
to, hoặc điểm hình vài trái táo đỏ, các hoa hippie, hàng nóng hổi từ
Sài Gòn về. Các loại áo mưa phổ thông hay thời trang đều có “tật” là nách áo dễ
bị rách. Lắm khi, áo nhìn còn mới, mà nách áo đã trổ cửa sổ, thì không chỉ mưa
rơi ướt phố phường, mưa trôi lá trong vườn, mà có mặc áo mưa, cũng vẫn mưa
rơi trên vai chàng, mưa rơi ướt vai nàng. Bởi thế, Ba tôi nghiên cứu đâu
đó, rồi nhờ người “thiết kế”, may áo mưa loại không có tay, giống như áo poncho của
quân đội. Chỉ khác là áo gọn hơn và may bằng loại nylon màu
sáng. Thời đó, tôi mới vào trung học, thuộc tuổi nhi đồng và rất ngoan. Nhưng
tôi không mấy hoan hỉ với thời trang áo poncho. Chiếc áo mưa cải
biên đúng là một kiệt tác của Ba chúng tôi. Chiếc áo ôm quanh người, cổ áo được
luồn sợi dây thun kéo sát vào vành cổ. Áo không có mũ. Do đó, khi nhận áo, được
tặng… kèm một cái nón. Thật tiện dụng, không khác mái hiên nhà. Nhìn tổng quát,
người ta tưởng như thấy một… cây nấm khổng lồ biết đi. Anh chị của tôi, mặc dầu
đã bước vào tuổi dậy thì, vẫn có tên trong danh sách đơn đặt hàng áo mưa poncho.
Vì thế, ngày ấy, mấy anh chị rất sợ trời mưa. Sau đó, chúng tôi cầu cứu Mạ nhiều
lần, xin Mạ mua những cái áo mưa “bình dân”, để mấy chị em cùng chúng bạn lội
mưa một cách “bình thường”. Có thể áo quần ướt nhẹp vì áo mưa bị bung các đường
nối. Nhưng tụi tôi cảm thấy thoải mái vì giống các bạn, chứ không nổi bật với
áo poncho “cải biên”.
Mỗi lần Mạ vô Sài Gòn đặt hàng hóa cho
nhà sách, bầy con háo hức ngóng Mạ về. Có lần, Mạ làm quà cho tôi và nhỏ em những
quần “xì-líp”, màu hồng, màu vàng, bằng vải va-li-de, có ren ẻo lả.
Đối với tụi tôi, đây là một “bước nhảy” thiệt cao trong trang phục áo đầm. Vì
trước đó, hai chị em tôi chuyên trị quần banh- xô-lây (pantalon
de soleil). Quần banh-xô-lây thường may bằng vải tê-tô-rôn có
hoa li ti, giống quần đùi, hai ống quần có sợi thun luồn ngang. Thật ra, thời
đó đám học trò trường nữ tiểu học khi ra sân tập thể dục, xài toàn quần phồng
màu xanh đậm cùng với áo trắng ngắn tay. Bởi vậy, đối với dân tỉnh lỵ, cái quần
phồng đọc theo tiếng Tây là banh- xô-lây chẳng có gì lạ lẫm.
Đang từ quần phồng cổ điển, được chuyển qua “xì-líp” hiện đại, hai chị em tôi
lâng lâng, tưởng như nhân gian chung quanh trầm trồ, chiêm ngưỡng. Lần nọ, nhỏ
em diện áo đầm trắng vải ca-tê mỏng, trong lại mặc “xì-líp” hình bông hoa xanh
đỏ. Cho nên, “nội y” lồ lộ, bị mấy chị chọc ghẹo quá trời.
Năm tôi học lớp tám, Mạ mua cho tôi và em
tôi hai cái áo đầm, loại bằng xoa-tẹc-gan, dưới là những nếp xếp,
phía trên có nẹp ở giữa, thêu một hàng hoa dọc. Chiếc áo đầm Mạ đặt mua trong sạp
của một bà bán hàng người Bắc di cư. Bà là một trong những bà chủ sạp nổi tiếng
dữ dằn ở chợ thị xã Quảng Ngãi. Do đó, áo tuy hơi rộng, hơi dài hơn khổ người của
tôi lúc đó, nhưng không tiện đem ra đổi áo khác. Cho nên, tôi đành phải diện áo
đầm này đi học. Lên lớp chín, tôi được mặc áo dài, áo đầm trắng để mặc ở nhà.
Áo đầm này theo tôi cho đến lúc tôi là sinh viên năm thứ ba ở Đại Học Sư Phạm.
Áo dài đầu tiên Mạ cho tôi mặc là áo vải tê-tô-rôn sọc.
Hồi đó, các chị tôi mặc những áo lụa hoa hồng, có mẫu hình bông hoa hoặc cành
trúc dệt chìm, trông rất thướt tha, yểu điệu. Mặc áo dài ở trung học thì phải
có áo lót. Mạ sắm cho tụi tôi những cái áo lót có tay cụt, khác với áo lót
đương thời chỉ có hai sợi bún (spaghetti strap). Cho nên tôi và nhỏ em
lén Mạ “điều chỉnh” lại một chút cho áo bớt “cổ điển”. Chúng tôi lấy kéo cắt
hai cánh tay, rồi khoét cho nách rộng ra. Chỉ vậy thôi, chứ chưa dám cắt thành
hai sợi bún. Chúng tôi không biết dùng máy may, mà khâu tay cũng không khéo.
Nhìn kỹ, áo lót lua tua, lủa tủa trông rất bụi đời.
Em tôi có óc sáng tạo để đời. Em rất lọng
cọng trong việc thêu thùa may vá. Mỗi khi áo quần gặp vấn đề, thay cho đường
kim mũi chỉ, nhỏ em dùng những miếng băng keo cắt nhỏ dán nham nhở ở mặt trong
của áo hay gấu quần. Thật tiếc, thuở ấy, nhỏ em không xin cầu chứng bằng sáng
chế. Ngày nay, một trong những bước tiến trong kỹ nghệ may mặc là dùng keo dán
thay cho kim chỉ lên gấu quần, gấu áo...
Gần nhà chúng tôi có chị thợ may dưới quê
mới lên thị xã lập nghiệp. Mạ ủng hộ, kêu chị may mấy bộ đồ cho mấy đứa con
gái. Chị ấy may những áo tròng cổ, vải ca-rô nhuyễn trắng xanh
đậm. Cổ áo hình cánh sen, xen vào giữa hai cánh sen chồng lên nhau là một đoá
hoa hồng được may cùng chất liệu vải nhìn rất công phu, được đính lên áo với một
hạt nút bóp kết rất khéo dưới cuống hoa. Khi giặt, gỡ hoa ra, hồi nào đi chơi
hay sắp sửa đi ra tiệm chụp hình thì gắn hoa lên áo. Hàng năm, theo thông lệ Ba
“lùa” bầy con ra tiệm Lệ Ảnh, chụp những tấm hình gia đình để làm kỷ niệm, cũng
như đánh dấu sự nhổ giò của con cái theo thời gian. Nhờ đó, những chiếc áo có
bông hồng đính kèm được sống mãi với những tấm hình gia đình.
Ba đi Sài Gòn về, ngoài những quà cáp
khác, tôi còn nhớ bộ đồ bằng vải ca-tê mẫu ca-rô nhuyễn
màu xanh chuối non, có chạy đường chỉ dọc cổ áo, lai tay, lai quần, với những hột
nút con bướm thắt bằng vải cùng màu. Bao năm qua, khi nhớ lại, tôi thấy bộ đồ
đó vẫn đẹp tuyệt vời. Về Việt Nam, tôi nhờ bạn dẫn đi mua vải và bỏ may mấy bộ
đồ của ký ức tuổi thơ.
Tết năm 1975, chị Thanh Tâm đem từ Sài
Gòn nhiều áo quần thời trang vô cùng hấp dẫn. Mồng hai tết, Ba chở cả nhà du
xuân. Tôi vui sướng lâng lâng diện cái váy xếp ngắn màu trắng với ca-rô đỏ
và cái áo thun đỏ tay lỡ, hiệu Vicky Valaire (không biết thương hiệu này ngày
nay còn sống không). Tôi đứng lâu trong buồng thay áo quần, trong ánh sáng mờ mờ,
ngắm mình và hài lòng trong bộ vó mùa xuân. Khi tôi ra xe, Ba có vẻ không vui,
vì bộ đồ quá thời trang của chị Thanh Tâm “diện” cho tôi. Ba hỏi, sao không mặc
áo dài. Sau đó, có lẽ không kịp giờ, nên tôi không phải thay áo khác và trên tấm
hình gia đình tôi vẫn trong bộ váy rất “tây”.
Thời gian dân chúng xếp hàng cả ngày, chầu
chực quanh cửa hàng thực phẩm địa phương để mua vài ký gạo mốc lẫn đầy thóc, sạn,
thì đồ lót ren lụa của phụ nữ là xa xỉ phẩm, rất quý hiếm. Chị Cẩm Thành thêm một
phen vì cái khó phải ló cái khôn. Chị học lóm, học ké bạn bè, tập tành đan móc
len, chỉ. Sản phẩm của chị Cẩm Thành là những đồ “phụ tùng” được móc bằng chỉ
len xanh đỏ tím vàng. Trong lúc ngồi tán gẫu với chị bạn ở quán cà phê, thấy những
túm bít tất đựng cà phê giặt treo lủng lẳng sau quán, chị Cẩm Thành nảy ra ý tưởng
táo bạo là móc bằng chỉ những “nội y xú xì” lạ mắt, ngồ ngộ. Cho đến bây giờ, mấy
chị em trong nhà vẫn hay gọi đùa là đồ lượt cà phê. Phải chi hồi đó Victoria's
Secret đến Việt Nam, họ sẽ mời chị Cẩm Thành làm người chuyên vẽ kiểu Dessous.
Mấy chị em tôi hổng chừng thành những Victoria's Secret Angels.
Từ lúc biết ông anh cả nộp đơn xin đoàn tụ
gia đình, tôi bắt đầu nghĩ đến việc học thêm vài nghề “vặt” để phòng thân nơi xứ
người. Tôi theo khóa dạy cắt may. Đây là một trong những quyết định táo bạo, liều
lĩnh trong đời tôi. Bởi, hồi trung học, tôi thuộc top 5 các
môn học trong lớp 50, 60 học trò. Riêng môn nữ công, tôi quanh quẩn trong top 3
tính theo… bottom up. Có lần trong giờ nữ công, học trò tập vắt
khăn để làm khăn tay. Tức là phải dùng một sợi chỉ dài xỏ kim, vắt trọn chu vi
của miếng vải. Tôi vắt gần xong cái khăn, không biết loay hoay thế nào, cây kim
bị gãy. Tôi quýnh quáng, sợ làm không kịp để nộp bài. Tôi hỏi cô giáo, tìm cách
giải quyết “tai nạn”. Cô giáo ngó cái khăn tôi làm lở dở, nhăn nhúm, xấu xí, hỡi
ơi. Cô lật qua lật lại, ngao ngán, hết tìm ra cách chữa, cô lẩm nhẩm:
– Trời đất! Tay trâu hay sao mà làm gãy cả
cây kim.
Sau này mỗi khi nghe câu hát bàn
tay năm ngón em vẫn kiêu sa... tôi tự nhiên nhìn xuống bàn tay mình và
nhớ tới nhận xét của cô giáo năm xưa... Trở lại chuyện đi học may, tôi theo lớp
với đầy đủ chương trình may cắt Âu, Việt phục. Học may áo sơ-mi, quần tây, tôi
còn học cắt áo dài, áo bà ba... May sao, thuở ấy, cả nhà có lẽ nhìn thấy “tiềm
năng” của tôi, nên chẳng ai đưa vải cho tôi may thử. Giờ đây, những “kỹ năng”
còn giữ lại sau khóa học may, là tôi biết... lựa chỉ đúng màu để kết nút.
Nhỏ bạn tôi có dì bên Pháp về, mang theo
cơ man áo quần, thơm phức mùi Paris. Bạn tôi thường cho tôi “điệu” theo thời
trang của kinh đô ánh sáng. Lần nọ, bạn đưa cho tôi cái quần jeans, kiểu rất
“ngầu”. Vải quần là những mảnh vuông nhiều màu, chắp lại. Tôi chọn mặc với cái
áo thun ông anh mới gởi. Thời trang của Đức trông mát mắt, với sọc ngang trắng
đỏ, có hình mấy con thú. Tôi hí hửng rủ mấy đứa bạn cùng anh bạn phó nhòm cùng
lớp vào sở thú làm dáng để chụp hình và để cho mấy... con khỉ ngắm. Về nhà, Mạ
bắt gặp, Mạ nói rất nhẹ nhàng:
– Thôi, con đừng mặc cái quần ni nữa. Ngó
không có duyên chi hết.
Vâng lời Mạ, tôi giặt ủi thẳng thớm ngay
ngắn, đạp xe lên quận 10, trả quần jeans lại cho bạn.
Trong hành trang “di dân” qua Đức, chị Cẩm
Thành khuân theo bộ đồ nghề thêu, gồm có khung gỗ vuông, tròn và nhiều loại kim
chỉ. Thời gian mới qua, chưa đi học, chị trổ tài thêu thùa rất đẹp. Người bạn của
ông anh cả, tặng chúng tôi áo quần, nhiều áo sơ-mi nữ. Chị Cẩm
Thành tha hồ biểu diễn tài nghệ. Tôi còn nhớ cái sơ-mi màu
xanh da trời, chị thêu hình hai đứa bé mặc áo dài khăn đóng thiệt là ngộ
nghĩnh. Tôi xin chị cái áo, để “bắn y dô quởn”. Nhìn tôi, hổng chừng chị phải tấm
tắc: “Em tôi xinh xinh quá, bao giờ em... có bồ.”
Thời gian học trung học ở Đức, chị Cẩm
Thành chuyển qua nghệ thuật đan áo. Chị chọn nhiều hình, mẫu rất đẹp mà cũng rất
phức tạp. Mấy chị em gái đều được có những cái áo len tuyệt vời. Chị lớn được
áo len vàng với hình con hươu cao cổ. Tôi được áo màu xanh hình bươm bướm. Em
tôi được áo màu cánh sen với con voi. Hình con voi hơi lớn so với áo. Cho nên,
vòi voi cứ dúi vô phía... nách của nhỏ em. Có lẽ, nhờ voi thọc lét, nhỏ em mặt
mày cứ tươi phơi phới.
Chị Cẩm Thành kể ra thiệt nhiều hoa tay.
Có dạo chị mua các mẫu áo bằng giấy và mằn mò may áo vest. Chúng
tôi rất khó tìm áo vest vừa vặn ở Đức. Thường thì chúng tôi phải
mua áo trẻ con. Áo người lớn quá bự. Mua đã không hợp với túi tiền. Mà phải đem
đi sửa, cắt ngắn chỗ này, xén bớt chỗ kia. Một hồi, cái áo không còn hình dáng
của nó nữa. Nay có chị Cẩm Thành cắt may, tôi được cái áo vest bằng
loại “lụa thô"(wild silk) màu vỏ trứng. Lớp lót ở trong có hơi
thiếu trật tự một chút. Nhưng bề ngoài vẫn là cái áo vest thanh
lịch, tươi trẻ. Mặc chung với một cái mini jupe mầu đồng, tôi
đã xuất hiện trong vài cái đám cưới với thiết kế thời trang chính hiệu hand-made của
chị.
Ông anh cả gởi về cái quần nhung màu sữa,
ống túm. Cuối thập niên 70, ở Việt Nam vẫn còn quần ống loa. Cho nên, tôi phải
mang ra tiệm, nhờ thợ lấy khúc vải dư của ống quần (quá dài) ghép lại, mở rộng ống,
thành quần loe cho hợp thời trang đương thời. Đến khi có giấy xuất cảnh đi Đức,
cái quần này vẫn là cái quần đẹp nhất, xứng đáng ra ngoại quốc. Lúc đó,
tôi phải nhờ người tháo mớ vải ngày trước đắp cho ống rộng, để cái quần
trở thành ống túm. Tức là bây giờ, mèo lại hoàn mèo. Ông anh gửi hai cái áo sơ
mi con trai số 152, tức là cho trẻ em khoảng 1m52, cho hai thằng nhóc em.
Hai cái áo rất hợp nhãn tôi. Bởi vậy, hai thằng cu vừa bỏ áo dơ ra thau, bà chị
hăng hái đem giặt, ủi ngay. Rồi mượn tạm, mặc đi học, “giựt le” với bạn bè. Dẫu
áo mặc ôm cứng như bó chả, ngắn cũn cỡn vừa lưng quần, tay áo chỉ mới lấp ló
che cùi chỏ, tôi vẫn hân hoan diện “mốt” Tây Đức. “Mùi” hàng ngoại thơm phức, mặc
dù áo đã giặt năm lần bảy lượt với xà phòng cục dầu dừa. Bước qua thế kỷ 21,
khi nhìn các búp bê mẫu mặc áo sơ-mi trưng bày trong cửa tiệm,
trông cũng giông giống tôi của thế kỷ trước lúc còn ở Việt Nam. Tức là áo chật
chật như bị thiếu vải, vạt vừa đụng lưng quần, tay thì lưng lửng. Như vậy, tôi
đã đi trước thời trang tây phương hàng chục năm.
Thỉnh thoảng chúng tôi nhận được một số
áo sơ-mi ông anh đã dùng. Đối với chúng tôi, vẫn là những cái áo đẹp tuyệt vời
và thơm lựng mùi... Tây Đức. Chúng tôi háo hức đem những áo sơ-mi sọc nâu, xanh
đậm ra tiệm cho người ta sửa, biến các áo nam thành áo nữ.
Sang Đức, lần đầu tiên được đưa đến phòng
nhận áo quần, chúng tôi rộn ràng lựa các áo lạnh lông thú. Mấy chị em tôi “diện”
những chiếc áo lông thú trong mùa lễ hội hóa trang Karneval. Không
chừng người ta tưởng là chúng tôi muốn hóa trang thành những lão bà bà, tranh
giành với bầy trẻ nít, nhặt kẹo từ những chiếc xe hoa tung xuống trong lễ hội.
Người Đức nhìn chúng tôi ngỡ là học trò trung học, nhưng lại xúng xính trong những
chiếc áo cho các bà hiệu trưởng đã về hưu đang bước vào cổng... thất thập cổ lai
hi.
Thời gian chị Cẩm Thành và tôi đang là
hai cô bé lọ lem, lên kinh đô Wolfhagen đi học, chị Thanh Tâm và Ngọc Hiền đã
“lùng sục” không biết bao nhiêu cửa hàng để tìm trang phục cho chị Cẩm Thành và
tôi, theo tiêu chuẩn đẹp mà vừa túi tiền. Khi nhận thùng quà từ “quê nhà”
Duisburg, chị Cẩm Thành và tôi vui mừng tở mở. Chị Cẩm Thành được một cái váy sọc
xanh nhạt, mặc với áo thun trắng. Tôi được một cái áo đầm màu xanh ngọc lam (turquoise
color), có sợi nịt trắng ở giữa. Hai chị em hí hửng mặc đi dự disco mỗi
thứ năm trong trường. Cả hai đều mơ mòng trong ý nghĩ... La plus belle
pour aller danser. A ha! đêm nay ai cũng cho em là xinh nhất nơi trần gian... Ở
thêm vài năm, chúng tôi phát giác ra, mấy cái áo đó dành cho con nít khoảng...
phân nửa số tuổi của chúng tôi. Ồ, đâu sao! Mình thấy mình đẹp, mình thấy vui
sướng trong bộ cánh đó là đủ rồi.
Thời gian học tiếng Đức, tiệm áo quần
C&A là nơi chốn ưa thích “du ngoạn” của đám học trò chúng tôi. Nhất là những
khi vừa lãnh học bổng, túi rủng rỉnh xu hào, chúng tôi dung dăng, dung dẻ trong
khu vực áo quần trẻ em không mệt mỏi. Lần nọ, tôi thấy một cái váy mấy tầng dài
đến mắt cá, màu trắng, có viền đăng ten, chỗ nối các tầng có chạy đường
ruy-băng lụa màu hồng trông rất sang (ít ra trong mắt tôi). Cái váy đại hạ giá.
Nhìn thấy giá cũ, mình mua được rẻ, tức là lời to, tôi hớn hở ôm váy đến quầy
trả tiền. Tôi mua, nhưng lờ mờ về “chức năng” của cái váy. Nếu chỉ mặc như vậy,
thì cực kỳ “xếch xi”, tại vải mỏng tanh. Nhưng nếu để mặc lót, phí quá, ai còn
thấy dây ruy-băng hồng và đăng-ten lả lướt. Vả
lại, tôi đâu có cái váy nào để mặc ngoài cho “môn đăng hộ đối” với cái váy lót
quý phái này. Năm bữa, nửa tháng tôi lại đem váy ra săm soi, không biết mặc như
thế nào. Sau thời gian nghiên cứu, tôi biết chắc đó là cái váy lót. Tiếc của,
tôi xài như váy ngủ, được đôi lần rồi dẹp vào xó tủ. Mặc ngủ, đẹp chẳng ai thấy.
Vì tắt đèn tối thui, mà váy lụng thụng, lột xột, loạt xoạt, chỉ tổ không thoải
mái.
Lần khác, tôi mua cái áo len loại hơi
dài, che mông, bán kèm hai cái ống len. Tôi suy diễn theo hiểu biết của mình,
dùng ống len như ống quần. Thế là tôi mặc áo len, thay vì mặc quần, tôi choàng
hai cái ống đó kéo lên che bắp đùi, phía dưới “chơi” đôi giày ống cao đến đầu gối
màu da bò, gồ ghề không thua chi dân cao bồi Tếch-xịt. Diện xong thời trang thế
kỷ, tôi ỏn ẻn đứng ngồi, nhờ người chụp hình. Bà chị dâu tôi thấy tấm hình đó,
cố nén tiếng cười:
– Cô Thúy mặc bộ đồ ni coi ngầu ghê nghe.
Có điều hấp dẫn quá đó!
Cũng may, tôi chỉ mới biểu diễn thời
trang trong phòng, chứ chưa ra đường, vì lúc đó trời lạnh quá. Chớ không thôi,
chắc đã có nhiều tai nạn giao thông trầm trọng, vì các tài xế bận cười, quên cả
lái xe. Về sau, tôi mới phát giác ra rằng, ô ồ, cặp ống len chỉ là leg
warmers, để mang choàng từ cổ giày lên bắp chuối mà thôi, còn quần thì
vẫn phải mặc chứ lỵ. Tiếc quá, không có nhà kiểu mẫu thời trang nào khám phá ra
đầu óc sáng tạo của tôi để đưa vào... Haute Couture.
Bây giờ, tuổi đã nhiều, cuộc sống đã ổn định,
tôi có thể tìm cho mình những bộ áo quần vừa ý, hợp thời, may cắt khéo léo. Tôi
có điều kiện tìm hiểu trang phục thích hợp. Nhưng đâu đó trong trí, tôi vẫn
luôn nhớ đến những kỷ niệm nho nhỏ. Những áo quần ngày xưa có thể không hoàn hảo,
nhưng đầy ắp tình cảm của gia đình, bạn bè. Những “trục trặc kỹ thuật” tuy vụng
về, ngô nghê, nhưng là ký ức dễ thương, ít nhiều đã góp phần tô điểm thêm cho
dòng đời muôn màu, muôn vẻ của tôi.