Thơ là nhịp
cầu giúp con người bước quá cuộc đời thực, bước qua số phận và bước vào thế giới
nội tâm để khám phá ra cái thế giới bên trong tưởng quen mà hóa ra còn rất lạ của
chính trái tim mình; nhờ đó, có thể khám phá ra thế giới chung quanh và khám
phá ra tình yêu, theo cái nghĩa rộng nhất có thể có.
Sự khám phá ấy nhiều khi, rất nhiều khi, chính là con đường dẫn đưa ta trở về lại với tuổi trẻ.
Tôi chỉ mới
lần đầu tiên biết đến Bích Hà khi đặt mua, qua bưu điện, tập thơ Mắc Nợ Mùa
Đông (Nxb Thuận Hóa, 2018) của Hoàng Thị Bích Hà, nhưng khi đọc "Mắc nợ
mùa đông", tôi bất ngờ nhận ra, hình như Bích Hà đã tìm thấy cho mình một
lối đi vào thơ.
Cảm nhận đầu
tiên của tôi khi đọc tập thơ Mắc Nợ Mùa Đông là Hoàng Thị Bích Hà chứa đựng những
cảm xúc chân thành, tuy nhiều khi được bày tỏ bằng một ngôn ngữ chân phương,
nhưng xem ra chính nhờ thế mà lại đạt được một hiệu quả không ngờ, là rất thực,
rất đỗi gần gũi với đời thường.
Xuyên suốt
những bài thơ của Bích Hà, ta dễ dàng nhận ra cái tâm thế xao xuyến trước Tình
Yêu của tác giả. Trong văn học của cả nhân loại, cái tâm thế ấy gần như là nỗi
ám ảnh triền miên: nỗi ám ảnh về phận người, về sự chia xa:
“Chuyện tình ta cũng hệt người xưa vậy
Yêu thương mặn nồng rồi cũng phải chia xa”
(Mắc nợ mùa
đông 1)
Và còn hơn
cả một nỗi xao xuyến khôn nguôi, cuộc đời thực vốn nhiều buồn hơn vui chỉ càng
khiến Bích Hà thêm mong muốn khẳng định về những điều thực, giả giữa đời:
“Thật và giả luôn đồng hành là vậy
Giả nhiều khi thật hơn thật muôn phần!”
Có thể hiểu
đây là một quan niệm sống, một cách nhìn đời của tác giả được không? Có thể hay
không có thể, cũng còn tùy góc nhìn và quan niệm sống của mỗi người. Nhưng điều
quan trọng là Bích Hà đã nói điều ấy, đã bày tỏ điều ấy với cái tâm chân thành,
dẫu có thể chính vì thế mà tác giả phải mắc nợ thời gian, mắc nợ một mùa đông của
kỷ niệm:
“Anh cất giữ mùa đông giùm em nhé
Em trở thành người mắc nợ mùa đông”
(Mắc nợ mùa
đông 1)
Phải rồi,
có ai dám bảo kiếp này ta đã dâng trọn trái tim cho đời mà không còn có gì ân hận,
cũng không còn có gì để ước mơ, không phải mắc nợ một tấm lòng, hay chỉ là mắc
nợ thời gian? Chẳng ai được như thế cả, dẫu là kẻ trí giả hay bậc thiên tài.
Cho nên, ta
cứ hãy sống thực với lòng ta, với đời ta. Vì giọt máu của nhân loại này có bao
giờ chảy ra khỏi nỗi trầm luân của thân phận con người (?). Vậy thì hà cớ chi
ta lại mong đi ra ngoài lẽ đời hiện thực với bao điều xấu-tốt, thanh- thô?
Bích Hà chọn
một thái độ, một cách thế sống chan hòa trong cõi thật, và từ đó, tìm ra sự vượt
thoát cả trí và tâm:
“Xin cảm ơn nỗi buồn, cảm ơn cả niềm vui
Để cho em được làm người đàn bà bản lĩnh”
(Ơi tháng mười hai...!)
Quan niệm sống
ấy giúp Bích Hà hiểu được rằng, không thể không hòa cái tôi nhỏ bé vào với
thiên nhiên, và đó không chỉ là một kinh nghiệm bản thân, mà còn là một lời gửi
gắm, nhắc nhở:
“Anh hãy yêu cả mây trời gió biển
Yêu trời xanh - con sóng cuộn khơi xa”
(Xin hãy
quên)
Không thể
chọn lựa khác được, vì "Ai trong đời
chẳng có những ưu tư / Thì nỗi buồn đau có bao giờ thôi hiện hữu" (Nhắn
bạn).
Phải rồi,
bài học đơn giản nhất của người xưa là hãy đem cái "tiểu ngã" hòa vào
với cái "đại ngã". Ta có bao giờ đi ra khỏi thân phận nhỏ bé của con
người, vậy thì sao không bắt chước giọt sương long lanh trên lá cỏ kia, khi nó
vẫn chưa bao giờ thôi nhớ về nơi chốn đã sinh thành, ra đi? Câu thơ trầm tư của
Bích Hà khiến tôi không thể không liên tưởng đến nỗi mình, vào một đêm trăng
nào trên sông Hương năm xưa, đắm chìm vào cô tịch mới nhận ra cái vô lượng của
lẽ thường hằng: "Trái tim ta khát vạn ngày / Trên tay giọt nước, lại đầy
dòng Hương"(THDV).
Điều đáng
quý là thái độ sống ấy, sự chọn lựa cách thế làm người ấy của Bích Hà không hề
được nói ra với một sự lên giọng, đại ngôn, mà ở đây chỉ là một sự bày tỏ nhẹ
nhàng, tự nhiên, với cung cách lúc nào cũng dịu dàng, nhỏ nhẹ của người phụ nữ
Huế. Nhờ thế, cái đẹp của một cách thế sống cũng là cái đẹp của tâm hồn, cái đẹp
của chính câu thơ và của sự an nhiên.
Nếu chịu
khó suy ngẫm, ta dễ nhận ra đó cũng chính là cách biểu hiện cuộc sống tâm hồn của
hầu hết chúng ta, mang đậm nét văn hóa dân tộc. Bởi trong nền văn hóa thường tồn
(Permanence - thường tồn, chứ không phải trường tồn - Éternel) của dân tộc ta
luôn chất chứa vừa đạo lý, vừa tình yêu cuộc sống; chất chứa niềm tin vào sự tồn
tại của những giá trị nhân văn và cả nỗi đam mê các thú vui bình thường của những
con người luôn biết dung hợp giữa lạc thú cuộc đời và lý tưởng hướng thiện. Từ
người nông dân chân đất cho đến những kẻ sĩ, những nhà thơ dân tộc, gần như tất
cả đều đã giữ được cho mình cái cách thế sống ấy.
Ở một phía
cảm nhận khác của tâm hồn, Bích Hà còn tạo được cho mình một sự thức tỉnh, nhận
ra khuôn mặt của thời gian, nhưng vẫn hẹn một lòng của sự thủy chung son sắt:
“Tóc anh giờ có thể chẳng còn xanh
Và khuôn mặt, dấu thời gian rõ nét
Nhưng tình yêu dành cho anh vẫn thế!
Vẫn cháy trong tim tha thiết nồng nàn”
(Đường phượng
bay Thành Nội Huế)
Nhưng dẫu
luôn ý thức về lẽ vô thường của kiếp nhân sinh, Bích Hà không phải không có lúc
cũng băn khoăn với chính bản thân và với nẻo vô thường kia:
“Em giã biệt mùa đông không nuối tiếc
Anh cũng đừng tham luyến một mùa đông”
(Đừng luyến
tiếc)
Sở dĩ phải
như thế vì đã tới lúc "đời ngược nhau hai hướng rẽ hai đường", như
bao câu chuyện đời khác.
Nỗi băn
khoăn rất đỗi đời thường nhưng lại nhuốm màu triết lý sống ấy, thực ra, không
phải ai cũng có được, mà phải kinh qua mọi lẽ được- mất, thịnh - suy, có không
giữa cuộc đời đa đoan lắm nỗi này; rồi lại phải luôn biết tự vấn và biết rút ra
cho mình bài học về thế thái nhân tình, thì mới có thể có được, sau khi đã
"Để đêm khuya những giọt lệ lạc loài" và chấp nhận như một lẽ đương
nhiên "Giọt lệ này xin mình em nhận đủ".
Đó hoàn
toàn không phải là thái độ cầu an, dàn hòa trong tư tưởng, mà thực sự là một sự
"đốn ngộ" trước nỗi đời. Và để ngộ được điều ấy, tưởng chừng như tác
giả Mắc Nợ Mùa Đông đã phải trải qua những dằn thúc không nguôi của tâm hồn, phải
học được những bài học tưởng như giản dị mà lại vô cùng sâu sắc từ cuộc sống
bình thường:
“Biết quên đi một người là điều không hề dễ
Nhưng em sẽ làm, và hứa sẽ được, ...nay mai”
(Xin hãy
quên)
Nghe như có
một chút gì đó chịu đựng, cam phận; khiến chúng ta, những người đọc không thể
không thương cho nỗi niềm của một người phụ nữ xứ Huế hiền thục nhưng sâu lắng,
dịu dàng.
Và khi đã ý
thức được rằng cuộc sống là để sống, một cách hồn nhiên, chứ không phải chỉ là
để suy niệm, thì tự nhiên lòng sẽ vui, hồn sẽ thanh thoát nhẹ nhàng như có bông
"hoa mướp vườn vẫn vàng tươi sắc nắng"; như "ngõ chè tàu xanh biếc
nỗi buồn thương"; bởi chính cái bông hoa mướp ấy, ngõ chè tàu ấy, ở một vườn
Nguyệt Biều xanh, mới là cuộc sống, mới là cái nghĩa sống bình thường mà chân
thật.
Chính ở đây
ta đã tìm thấy con người thực, ngoài con người tình cảm nhưng không thiếu lý
trí và cả sự tỉnh táo của Bích Hà:
“Thì cũng biết xem tình là hư ảo
Nặng lòng chi? Để gió cuốn bay xa”
(Ôi tình
yêu!)
Suy cho
cùng, chẳng có con người thực nào lại chưa một lần dang dở chia xa trong tình
yêu. Bích Hà cũng thế, cũng đã từng đau xót vì tình và từ nỗi đau xót kia lại
liên tưởng đến cái mong manh, nỗi mất mát của cuộc đời:
Cuộc đời ngoài kia chắc chẳng có gì vui
Đầy sóng gió và éo le, trắc trở
(Cuộc đời
ngoài kia có gì vui không vậy?)
Câu hỏi
nghe sao nhuốm nỗi ngậm ngùi, cam chịu!
Nhưng, ngay
trong đau xót ta vẫn tìm thấy con người thiết tha, nhân hậu của Bích Hà:
“Gió mang đi những khát vọng thuở nào
Làn mây biếc xóa giùm bao kỷ niệm
Xin trả hết cho mây trời gió biển
Trả tôi về những ngày tháng an nhiên!
(Tâm sự trước
biển)
Tới đây,
thêm một góc cạnh nữa để ta có thể nhìn thấy, khám phá tâm tình và tư tưởng của
Bích Hà: Ngay trong giây phút thiết tha với tình, với người và với cuộc đời nhiều
đam mê, quyến rũ này, người phụ nữ xứ Huế dịu dàng ấy vẫn chưa lúc nào quên được
sự phù du của kiếp người, dù trước sau nàng vẫn muốn sống nhẹ nhàng, vẫn muốn
quên đi những nỗi đời đau xót để thản nhiên làm "miếng ngói khô" vì
cũng đã tới lúc "miếng ngói khô nay có còn khô nữa?" Hỏi là đã trả lời,
chắc chắn "miếng ngói khô" ấy đã "nay chợt thành ngói ướt bởi vì
ai"...(Đọc câu thơ này, tôi bỗng phải bần thần tự hỏi: Liệu có phải đây là
một lời trách hay không? Nhưng mà, dẫu có trách thì cũng rất nhẹ nhàng. Và tôi
yêu cái chất Huế ấy của người thơ này!)
Tôi đã nói,
ta có thêm một góc nhìn để ta hiểu Bích Hà, nhưng cũng chính từ góc nhìn ấy mà
ta lại có dịp để hiểu cả chính ta, tự nhìn lại ta trong cái lẽ biến dịch không
ngừng của thời gian. Và ta có thể nói rằng, cuộc sống của mỗi người và của tất
cả chúng ta, là thời gian vừa mất đi nhưng cũng là thời gian vẫn còn lại. Theo
tôi, ý niệm thời gian trong tâm hồn con người chính là ý niệm về một thứ thời-gian-nối-kết
(temps liés). Chính sự trộn lẫn giữa quá khứ và hiện tại ấy đã làm nên tình yêu
trong chúng ta. Và đâu phải là tình cờ khi có người cho rằng, tình yêu chỉ có
thể giữ được sức mạnh và vẻ đẹp quyến rũ của nó nếu óc thông minh và trí tưởng
tượng có được một sự tự do sáng tạo nào đó thêm vào cho tình yêu.
Bích Hà đã
có được sự sáng tạo đó trong tình yêu và trong thơ, dẫu có thể chỉ là một thứ ý
thức bất chợt, như chút nắng mong manh cuối ngày, như sự an nhiên, thanh thản rất
đỗi tình cờ:
“Thời gian trôi đi có bao giờ trở lại
Thuyền xuôi dòng trên bến Hương giang”
(Xin đừng
thương nhớ người dưng)
hay đó là
câu ca xưa rơi lại bên lòng?:
“Ôi có lẽ câu Nam Bình suốt đời anh vẫn nhớ
Giọng em ca và cả tiếng em cười”
(Gửi lại anh)
Nhưng có điều rất
lạ, ở hồn thơ này chẳng có cái gì được quân bình cả, vừa hân hoan trong tình
yêu thiết tha, say đắm đó, đã lại buồn rầu lơ đãng; vừa đang nghiền ngẫm về lẽ
chia ly, sum họp của phận người đó, lại đã muốn làm làn mây trắng rong chơi; vừa
tỏ ra hân hoan ham sống, lại đã chìm đắm trong nỗi sầu xứ Huế chiều đông. Cho
nên, ta có thể nói rằng, thơ Bích Hà cũng như con người Bích Hà, là một thực thể
tinh tế mà bất an (suy cho cùng, điều ấy cũng là lẽ thường tình, vì cuộc đời
này vốn dĩ đã bất toàn!); một thứ tâm thức tình yêu dang dở; một mong đợi không
tới, và cả một hoài niệm không có lối về.
Nói khác đi, đây
là một thứ tâm thế mong chờ yêu thương mà cô đơn: tình yêu không bao giờ thỏa mộng,
cuộc phối ngẫu thiết tha không đến, vì lẽ đời bất khả, cho nên nỗi đam mê nồng
nàn chẳng bao giờ tìm thấy bến đỗ:
“Em muốn làm người tình thơ chung thủy
Nhưng với ai? Ai sẽ trả lời câu hỏi ấy cho em?”
(Em muốn)
Nhưng xét cho
cùng, chỉ có sự tĩnh lặng của tâm hồn để đón nhận niềm vui đang mỉm cưới đưa
tay vẫy phía xa là ý nghĩa nhất cho một tấm lòng, một tâm hồn nhân hậu thủy
chung:
“Ai trong đời mà chẳng có những ưu tư
Hãy xếp lại, tạm quên, mà vui sống
Nỗi niềm nào rồi cũng sẽ phôi pha
Hãy lắng dịu đón bình minh ngày mới”
(Bông hồng tặng
anh)
Xét về mặt nghệ
thuật, một trong những nét nổi trội của ngôn ngữ thơ Bích Hà chính là biệt tài
miêu tả cảnh sắc quanh mình. Những cảnh vật tươi đẹp hay trầm buồn của xứ Huế
mơ màng, đài các; những bông hoa dại trong vườn hay cái ngõ chè tàu xanh biếc
đã đi vào thơ Bích Hà một cách tự nhiên, giản dị mà nên thơ, vô cùng gợi cảm.
Hay cụ thể hơn, một món đồ chơi ngày thơ dại: "Chiếc thuyền giấy, con cào
cào, châu chấu / Chiếc đồng hồ lá chuối đã theo em" (Ngày xưa còn bé)
Những cảnh trí ấy,
những vật dụng ấy hình như ta đã gặp nhiều lần trong đời, nhưng qua ngôn ngữ
thơ không tả mà gợi của Bích Hà, ta bỗng thấy cảnh sắc ấy, vật dụng ấy như lung
linh và vô cùng đẹp đẽ, gợi cảm; khiến ta bỗng thấy ngỡ ngàng.
Này đây là sự
tinh tế của nghệ thuật lấy cảnh để gợi tình:
“Ước một ngày anh trở lại nơi đây
Nẻo đường xưa anh ghé lại thăm nhà
Nghe em hát khúc tình ca xứ Huế”
(Nỗi nhớ vu vơ)
Cách nói ấy, ngôn
ngữ thơ ấy khiến ta không thể không bồi hồi tự hỏi, chuyện "tình mình dang
dở" hay chính tiếng hát và đôi mắt của người phụ nữ Huế rất đỗi dịu dàng
kia đã chiếm lĩnh hồn ta? Còn "bao lộc biếc đã đâm chồi hé nụ" phải
chăng là ánh sáng của một ngày mới, và cả ánh sáng của lòng ta nữa, đã vừa làm
sống lại trong lòng ta một niềm vui, một hạnh phúc bất chợt mà tràn đầy:
"Hạnh phúc tràn đầy, anh nhé - hãy nâng niu! (?).
Trong một sự thức
tỉnh bất chợt, ta có cảm tưởng như người thơ đang theo đuổi cuộc tìm kiếm một
tình yêu miên viễn không bao giờ tới, vì đó chính là cuộc tìm kiếm chân tướng của
tự thân (sappropre indentité). Có chăng ở đây cái nhìn phản tỉnh về sự mong
manh của tình yêu, một tình yêu không có bóng hình của hạnh phúc đích thực mà
chỉ là những hoài niệm, những tiếc nuối không quá đớn đau nhưng cũng không bao
giờ lặng tắt trong tâm hồn đa cảm của một người đàn bà luôn đi tìm ý nghĩa của
tình yêu như một sự giải thích cho ý nghĩa tồn tại của cuộc đời mình? Thật khó
có câu trả lời chính xác!
Càng đọc thơ Bích
Hà, ta càng nhận ra rằng, trong cái không hoàn chỉnh của toàn bài thơ, nếu đòi
hỏi bài thơ phải như một chỉnh thể độc lập, vẫn thấy tác giả, dù vô tình hay cố
ý, đã chuyển ý tưởng thành ảnh tượng, tạo nên những thế tương đồng gợi ý
(analogies suggestives). Và đó chính là sự mời gọi người đọc cùng tìm cách giải
mã vấn đề, cùng chọn lựa như tác giả đã chọn lựa: Chọn lựa tình yêu như một
cách giải thoát cho những ức chế tự do, dẫu rằng đó có thể là một thứ ức chế vô
thức. Bởi vì, suy cho cùng, chính tác giả "mắc nợ mùa đông" - mắc nợ
thời gian - hay thực sự là "mắc nợ tình yêu"?
Sài Gòn, tiết Hạ
chí năm Mậu Tuất, 2018