Năm nay, hoa anh đào ở vùng Thủ đô Hoa Thịnh Đốn nở sớm -
thường thì đầu tháng Tư mới nở rộ - nhưng vì thời tiết ấm hơn mọi năm, nên giữa
tháng Ba hoa anh đào đã nở khắp.
Dân chúng trong vùng cũng như khách du lịch nô nức đổ về Thủ đô Hoa Thịnh Đốn xem hoa, chụp ảnh - nơi có hơn bốn ngàn cây hoa anh đào được trồng khắp nơi, đặc biệt chung quanh hồ Tidal Basin, nhiều cây hoa anh đào cổ thụ ngả bóng trên mặt nước hồ phẳng lặng - trông đẹp tuyệt vời …
Ông Tư rủ hai ông bạn già cùng xóm, ra đây chụp hình.
Trước đây, năm nào cũng thế, cứ đến ngày hoa đào nở rộ, người
ta thấy bốn ông già “tay xách nách mang” các đồ nghề chụp ảnh: cái máy chụp
hình to đùng gắn ống kính dài thoòng đeo lủng lẳng trước ngực, tay cầm chân chống
(tripod) dài cả thước; trang phục cũng rất lạ mắt: đầu đội nón tai bèo màu vàng
nhạt, khoác cái jacket nhiều túi - căng phồng các phụ tùng chụp ảnh như dây bấm
mềm (remote), hộp pin, thẻ nhớ (SD card), loa ống kính (lens hood), kính lọc
(filter) …v…v… mặc quần bốn túi, mang giày Adidas trông rất “ngầu”.
Đám trẻ trong khu phố ngưỡng mộ, nói rằng: “trông thật pro!”
Người lớn thì bảo: “trông rất chuyên nghiệp!” Và gán cho bốn ông cái tên rất
kêu là “nhiếp ảnh gia.” Năm rồi, một ông “đứt bóng”- bỏ cuộc rong
chơi…
Bây giờ, còn lại ba ông, vẫn tiếp tục thú vui nhiếp ảnh. Ba
ông đều biết thiên hạ gọi “nhiếp ảnh gia” là để khích lệ và an ủi tuổi già. Vì
từ hồi nào đến giờ, các ông chỉ đi chụp hình đám ma là nhiều, còn các lễ lạc
quan trọng như đám cưới, đám hỏi, chẳng ai nhờ. Đó là sự thật phũ
phàng!
Từ ngày theo đuổi thú vui chụp ảnh, chỉ chụp hình đám ma đem
lại cho các ông chút an ủi, còn cái “tâm sự buồn” ít ai hiểu thấu và các ông
cũng không thổ lộ cùng ai.
Ngày ba ông được định cư ở Mỹ, tuổi đời đã quá bốn mươi. Sau
bao năm trong lao tù cộng sản - sức mòn lực kiệt - nhưng phải cố gắng vươn lên
để xây dựng lại cuộc sống gia đình, nuôi con ăn học. Khi các con thành đạt thì
cũng đã đến tuổi về hưu. Nghe lời khuyên của các bậc cao nhân: “Người lớn tuổi
nên tìm một sở thích riêng (hobby) để khuây khỏa tuổi già.” Nhưng còn có một động
lực thúc đẩy ba ông già hăng hái rủ nhau ghi tên học chụp hình do Hội Nhiếp Ảnh
Việt Nam vùng Hoa Thịnh Đốn (Vietnamese Photographic Society) tổ chức là các bà
nhà thích được chụp hình chân dung đẹp.
Sau ba năm miệt mài học tập, lấy được bằng tốt nghiệp, rồi
sau đó vào Hội Viên, tiếp tục đi săn ảnh để luyện tay nghề… Vậy mà ở nhà chụp
hình cho vợ thì bị “chê ỏng, chê eo…” Hỏi ra thì ông nào cũng thế! Chụp hình
cho mấy bà hàng xóm, trong những dịp biểu tình, hội hè vui chơi dã ngoại thì được
khen rối rít và luôn đông khách vì các bà được chụp hình không phải trả tiền.
Cũng may thời đại khoa học tiên tiến, chụp hình Digital, không tốn công, tốn của
bao nhiêu, các ông cứ bấm thả giàn rồi gởi (air drop) vào cell phone cho các bà
là xong (thời trước chụp hình film rất tốn tiền và mất
công).
Đó là nỗi buồn thứ nhất ít tỏ cùng ai. Nỗi buồn thứ hai là
đi “săn hình”. Trong mấy năm gần đây - tuổi già, sức yếu không còn nhanh nhẹn
như trước. Đi cùng nhóm thì vui, nhưng gây trở ngại cho những người trẻ vì phải
đợi chờ các ông - “bỏ thì thương, vương thì tội!” Biết thế, mấy ông già tạo
nhóm riêng - tuy hơi tủi thân già, nhưng cũng đành chịu vậy…
Bây giờ, còn lại ba ông có một mối tương giao đặc biệt, nên
thường đi chụp hình chung với nhau - không gây phiền phức cho ai. Năm nay, ba
ông đi chung xe, vào DC (Thủ đô Hoa Thịnh Đốn) chụp ảnh hoa anh đào. Mặc dù ra
đi thật sớm, đường vẫn kẹt xe, bãi đậu không còn chỗ, ông Tư lái xe chạy lòng
vòng… May quá còn mấy chỗ trống bên đường Constitution Ave, ông Tư tấp xe
vào.
Ba ông già hớn hở xuống xe, đi bộ một đoạn đường ngắn là đến
hồ Tidal Basin. Một ông hí hửng bảo:
- Hôm nay, tụi mình gặp hên, tìm được chỗ đậu xe tốt
quá!
Nhưng than ôi! Chụp hình xong, trở ra xe, thấy một tấm giấy
phạt gắn dưới cái gạt nước - 40 đô la. Bởi vì, đoạn đường đó có bảng cấm đậu xe
từ 7:00AM đến 11:00AM mà các ông không để ý. Ông Tư lấy tờ giấy phạt bỏ vào
túi, không có vẻ gì khó chịu, chỉ nói: “Coi như trả tiền dạo mát xem hoa.” Rồi
quay sang phía hai ông bạn già, tươi cười hỏi:
- Hôm nay, chúng ta dạo mát xem hoa tốn tí tiền, nhưng tôi đố
hai ông: ở đâu và làm công việc gì mà vừa dạo mát xem hoa, lại kiếm được tiền?
Suy nghĩ một hồi, một ông trả lời:
- Chỉ ở bên xứ Congo.
Ý nói đó là chuyện khôi hài - còn lâu mới có. Vì ở nước Cộng
Hòa Dân Chủ Congo (Congo Kinshasa) 50 năm mới tổ chức Tết một lần, nên chuyện
gì không thường xuyên xảy ra, khó có, người Việt hay hóm hỉnh bảo: “Đợi đến Tết
Congo.”
Ông Tư biết ý, chậm rãi nói:
- Việc có thật, chính tôi đã làm nhiều năm và ở ngay trên đất
Mỹ này, chứ không đâu xa.
- Ông kể cụ thể, xem có thể tin được không nào. Một ông già
yêu cầu.
Ông Tư nói:
- Anh em mình sang đây, nhiều người đi cày hai job - đêm chẳng
thấy trăng sao, ngày chẳng thấy mặt trời… Đó là chuyện thường thấy, nói làm gì.
Nhưng ở xứ Mỹ có một số công việc ít ai để ý mà lại là “job thơm” nên mới hỏi
các ông. Nếu chưa biết, tôi sẽ kể nghe chơi.
Ông Tư lấy chai nước lọc uống vài ngụm, rồi chui vào xe, nổ
máy. Hai ông già kia cùng lên xe, chờ nghe ông Tư kể chuyện “job thơm.”
Trên đường về, ông Tư bắt đầu câu chuyện: “Chúng ta ai cũng
trải qua bước đầu bỡ ngỡ trên xứ lạ, quê người - thường thì đi làm thợ “đụng”-
đụng việc gì làm việc đó một thời gian, rồi mới tìm được công việc ổn định. Tôi
không ngoại lệ.
Thi sĩ Vũ Hoàng Chương đã than: “Lũ chúng ta sinh nhầm thế
kỷ…” nên khổ nhục thì nhiều, sung sướng chẳng được bao nhiêu. Nhưng
tùy theo cơ duyên đưa đẩy và số mệnh an bài mỗi người một cảnh - người việc
này, kẻ việc kia - sướng khổ, giàu nghèo tuy có khác nhau, nhưng xem ra đa số đều
bằng lòng với cuộc sống tự do, yên ấm trên quê hương thứ hai
này.
Nhớ lại những ngày đầu tìm việc mà tủi cho thân phận. Tuy
không phải đứng đường chờ người ta đến gọi đi làm như mấy anh Mễ bây giờ mà tìm
việc trong các lớp học ESL. Những người đang học ESL hay mách nhau các công việc
lao động phổ thông - cứ vài hôm vắng mặt một người. Hỏi ra mới biết anh nọ xin
được một chân rửa chén trong nhà hàng, chị kia tìm được chỗ phụ bếp, lau nhà.
Tôi chỉ mong tìm được một việc như vậy. Họ chỉ chỗ tôi đến xin việc. Nhưng than
ôi! Không chỗ nào nhận - có lẽ các ông bà chủ nhìn bộ điệu của tôi sẽ không
kham nổi công việc. Tôi buồn và tự nhủ: mới ngoài bốn mươi mà bị đời cho “phế
thải” rồi sao?’
Nhưng số tôi “tiền hung hậu kiết.” Tôi lang thang tìm việc
mãi không ra, rồi một buổi chiều đi ngang qua một tiệm Dry Cleaners (ở Việt Nam
bây giờ gọi là giặt khô) thấy treo bảng “Help Wanted” tôi đánh bạo vào xin thử.
Ông chủ người Do Thái hỏi năm điều, bảy chuyện… Tôi thành thật
khai báo: “Tôi chẳng có nghề nghiệp chuyên môn nào cả, nhất là chẳng biết tí gì
về nghề này, nhưng tôi có thể làm bất cứ việc gì sau khi được hướng dẫn.” Ông
ta gật gù đưa cho tôi tờ đơn xin việc, bảo: “điền vào, tôi nhận anh, ngày mai đến
làm việc.”
Ôi! Buổi chiều hôm ấy - trên đường về nhà, tôi cảm thấy lâng
lâng sung sướng…”
Hai ông bạn già ngồi nghe dông dài mà chưa thấy chỗ nào “dạo
mát xem hoa…” Chán quá! Một ông phát biểu:
- Vào làm tiệm Dry Cleaners nóng bỏ mẹ, tôi đã làm việc này
mấy năm, đâu có chỗ nào “dạo mát, xem hoa?”
- Bình tĩnh, chưa tới - chuyện phải có đầu, có đuôi chứ.
Ông Tư kể tiếp: “Gần một năm làm cho tiệm Dry Cleaners, tôi
quen việc, chỗ nào cần họ gọi, coi tôi như một người để sai vặt. Tôi không thắc
mắc, vì nghĩ: “ăn cơm chúa phải múa tối ngày - xay lúa thì khỏi bồng
em.”
Một hôm, ông già Do Thái gọi tôi ra chỗ riêng bảo: “Mày biết
không, tổ tiên người Do Thái tụi tao lưu lạc đến xứ Mỹ này, khởi đầu với ba cái
nghề chính là cho vay tiền, mở tiệm cầm đồ và làm giặt ủi (Dry Cleaners). Sau
thời gian cần kiệm, tích lũy đám cho vay tiền, và tiệm cầm đồ ra mở ngân hàng
(nhà Bank). Chỉ còn lại cái nghề Dry Cleans là cha truyền con nối, nhưng khi
giàu có, họ kinh doanh lãnh vực khác đỡ vất vả hơn. Họ bán tiệm và chỉ nghề cho
người Đại Hàn và Philippine. Trong vùng này chỉ còn mình tao theo nghề này,
nhưng tao sẽ bán tiệm, về hưu. Tao thấy thương thân phận lưu vong của mày giống
như tổ tiên tao đã từng lưu lạc sang đây. Tao muốn sang cái tiệm này cho mày và
sẽ chỉ nghề để mày sinh sống. Giá thị trường bây giờ khoảng hai trăm ngàn, tao
hô lên là đám Đại Hàn sẽ chớp ngay. Nhưng tao sẽ ưu tiên cho mày, nếu mày muốn.”
Trước lời đề nghị bất ngờ của ông ta, tôi ú ớ.Vì hai trăm
ngàn quá lớn, đào đâu ra. Tôi trả lời: “Cảm ơn lòng tốt của ông, nhưng làm gì
tôi có số tiền lớn như vậy?” “Đừng quá lo, không phải trả một lúc hai
trăm ngàn đâu, mà chỉ cần có hai mươi phần trăm đặt cọc (down payment), còn lại
tao sẽ chỉ cách vay ngân hàng, rồi trả dần hằng tháng. Với thu nhập của tiệm,
chỉ vài năm là hết nợ - sau đó mày sẽ rủng rỉnh.”
Linh tính báo cho tôi biết đây là dịp may, nên tôi mạnh dạn
trả lời - “Ông cho tôi vài ngày đi mượn tiền, nếu có đủ tôi sẽ mua.” Ông ta đồng
ý.
Về nhà tôi trình bày sự việc. Anh em, bạn bè mỗi người cho
mượn một ít. Tôi đủ tiền đặt cọc. Thế là từ một thằng với hai bàn tay trắng trở
thành ông chủ có gần mười công nhân làm việc. Ngẫm ra mới thấy mọi sự xảy ra
trong đời đều có cơ duyên.
Đúng như ông già Do Thái nói, chỉ gần hai năm tôi trả dứt nợ
và rủng rỉnh được mấy năm. Sau đó tiệm bắt đầu đi xuống vì hàng may mặc bằng vải
cotton của Trung Quốc tràn ngập với giá rẻ rề và không cần dryclean… lại thêm
dân làm văn phòng (cổ trắng) đi làm không bắt buộc phải mặc “complet” như trước
mà có thể mặc quần Jean, áo pull vào sở làm. Trước đây, mỗi tuần phải đem giặt ủi
bộ “suit” một lần thì nay cả tháng họ mới đem đồ bỏ giặt. Vì hai lý do đó, tôi
quyết định sang tiệm gấp dù lỗ vài chục ngàn. Lúc đó tôi qua tuổi sáu
mươi.
Nhớ lại thế hệ cha ông ngày trước, bước vào tuổi sáu mươi đã
cho là già và nghĩ đến chuyện vui thú điền viên. Quan niệm ấy đã ảnh hưởng đến
suy nghĩ của tôi và mỗi khi nghe Hùng Cường ca bài “Sáu Mươi Năm Cuộc Đời” của
Y Vân: “Anh ơi! Có bao nhiêu sáu mươi năm cuộc đời? Hai mươi năm đầu, sung
sướng không bao lâu. Hai mươi năm sau, sầu vương cao vời vợi. Hai mươi năm cuối
là bao. Ơ là thế, đời sống không được bao…” là tôi không còn muốn bon
chen.
Tôi quyết định về hưu sớm lúc sáu mươi hai tuổi để vui chơi
với đời. Ngồi nhẩm tính với số tiền tiết kiệm để trong ngân hàng tôi có thể sống
phây phả đến tám mươi vẫn còn dư.
Nhưng cuộc sống ở Mỹ không đơn giản - thật nghèo thì có cơ
quan An sinh Xã hội giúp đỡ hoặc thật giàu thì lấy của che thân - còn cái đám
không giàu mà cũng chẳng nghèo thì phải tính toán lo
toan.
Nạn lạm phát và giá cả hàng tiêu dùng cứ tiếp tục leo thang.
Nếu nhớ không nhầm, khi tôi đến Mỹ năm 1986, giá xăng chỉ 99 cents một gallon,
năm tôi về hưu 2007 lên gần 2 dollars; bao thuốc lá khoảng 60 cents, lên trên 4
dollars; một cái hamburger khoảng 1dollar, bây giờ tăng gấp đôi (đó là giá cả
tôi nhớ vào năm 2007, hiện tại còn cao hơn). Nhưng cái nhức nhối là bảo hiểm sức
khỏe - tăng giá hằng năm. Tôi về hưu non, nên phải mua bảo hiểm sức khỏe - mỗi
tháng tám trăm dollars (cách đó mấy năm chỉ trả bốn trăm đô). Nhẩm tính số tiền
có trong ngân hàng, chỉ còn đủ cho tôi sống đến bảy mươi tuổi là
cùng.
Kẹt một nỗi là ở Mỹ, người ta bảo “tám mươi chưa phải là
già.” Ở Việt Nam đến tuổi sáu mươi cho là thọ, bảy mươi cho là hiếm (thất thập
cổ lai hy). Nếu tôi sống đến tám mươi tuổi, thì phải “ăn mày” ít nhất mười năm
- không ăn mày xã hội thì cũng ăn mày con cái. Thực tâm tôi không muốn điều đó
xảy ra.
Một hôm gặp người bạn cũ đang làm nghề thầy giáo, tôi tâm sự
nỗi lo âu. Anh ta bảo: “Vậy xin vào làm việc ở trường học để được cái bảo hiểm
sức khỏe - tốt lắm!” Tôi hỏi: “làm phu trường ấy à?” Lúc đó trong đầu tôi hiện
ra hình ảnh ông phu trường già, ngày ngày cầm chổi quét rác quanh sân và đóng mở
cổng trường… Tôi nản quá nên mới hỏi thế.
Anh bạn tinh ý đoán biết suy nghĩ của tôi, cười và bảo: “Trường
học bên Mỹ này, ngoài thầy giáo, còn có nhiều công việc phục vụ cho học sinh chứ
không như ở Việt Nam mình, chỉ có một ông phu trường lo quét dọn, trông coi tổng
quát và chuyên rình bắt học trò leo rào trốn học.” “Vậy những công việc cụ thể
như thế nào?” “Như đứng cầm bảng chỉ dẫn cho học sinh qua đường giống như cảnh
sát giao thông, phục vụ bữa ăn trưa cho học sinh, làm tạp dịch như lau sàn nhà,
dọn dẹp nhà vệ sinh, coi an ninh tổng quát, làm tài xế xe bus hay phụ tài xế
giúp các học sinh khuyết tật lên xuống xe bus, làm công việc bảo trì như thay
bóng đèn, sửa lại cái bàn, cái ghế không cần tay nghề cao - ai làm cũng được.”
Sau khi nêu lên một số công việc, ông bạn gợi ý: “Công việc
thì nhiều, nhưng xem ra chỉ có việc phụ tài xế xe bus, tiếng Anh gọi Bus
Attendant là thích hợp với tuổi già - vừa dạo mát xem hoa, vừa kiếm tí tiền, lại
có thêm cái bảo hiểm sức khỏe của nhà nước tốt số một, không có hãng bảo hiểm
tư nhân nào qua mặt được.
Chuyện xảy ra thế
này: Trên đường đi đón học sinh, bà tài xế bảo tôi: “Chốc nữa sẽ đón thằng
Sharlie, học lớp Ba, nó mắc bệnh hiếu động nên khi lên xe ông phải seatbelt cho
nó cẩn thận, đừng để nó chạy phá lung tung và ngồi bên cạnh trông chừng.” Khi
lên xe trông nó hiền như con mèo, rất dễ thương và để cho tôi làm nhiệm vụ. Bốc
nó xong, xe tiếp tục chạy trên những con đường có nhiều cây anh đào đang độ
khoe hoa. Tôi mê mẩn ngắm hoa và quên nhiệm vụ. Bỗng thằng Sharlie nhanh như cắt,
giật cái kính lão của tôi bẻ cái rụp. Bà tài xế nhìn kính chiếu hậu, thấy vậy
chẳng chút ngạc nhiên mà tủm tỉm cười và nói: “Tôi quên nhắc ông cất cái kính
vào túi, hai ông attendants trước đây đều bị nó bẻ kính. Nghe nói trong trường
thầy cô giáo đứng gần nó mà đeo kính là nó giật bẻ nát. Không hiểu sao thằng
này ghét người đeo lính đến thế. Mẹ nó đã bồi thường cho người ta hơn mười
cái kính. Bà ta là luật sư, rất tốt và sòng phẳng, rồi ông sẽ có cái kính mới.”
Kỷ niệm thứ hai
là bị thằng học trò hỏi “giấy phép hành nghề.”
Theo luật lệ của
Fairfax County Public Schools - các tài xế lái xe cho trường học (school bus
driver) và người phụ tài xế (school bus attendant) phải mang thẻ hành nghề
(badge). Hôm ấy, thằng John quậy phá gây ồn ào trên xe bus, tôi đến bảo nó ngồi
yên. Nó nhìn tôi với thái độ thách thức, hỏi: “Ông làm gì ở đây?” Nó hỏi thế là
vì hôm đó tôi để cái “thẻ hành nghề” khuất trong túi áo jacket, chứ nó còn lạ
gì tôi - nó đã đi về trên chiếc xe bus này với tôi cả ba năm nay. Tôi giận lắm,
nhưng kềm chế được, móc “cái thẻ hành nghề” giơ trước mặt nó, rồi nói: “Như vậy
đủ tư cách bảo mày im lặng được chưa?” Nó cúi mặt, nói: “Yes
Sir!”
Tôi muốn mắng nó
một trận cho hả giận, nhưng tiếng Anh của tôi thuộc loại “ba rọi” - có mắng, nó
cũng chẳng hiểu gì - không khéo khiến nó cười và coi thường cái uy của người
Attendant.
“Biết phận mình,
nên tôi rất “kiệm lời” khi nói tiếng Anh. Trong hơn mười hai năm làm attendant,
tôi chỉ nói hai tiếng thông thường: “Quiet please!” khi đám học trò quá ồn ào
và “Sit down please!” khi chúng nhao nhao đứng dậy chờ xuống xe khi xe chưa dừng
hẳn. Ngoài ra tôi chỉ cười và ra dấu.
Ấy vậy mà được
chúng nó thích và thương… Dịp Lễ Giáng Sinh, hay nghỉ hè, tôi nhận được những
món quà như gói kẹo chocolate, cái gift card của tiệm cafe Starbucks…từ những
bàn tay bé nhỏ với nụ cười và lời cảm ơn rất hồn nhiên ngây
thơ.
Bây giờ đã về
hưu, nhưng những hình ảnh thân thương nơi trường học vẫn sống mãi trong lòng
tôi và mới đây một sự kiện xảy ra khơi lại một kỷ niệm, làm tôi xúc động…
Hôm ấy tôi lái xe
trên con đường vắng, vừa quẹo phải, nhìn kính chiếu hậu thấy xe cảnh sát nháy
đèn và hụ còi, tôi biết nó bắt xe mình, tôi tấp vào lề - chờ! Một thằng cảnh
sát cao lớn đến. Tôi hạ kính xe. Hắn bảo: Driver’s Licence please. Tôi móc ví
đưa cho nó bằng lái xe. Hắn lấy bằng lái xe, đi về xe cảnh sát. Tôi ngồi chờ,
trong lòng có chút lo âu… Hơn năm phút sau hắn trở lại, hỏi: “Ông có biết bị phạm
lỗi gì không?” Tôi trả lời: “Không!” Hắn bảo: “Đoạn đường này tốc độ cho 30
miles, ông chạy đến 50 miles; thứ hai đến đèn đỏ không ngừng mà quẹo phải ngay
trên đường cấm quẹo khi đèn đỏ (No Turn on Red). Ba vi phạm này, ông có thể bị
rút bằng lái xe. Tôi thốt lên “Oh my God!”
Hắn nhìn tôi cười
cười, rồi hỏi: “Ông nhớ tôi là ai không?” “Không!” Hắn hỏi tiếp: “Ông còn nhớ
thằng John - học lớp Ba, trường Great Falls Elementary School không?” Tôi bóp trán
suy nghĩ, hình ảnh thằng John hiện ra, tôi trả lời: “Nhớ ra rồi! Cái thằng hay
quậy phá trên xe bus, làm tôi nhức đầu với nó, nhưng tôi lại thương nó nhất,
không biết lớn lên nó làm nghề gì, và đang ở đâu?”
Hắn có vẻ cảm động,
nhìn tôi, nói: “Nó làm cảnh sát và đang đứng trước mặt ông đây này.” Tự nhiên
tôi không còn xem nó là cảnh sát đang bắt tôi - sự ngăn cách biến mất và nói
đùa với nó như một người thân: “Mày đó hả John? Lúc nào mày cũng làm rối rắm đời
tao - lúc nhỏ mày hỏi tao cái thẻ hành nghề, bây giờ mày hỏi tao cái driver’s
license.”
Hắn cười, nắm lấy
bàn tay xương xẩu của tôi bóp nhẹ, rồi trả lại bằng lái xe và đưa tờ giấy vàng
cho tôi ký với lời ghi“cảnh cáo!” Nó đưa tay chào theo lối cảnh sát và
nói: “Take good care of yourself, old man!” Rồi quay gót. Trên đường lái xe về
nhà, lòng tôi rộn rã một niềm vui…
Khi còn làm việc, bạn bè thường bảo: “ông được hưởng lộc
già” - đi làm như “đi dạo mát xem hoa” còn được hưởng ba tháng nghỉ hè du lịch
đó đây.
Năm 2018, tôi về thăm quê nhà, bà con hỏi thăm bên Mỹ tôi
làm việc gì? Tôi ú ớ! Nói làm School Bus Attendant thì họ không hiểu, tiếng Việt
lại không có danh từ tương đương, tôi mô tả thì xem ra họ không hình dung được
cái “Thiên đàng tuổi thơ ở nước Mỹ.” Tôi suy nghĩ: công việc mình làm là giúp
tài xế lái xe School Bus, gần giống như anh “lơ xe” giúp tài xế lái xe đò ở Việt
Nam, nên tôi trả lời: Làm “lơ” xe bus.
Bà con, anh em và các cháu, ai cũng nhìn tôi với vẻ thương hại…
Lê Đức Luận