Từ hôm được gọi đi phỏng vấn xong và được chấp thuận,
chỉ còn đợi khám sức khỏe và thủ tục sắp xếp chuyến bay thì nhà tôi hôm nào
cũng vui như Tết. Những người bạn của ba tôi tụ họp lại bàn tán đủ thứ chuyện:
những chuyện nghe được ở quán cà phê, ở tiệm hớt tóc, những tin tức từ đài VOA,
BBC hay trong những lá thư của thân nhân gửi từ Mỹ về. Tôi có cảm giác phải chi
nếu kéo dài cuộc sống hy vọng như vậy chắc ba tôi sống thọ thêm vài chục năm nữa.
Có một buổi chiều, trong lúc ba tôi và hai ông bạn thân, bác Tín và bác Đăng,
đang ngồi uống cà phê, thì ông đại úy ở đầu xóm, đi học tập đâu cũng gần sáu
năm, cầm một tờ giấy chạy ào vô nhà tôi như một cơn lốc:
- Nè, mấy ông mở to con mắt lên mà đọc: con nhỏ em tôi
ở Mỹ, photocopy trang báo Văn Nghệ Tiền Phong gửi về cho tôi nè. Mỹ sẽ cho tụi
mình hưởng qui chế tị nạn, cùng với housing và trợ cấp hàng tháng, ít nhứt là một
năm đầu.
Bác Tín giằng lấy tờ giấy trên tay ông đại úy, lẩm nhẩm
đọc rồi thắc mắc:
- Housing là nhà cửa. Vậy tụi mình qua đó được cấp nhà
cửa sẵn sàng hết rồi. Nghe nói bên đó tiền nhà mắc lắm, tụi mình được cấp nhà sẵn
như vậy là đỡ lo rồi còn gì!
Bác Đăng làm ra vẻ hiểu biết:
- Hồi đó bọn Mỹ bỏ rơi tụi mình, bây giờ phải cưu mang
là phải đạo quá rồi! Nghĩ lại tụi mình bị tù cải tạo mấy năm mà bây giờ được tụi
nó "bốc" đi như vậy cũng không tiếc lắm.
Rồi bác hỏi thêm:
- Ờ mà ông có biết trợ cấp được bao nhiêu không?
Ông đại úy trợn mắt ngó bác:
- Gần ba trăm một tháng cho một đầu người. Tương đương
với một cây vàng. Nhà ông tám đứa con với hai vợ chồng mỗi tháng lãnh gần mười
cây. Nếu tụi Mỹ trợ cấp một năm thôi, là ông có một trăm hai chục cây. Một trăm
hai chục cây vàng ông nghe chưa? Ngồi ở không ăn suốt đời cũng không hết!
Mặt bác Đăng nghệt ra vì con số khủng khiếp mà ông đại úy vừa
đưa ra. Cả đời bác chắc chưa bao giờ có được trong tay mấy chỉ vàng. Một vợ tám
con với đồng lương sĩ quan ngày trước, chạy gạo đủ ăn đã là may phước lắm rồi!
Bác mơ màng tưởng tượng ngồi ôm một trăm hai chục cây vàng trong tay, cuộc đời
bác chắc sẽ bước sang một "khúc quanh lịch sử" mà bác không thể nào
hình dung nỗi.
Ba tôi đón lấy tờ giấy, lướt qua một chút rồi hỏi mượn ông đại
úy:
- Anh đi photo cho tôi một bản để tôi cho mấy người khác
coi.
Ông đại úy gật gù:
- Đi photo chứ anh, còn bản chính tôi phải ép plastic để rủi
rách biết tìm đâu bằng chứng hẳn hoi như vậy.
Vừa lúc đó má tôi từ dưới bếp bưng bình trà khác lên thay,
nhìn thấy nét mặt ông nào ông nấy hớn nhở như mừng mẹ về chợ, bà cũng phải phì
cười:
- Mấy ông làm như tiền Mỹ là tiền chùa, muốn có bao nhiêu
cũng được. Bên đó người ta cũng phải đổ mồ hôi xót con mắt mới có ăn, của đâu để
sẵn cho mấy ông qua bển hưởng!
Ba tôi gạt đi:
- Bà là đàn bà mà biết cái gì! Tụi tôi còn chưa bàn tới tiền
ráp-pen được truy lãnh từ năm 75 tới giờ là đã ... thực tế lắm rồi! Tiền trợ cấp
ở nước Tây Phương nào cũng có, để giúp cho dân thất nghiệp hoặc có lợi tức thấp.
Mình mới qua, tiếng Anh tiếng U còn ngọng nghịu, được hưởng trợ cấp cũng là một
điều hợp lý quá rồi còn gì!
Bác Tín tán đồng:
- Mình cũng đâu có ý định ăn bám suốt đời đâu! Có một số vốn
rồi mình mở cơ sở làm ăn, hay là tụi mình hùn vốn lại mở tiệm ăn Việt Nam cũng
được. Con nhỏ em tôi nói một tô phở bên đó bốn đô, tính ra tiền mình là hai chục
ngàn. Bên đây phở Pasteur tô bự nhứt cũng chỉ có năm ngàn, chị thấy chưa, một vốn
bốn lời!
Ba tôi ngó thấy nét mặt của má tôi có vẻ không thuyết phục,
bèn làm một màn giải thích thêm, như võ sĩ trên võ đài bồi thêm cho địch thủ một
cú đấm “knock out” để hạ đo ván:
- Vậy chứ tôi hỏi bà bên đó không dễ kiếm tiền sao thằng Khải
hồi đó lông bông, lương xài tuần lễ đã hết cứ chạy lên vợ chồng mình xin xỏ,
bây giờ qua đó nó cũng có nhà cửa xe cộ cơ ngơi đàng hoàng tử tế? Nếu không dễ
dàng sao ai qua bển mới có mấy tháng là đã gửi quà về cho thân nhân bên này? Bà
đã thấy có ai qua đó mà nghèo không, nói tôi nghe thử?
Má tôi tự dưng bị ba bốn người đàn ông xúm lại tấn công, bà
chống đỡ yếu ớt:
- Ông làm gì mà dữ vậy! Tôi có ở bển ngày nào đâu mà biết! Tại
thấy mấy ông lạc quan quá đáng nên mới có ý kiến ý cò một chút vậy thôi
mà!
Rồi bà đứng lên, vùng vằng vừa đi vào bếp vừa lẩm bẩm cằn nhằn:
- Mấy cha này bị Việt cộng “cải tạo” lâu quá rồi đâm ra ngớ
ngẩn. Một chỉ vàng bên đây bà con ruột thịt hỏi mượn còn chưa chắc được chớ đừng
nói gì một trăm hai chục cây vàng mà khi không người ta đem cho! Đúng là nằm
mơ!
Ba tôi và mấy người bạn không thèm đếm xỉa tới lời cằn nhằn
của má tôi, mấy người tiếp tục ngồi bàn tán xôn xao, mỗi người đều tự vẽ trong
đầu mình một tương lai vô cùng tươi sáng đang chờ đón mấy ổng ở Mỹ. Đâu phải ai
cũng dễ dàng có được những tương lai như vậy, nhứt là ở tuổi về chiều như ba
tôi, bác Tí hay bác Đăng.
Rồi mọi thủ tục khám sức khỏe và chờ lên danh sách chuyến
bay cũng xong xuôi, cả nhà tôi được báo hai tuần trước ngày lên đường. Má tôi
gom góp tất cả vốn liếng dành dụm sắm cho cả nhà những bộ đồ mới tươm tất. Tôi
cũng có một bộ đồ vest, bận vào ngó vào trong kiếng y như ... “gà khoác áo
tơi”. Thằng Đạt em trai tôi nhất định không chịu bận đồ vest, nó nói "dòm
như ông già", má tôi phải cằn nhằn:
- Mày ra phi trường ăn bận lôi thôi lết thết như thằng ăn
mày người ta ngó thì đừng có mắc cỡ!
Con Thúy, đứa em gái út của tôi, năm nay mới mười bảy, cũng
góp ý:
- Má để cho ảnh bận quần jean với áo thun cá sấu coi cũng lịch
sự vậy!
Má tôi giơ tay phân bua:
- Mình ra phi trường đi xuất cảnh ghé tới mấy nước chớ có phải
ra chợ Sài Gòn đâu! Ờ mà thôi tụi bây muốn bận cái gì thì bận, có mang chài
mang lưới gì thì cứ mang, tao mệt quá rồi! Còn mày nữa, Thúy! Sao chưa chịu bận
áo dài vô, còn chưa tới một tiếng nữa là đã đi rồi!
Con Thúy phụng phịu:
- Trời nóng như thiêu mà má bắt con trùm áo dài vô chắc chưa
qua tới đó con đã chết ngộp rồi.
Má tôi trợn mắt:
- Ăn với nói tầm bậy tầm bạ! Sắp sửa đi rồi mà không biết giữ
mồm giữ miệng. Tụi bây đứa nào đứa nấy lớn tồng ngồng cái đầu mà sao cứ để tao
la hoài vậy! Còn thằng Thăng đâu, kêu ba mày coi lại giấy tờ coi có thiếu cái
gì không, giờ này ổng còn đứng ngoài đó hút thuốc nữa. Chuyện gì mà nói hoài mấy
tháng nay cũng chưa hết!
Tôi ngó ra ngoài cửa thấy ba tôi đang đứng chia tay với mấy
người bạn. Ổng diện đồ vest vô coi cũng còn phong độ lắm, ít ra cũng còn hơn
cái dáng thảm não âu sầu cách đây mấy tháng. Ba tôi ân cần bắt tay từng người bạn
đến tiễn:
- Tôi qua bển trước rồi mấy anh qua sau. Tụi mình ở Cali hết
mà, thế nào cũng có dịp gặp lại.
Bác Đăng cẩn thận dặn:
- Tôi đi sau anh chắc cũng khoảng sáu tháng là ít, vì giờ
này cũng chưa được gọi phỏng vấn. Có gì anh nhớ viết thư về để tụi này biết rõ
tình hình bên đó nha.
Ba tôi cười an ủi:
- Chắc chắn rồi. Có gì lạ sẽ cho anh biết.
Chuyến bay chở gia đình tôi rời Tân Sơn Nhứt tới Bangkok vào
lúc trời chạng vạng tối. Ngó chung quanh toàn là dân đi đoàn tụ diện ODP hoặc
dân HO như gia đình tôi. Mọi người nói chuyện râm ran. Một cặp vợ chồng ngồi
cùng dãy ghế với tôi, gương mặt hớn hở như đi hưởng tuần trăng mật lần thứ hai.
Mà có lẽ vui hơn lần thứ nhứt là cái chắc. Hồi đó đám cưới xong, cùng lắm là
hai người tung tăng ở Cấp, hoặc thơ mộng hơn thì dìu nhau đi hồ Than Thở hay
thung lũng Tình Yêu ở Đà Lạt. Bây giờ thì họ sắp đến một vùng đất mà từ hồi cha
sanh mẹ đẻ chỉ được dòm trong sách báo hay phim ảnh, ở đó mùa thu có lá vàng rụng
đầy công viên thiệt là thơ mộng, hay mùa đông tuyết rơi lả tả ngồi ôm nhau bên
cạnh lò sưởi, khung cảnh ấm cúng làm cho tình yêu của họ càng thêm mặn nồng.
Người chồng khoảng ngoài ba mươi, vui vẻ bắt tay tôi làm quen:
- Em đi Mỹ hả? Ở tiểu bang nào vậy?
Tôi cười xã giao:
- Dạ em ở Cali vì ông chú bảo lãnh về đó. Còn anh?
Người chồng gật gù:
- Gia đình anh về Texas, chỗ cao bồi mọi da đỏ đó. Nghe nói
nóng lắm, nhưng chắc cũng đâu nóng bằng Sài Gòn mình, vả lại bên đó có máy lạnh
mà, lo gì phải không?
Chị vợ ngồi kế bên cũng góp chuyện:
- Em cho địa chỉ để mai mốt tụi này tới nhà chơi. Bên đó Mỹ
không, chắc gặp đồng hương cũng quý. Texas với Cali chắc cao lắm cỡ Sài Gòn Đà
Lạt, bên đây muốn đi thì chầu chực xe đò, chứ qua bển có xe nhà lái chừng một
tiếng là tới chứ mấy!
Tôi lấy cây viết ghi vội tên mình và địa chỉ chú Khải, đầu
óc lơ mơ nghĩ không biết khoảng cách từ Texas tới Cali là bao xa. Nhớ mang máng
trên bản đồ hình như cũng xa lắm, làm gì mà mất có một tiếng lái xe. Cái bà này
chắc chỉ nói cho sướng miệng!
Ở Bangkok mười ngày, gia đình tôi được đi thẳng Mỹ, trong
khi một số gia đình khác phải qua Phi học Anh văn sáu tháng. Ba tôi hãnh diện
nói với má tôi:
- Muốn đi thẳng Mỹ, ngoài diện HO phải là cấp tá trở lên và
đi học tập ít nhứt năm năm như anh vậy.
Má tôi xì một tiếng:
- Giờ ông nói hươu nói vượn gì không được.
- Vậy sao ông trung úy Nam đi chung chuyến với mình phải qua
Phi?
Má tôi trả lời:
- Chắc ổng chỉ đi diện ODP suông thôi, không được diện HO
như ông!
Chuyến bay phải ghé Tokyo mất sáu tiếng và sau đó bay thẳng
đến San Francisco. Trong phòng đợi của phi trường chờ nhân viên ICM làm việc,
ba tôi cứ nhấp nhổm ngồi không yên. Con Thúy và thằng Đạt mặt mũi bơ phờ ngồi ủ
rũ một góc vì bị say ... máy bay, không thèm để ý tới khung cảnh đẹp đẽ sang trọng
và tấp nập đang diễn ra trước mắt. Má tôi ngồi canh chừng mấy cái túi xách của
cả nhà, có cả bức tranh sơn mài thiệt lớn làm quà cho chú Khải.
Lúc bước ra khỏi cửa phi trường về phía chỗ thân nhân đón tiếp,
tôi đã nom thấy cái dáng bệ vệ của chú Khải. Chú bụm hai tay trước ngực, kêu lớn:
- Anh Khang, chị Nga!
Cả nhà tôi túa lại phía chú. Mới gặp chú tôi thấy hơi ngỡ
ngàng vì hình như tụi tôi ăn mặc còn... đẹp và lịch sự hơn gia đình chú nữa. Ba
tôi, tôi, và thằng Đạt ngượng nghịu trong ba bộ đồ vest cứng ngắc, má tôi và
con Thúy mặc áo dài "cho có vẻ tươm tất" như lời má tôi nói. Chú Khải
bận một chiếc quần short, áo thun không cổ áo, chân mang giày thể thao màu xám.
Cô Loan vợ chú thì bận bộ đồ thun như đang tập thể dục thẩm mỹ. Hay là "mốt"
bên này nó thế? Chú Khải cười tươi như hoa, giang rộng đôi tay như muốn ôm hết
cả nhà chúng tôi:
- Welcome anh chị và ba cháu tới Mỹ. Sao đi
máy bay có mệt không? Hội USCC vừa mới báo cho em hai hôm trước. Mấy đứa nhỏ lớn
dữ rồi nha. Anh sao, tụi nó có làm khó dễ gì không?
Chị Loan quay qua má tôi:
- Chị xem, ảnh hỏi như ăn cướp vậy ai mà trả lời cho kịp.
Trông chị đâu đến nỗi già chác lọm khọm như chị viết trong thư.
Má tôi cười:
- Già chứ Loan, năm chục rồi chứ bộ nhỏ sao. Ờ mà sao không
thấy thằng Vũ vậy?
- À nó đi làm không xin phép nghỉ được, chiều về nhà anh chị
gặp nó luôn.
Nhà chú Khải ở ngoại ô San Jose, cách phi trường San
Francisco chưa đầy hai giờ lái xe. Chiếc xe van của chú chạy bon bon trên đường
phố, vừa lái chú vừa giải thích cho ba tôi, tôi và thằng Đạt những khu phố hai
bên đường. Tôi đưa mắt ngó ra ngoài qua khung cửa kính xe, những tòa nhà cao ngất
ngưởng, những chiếc xe đủ màu đủ kiểu bóng loáng chạy vùn vụt bên cạnh, kèm
theo những cái tên lạ hoắc do chú Khải giải thích. Xứ Mỹ đây sao? Thành phố San
Francisco đây sao? Cầu Golden Gate mà tôi đã từng cầm tấm post card ngắm nghía
hàng giờ đây sao? Nhìn tận mắt nó cũng đâu đến nỗi vĩ đại như tôi tưởng tượng.
Cuối cùng rồi gia đình tôi cũng đã tới Mỹ, sẽ bắt đầu một cuộc sống mới tràn đầy
hy vọng.
Nhà chú Khải ở ngoại ô San Jose. Chú nói ở đây giá nhà rẻ
hơn một chút nhưng đi làm mất gần cả tiếng đồng hồ. Chú nói nhà nhỏ và cũ vì đã
hơn mười tuổi, nhưng tôi thấy nó đẹp gọn ghẽ và... mới tinh. Chú kể chú đang
làm cho một hãng điện, còn cô Loan thì làm trong nhà băng, còn thằng Vũ con chú
đã ra trường đại học, hiện tại nó vừa đi làm vừa đi học lấy bằng master mà chú
giải thích tương đương với bằng phó tiến sĩ. Trời đất, thằng Vũ nhỏ hơn tôi hai
tuổi, ngày xưa tới nhà chơi tôi còn dẫn nó đi mua cà rem, vậy mà bây giờ nó đã
sắp học xong phó tiến sĩ, còn tôi chỉ mới xong cái bằng... tốt nghiệp phổ
thông.
Buổi tối cô Loan sắp xếp chỗ ngủ cho cả nhà. Ba má tôi nghỉ ở
phòng đọc sách, chú Khải mới kê cái giường cho ông bà vô ngủ tạm. Con Thúy được
thằng Vũ nhường phòng của nó, còn nó và anh em tôi ra family room nằm
ngủ. Nằm trằn trọc trong bóng đêm, ngó cái hồ cá có nước chảy róc rách, tôi lan
man nhớ lại bữa ăn tối hồi nãy. Chú Khải cười nói luôn miệng, cô Loan thì tỏ vẻ
săn sóc con Thúy, cô cứ xuýt xoa phải chi cô có con gái lớn như vầy thì tha hồ
cô dẫn đi shopping. Ba tôi thì cười bằng đuôi mắt và bằng cả tay chân nữa. Ngày
đầu tiên trên xứ Mỹ đã không làm tôi thất vọng quá đáng vì sự vồ vập thân tình
của cả nhà chú Khải.
Thằng Vũ an ủi tôi:
- Mai mốt anh đi học lại, bốn năm là ra trường kỹ sư, không
khó lắm đâu.
Tôi cười gượng gạo:
- Tao bỏ lâu rồi hổng biết giờ đi học lại có nhớ gì không nữa.
Hồi còn đi học mà còn học dở, huống gì đã bỏ gần mười năm nay!
Chú Khải lắc đầu:
- Vậy chứ chú thì sao? Hồi đó mới qua chú phải vừa đi làm
ban ngày, buổi tối đi học thêm hai năm. Sau này cô Loan đi làm có “income” chú
mới “quit job” đi học luôn bốn năm.
Cô Loan nhắc khéo:
- Anh nói chuyện chêm tiếng Mỹ nhiều quá tụi nhỏ nghe đâu có
hiểu kịp.
Chú Khải cười hề hề:
- “Sorry”, tại chú quen miệng. Tiếng Anh của chú cũng dở ẹt
nhưng tại mấy chữ quen dùng nên chú buột miệng vậy thôi. Nghe chú nói có cái gì
không hiểu thì hỏi lại nghe.
Ba tôi lên tiếng:
- Tụi nó là con cháu mà, hơi đâu mà chú khách sáo! Mấy đứa
bây nữa, ăn đi chứ, làm cái gì mà ngồi ngẩn người ra hết vậy?
Tôi ngồi ngó bàn ăn ê hề những chén những dĩa mà thấy ớn
ngang xương. Má tôi với con Thúy cũng khều vài đũa cho có lệ rồi ngồi nhâm nhi
ly nước. Chỉ có thằng Đạt là chiếu cố tận tình. Ba tôi hỏi chú Khải:
- Bên đây mấy người cựu sĩ quan có sinh hoạt gì không
chú?
- Thì mấy ổng cũng có hội riêng tùy theo binh chủng, mỗi năm
hội họp ba bốn lần gì đó để biểu tình ngày 30 tháng 4, hoặc để tổ chức hội chợ
vào dịp Tết. Em bận bịu đi làm nên cũng không có gia nhập nên cũng không rành lắm.
- Còn về vụ trợ cấp cho người mới tới như gia đình anh chị
thì sao?
- À, nếu là tị nạn, tụi Mỹ nó gọi là “refugee”, như mấy người
vượt biên ở bên đảo sang, thì được hưởng trợ cấp trong năm đầu nhưng phải theo
học chương trình huấn nghệ của họ. Còn anh chị thì vì do em bảo lãnh nên là diện
“immigrant”, tức là diện di dân, không có trợ cấp gì hết!
Ba tôi há hốc mồm:
- Không có gì hết?
Chú nói sao anh nghe không rõ?
- Thì không có trợ
cấp chứ sao! Ngay cả tiền vé máy bay của anh chị, tụi em cũng phải đóng trước.
Má tôi chen
vào:
- Hết bao nhiêu vậy
chú?
Chú Khải vói tay
lấy lon bia, coi bộ không chú ý lắm:
- Khoảng chín
trăm mấy một người.
Má tôi lẩm bẩm:
- Vậy là gần cả
ngàn cho một người. Như vậy là chú đóng gần năm ngàn tiền vé máy bay cho gia
đình anh chị?
Chú Khải khoát
tay:
- Thì coi như anh
chị đi vượt biên đóng vàng vậy mà.
Rồi chú pha
trò:
- Nhưng như vậy
thì coi bộ an toàn và chắc ăn hơn, phải không nào?
Từ sau khi biết
được chú Khải phải tốn gần năm ngàn tiền vé máy bay, không khí trên bàn ăn bỗng
trở nên khác hẳn. Tôi nhẩm tính ra khoảng mười lăm cây vàng, cả một gia tài cho
một gia đình ở Việt Nam. Rồi còn việc không có trợ cấp nữa. Tiếng Anh tiếng u lại
không biết. Không lẽ gia đình tôi cứ phải ăn dầm nằm dề ở nhà chú Khải sao? Để
tránh cho mọi người khỏi sự ngượng ngập, chú Khải cười xuề xòa:
- Mới qua bước đầu
thì ai cũng gặp khó khăn nhưng rồi đâu cũng vào đấy. Cuộc sống mà, ở đâu cũng
có những khó khăn của nó, nhưng ít ra bên này mình còn cảm thấy mình có tương
lai hơn. Hồi mới qua em cũng xuống tinh thần dữ lắm. Tiếng Anh thì không biết,
học vấn thì chỉ có bằng tú tài một, nhiều đêm đi làm cu li chùi cầu tiêu tới ba
bốn giờ sáng mới về tới nhà, thấy đời đen như mõm chó. Nhưng mình qua đây đâu
phải để làm những chuyện đó đâu! Cái gì bắt đầu cũng khó. Anh chị và mấy cháu
qua hơi trễ, nhưng trễ còn hơn là không bao giờ! Tụi Mỹ nó kêu là, “later
better than never”! Dù gì cũng còn có tụi em!
Ba tôi cảm động:
- Cám ơn chú! Anh
chị và mấy cháu không làm gánh nặng cho gia đình cô chú đâu. Chú kiếm việc gì
cho anh và mấy cháu làm, việc gì cũng được, nhà anh không sợ vất vả! Thằng
Thăng đó, hồi đó cũng có đi làm thợ bánh mì một thời gian, cũng thức hôm thức
khuya nhồi bột, canh lò, nướng bánh. Thằng Đạt coi nhỏ con chứ cũng khỏe lắm
nha, nó ăn như tằm ăn lên, mà mình dây nên ốm nhom ốm nhách như sống sót sau trận
đói Ất Dậu 1945. Phải không mấy đứa? Còn anh tuy lớn tuổi một chút, nhưng miễn
người ta mướn thì mình làm. Chú thấy sao?
Chú Khải gật
gù:
- Từ từ rồi tính.
Anh chị mới qua cần phải nghỉ ngơi một thời gian, nhứt là cho quen với giờ giấc
bên này. Thời gian đầu anh chị sẽ ngủ ngày thức đêm vì quen với giờ giấc bên
nhà. Vài ba tuần nữa, anh chị sẽ học lái xe và học Anh văn trước.
Ngó về phía chúng
tôi, chú tiếp:
- Mấy đứa phải
ráng chịu khó vài năm đầu, đi học ESL trước rồi vào college. Có thằng Vũ nó chỉ
dẫn cho. Ở đời không có gì tự dưng mà có. Nhưng không phải quá khó mà mình
không làm được, miễn là mình đừng cao vọng quá hay bon chen những việc vượt quá
khả năng. Thôi, kể chuyện Sài Gòn cho tụi em nghe đi. Chuyện đời sống bên đây rồi
từ từ anh chị sẽ biết hết mà.
Bữa ăn lại tiếp tục
vui vẻ, nhưng mỗi người trong nhà tôi lại theo đuổi những ý nghĩ riêng. Tôi chợt
nhớ tới những người bạn của ba tôi, những người đang chờ đợi bên nhà và sắp sửa
qua đây. Liệu họ có may mắn gặp được một người thân tốt bụng như chú Khải
không? Mà nói cho cùng, nếu họ có thất vọng với cuộc sống bên này đi chăng nữa,
thì chắc rồi họ cũng sẽ vượt qua được. Sau bảy lăm, cuộc đổi đời làm tan hoang
biết bao nhiêu gia đình vậy mà họ cũng lây lất và tồn tại, thì sá gì một vài thử
thách ban đầu ở vùng đất hứa hẹn này.
Một tuần sau chú
Khải mướn cho gia đình tôi một căn apartment riêng. Ba cha con
tôi làm janitor cho một building ở ngay trung tâm thành phố.
Công việc bắt đầu từ tám giờ tối tới gần sáu giờ sáng mới xong. Mấy hôm đầu,
sáng nào má tôi cũng thoa dầu nóng cho ba tôi, mặc dù hai anh em tôi lãnh hết
những công việc nặng, ổng chỉ lau chùi những bàn ghế trong văn phòng. Má tôi vừa
xức dầu thoa lưng vừa cự nự:
- Cái tướng ông
trói gà không chặt mà bây giờ bày đặt đi làm cu li. Hồi đó ở Việt Nam cứ tưởng
qua đây ngon lắm.
Ba tôi cười hì
hì:
- Ở bển thì giống
như ếch ngồi đáy giếng, với được tin gì nghe phấn khởi một chút là tin sái cổ để
còn lý do mà sống. Chứ tôi hỏi bà, đời sống vật chất đã khổ như vậy, nếu không
có nguồn hy vọng nào cho tương lai thì làm sao người ta sống nỗi.
Má tôi xì một tiếng:
- Hồi đó thấy ông
lạc quan quá đang mà tôi đâm bực. Sao, hổm nay làm đã quen chưa? Nếu thấy mệt
quá kham không nổi thì nghỉ đi, tôi nói thằng Thăng kiếm việc gì đó ban ngày
làm thêm đôi ba tiếng nữa.
Ba tôi nhỏm dậy:
- Đâu có được bà!
Tôi làm hơi cực một chút nhưng thấy thảnh thơi hơn bên nhà. Dù gì mình cũng còn
có ích. Để tụi nó đi học ESL, biết chút ít tiếng Anh rồi sau này đi học đại học
kiếm cái bằng, chứ hổng lẽ bà muốn ba cha con tôi đi chùi cầu tiêu với lau
“toilet” suốt đời hay sao?
Rồi ông quay sang
tụi tôi, lớn tiếng hỏi:
- Mấy đứa ghi
danh đi học ESL chưa?
Thằng Đạt nhanh
miệng:
- Người ta đi học
cả tuần nay rồi mà bây giờ ba mới hỏi đã ghi danh chưa.
- Tụi bây đi hồi
nào mà sao tao không biết?
- Giờ đó ba còn nằm
ngáy khò khò trong phòng còn biết trời trăng gì nữa. Ờ có thư của bác Tín dưới
Los gửi lên cho ba, hồi tối thằng Vũ có ghé đưa mà con quên đưa cho ba.
- Đâu xé ra cho
tao đọc thử. Ông này đi sau gia đình mình hai tháng nè. Thằng cha này cũng thuộc
loại "lạc quan không có cơ sở" như má mày nói,
Ba tôi xé phong
thư ra, ngồi đọc rồi cười từng chập. Má tôi đợi ông đọc xong mới tên tiếng hỏi:
- Ông Tín viết có
gì vui mà thấy ông cứ cười mỉm chi cọp hoài vậy?
Ba tôi cười hề hề:
- Thằng cha Tín mới
qua có ba tuần mà đã đi làm bốn job rồi. Việc nào thằng chả cũng nói chả không
có năng khiếu. Đi cắt cỏ nhà người ta thì chỗ lồi chỗ lõm như đầu ba vá. Đi rửa
chén thì mỗi đêm làm bể cả chục cái, tiền lương không đủ tiền đền. Đến lúc đi bỏ
báo ban đêm thì mắt quáng gà, nhà mua thì không ném báo, nhà không mua thì đem
liệng trước cửa nhà người ta. Chả nói mới qua đây chưa đầy một tháng mà tóc đã
bạc phơ như Ngũ Tử Tư, lại không có bạn bè than thở tán dóc uống cà phê nhàn
nhã như hồi còn bên nhà. Chả nói vùng đất hứa gì lạ quá, không giống cái thiên
đường mà thằng chả vẽ vời tơ tưởng trong đầu. Ờ, thằng cha có nhắc tới cha
Đăng, cha trung úy một vợ tám con mà có lần cha Tín nói là ổng sẽ lãnh được một
trăm hai chục cây vàng đó, bà nhớ không?
- Ờ ông Đăng chừng
nào đi?
- Chắc cũng vài
tháng nữa. Có lẽ tôi sẽ viết thơ về kể cho ông nghe đời sống thực tế bên này, để
ổng tỉnh giấc mộng kê vàng của ổng. Đi trễ vài tháng, sống trong hy vọng được
thêm vài tháng, rồi qua đây trở lại thực tế, phải không bà?
Má tôi mơ
màng:
- Cũng may ông
còn có chú Khải sống hết mình với gia đình mình. Không biết rồi mình sẽ trả ơn
chú ấy bằng cách nào đây?
Nghe nhắc đến chú
Khải, tôi mới chợt nhớ tới tối nay phải gọi cho thằng Vũ để hỏi mượn mấy cuốn
sách toán lý hóa để ôn lại trước khi ghi danh đi học ở đại học cộng đồng vào
mùa thu năm tới. Bỏ trường lớp gần mười năm nay rồi, tôi biết trước là mình sẽ
vất vả rất nhiều. Nhưng có sao đâu, con bé lọ lem đã dự dạ tiệc xong, chuông đồng
hồ nửa đêm đã điểm. Gia đình tôi và còn biết bao nhiêu gia đình khác đang đi kiếm
chiếc hài làm rớt trên đường chạy vội ra chiếc xe song mã. Chuyện cổ tích nào lại
không có một kết cuộc tốt đẹp. Bây giờ tôi nghĩ mình có quyền ước mơ chứ, những
ước mơ nhỏ bé nằm trong vòng tay với mà tôi nghĩ mình có thể thực hiện được.
Tôi sẽ trở lại trường, sẽ đi học lấy cái bằng chuyên môn, và rồi sẽ có một cuộc
sống tương đối ổn định. Giấc mộng kê vàng của bác Tín hay của ba tôi cũng đâu
phải là một chuyện gì kinh thiên động địa lắm đâu! Tôi nhớ ba tôi vẫn thường
hay nói: "Xứ Mỹ là xứ cơ hội mà". Có đúng như vậy hay không?
...
Ngọc Duy