Độ này bỗng dưng có rất nhiều điều gây kinh ngạc cho nhiều
người bạn của tôi, và nhất là cho tôi.
Trước hết, câu chuyện về một người đã lớn tuổi. Tại sao hắn đau đã ba tháng rồi mà chưa lành? Trước kia, dù tuổi đã cao, hắn khỏe mạnh, linh hoạt, lạc quan. Tất nhiên cũng có lúc trái gió trở trời hắn bị bệnh, lâu lắm là một tháng, rồi bình phục. Nay dây dưa mãi, tay chân yếu dần, teo tóp lại, đi lảo đảo, ăn không vô, ngủ không yên. Bác sĩ tìm không ra nguyên do. Hắn buồn rầu bảo với bạn bè rằng rằng nếu một tháng nữa tình trạng đó vẫn không thay đổi, hắn sẽ chuẩn bị cho một chuyến đi xa không bao giờ trở lại. Nếu vậy, cuộc sống của con người là một thất bại. Chẳng khác gì “cái quay” như nhà thơ cổ điển Nguyễn Gia Thiều từng nói trong Cung Oán Ngâm Khúc: “Cái quay búng sẵn lên trời/Lờ mờ nhân ảnh như người đi đêm.” Vâng, sống đó, chết đó, như bọt nước, như mây nổi bèo trôi. Đáng kinh ngạc đấy chứ.
Lại có cái kinh ngạc không đáng kinh ngạc một chút nào cả. Tại
sao cây cối mọc rễ cứ đứng mãi tại một chỗ cho đến khi chết nếu không được người
ta di chuyển đi nơi khác? Tại sao dám khẳng định rằng gỗ đá vô tri? Tại
sao ngọn lửa đỏ rực làm chói mắt khi tắt thì nó biến đi đâu, về đâu? Tại sao,
cũng vậy, một tiếng nổ làm đinh tai nhức óc rồi im bặt, chẳng nghe thấy tăm hơi
đâu cả? Nhưng chuyện này thì lại khiến tôi kinh ngạc hơn cả. Tại sao, một hôm,
lúc đó đã chạng vạng tối, một hiện tượng vô cùng lạ lùng xuất hiện trên bầu trời:
vòm trời biến thành cái vung trùm lên mặt đất trên đó hàng trăm đường cong
trông giống như những dải lụa khổng lồ phát xuất từ trung tâm điểm của
vòm cao buông tỏa xuống. Những dải lụa màu xám nhạt đó nằm cách nhau rất đều đặn.
Hiện tượng đó chỉ kéo dài trong mấy phút. Tôi hỏi người bạn cùng đi, nó nói chẳng
thấy gì hết. Vô lý. Hay là tôi bị ảo giác, mộng mị? Tôi bị ai thôi miên? Hay là
bị quỷ ám? Nhưng quả thật tôi không bịa đặt câu chuyện để làm quà nhảm nhí cho
bạn đọc.
Những câu hỏi vớ vẩn và ngớ ngẩn ấy có lẽ đã được khoa học
trả lời rồi chăng?
Và tại sao loài người bây giờ lại đua nhau nói láo ghê khiếp
đến thế? Trước đây mươi năm, chuyện đó đâu có xẩy ra. Đặc biệt có những đấng
tai to mặt lớn, những nguyên thủ quốc gia, lại có thể nói láo, hoặc vu khống,
hoặc bịa chuyện hết sức ngang ngược, trắng trợn. Tin tức do họ tung ra
thường do óc tưởng tượng, giả tạo, “hư cấu”. Để bôi nhọ người bất đồng ý kiến,
để hãm hại đối thủ.
Trước kia bị mắng “đồ nói láo” là một sỉ nhục không thể
chấp nhận được. Đấu súng! Một chết một còn! Nay lời mắng đó như nước đổ đầu
vịt.
Nhưng tại sao những dối trá, vu khống, ngược ngạo, đổi trắng
thay đen, vẫn được loài người thông minh biết phân biệt đúng sai, phải trái, lại
dễ dàng làm ngơ, hoặc tha thứ, hoặc toa rập? Hay chí ít giữ im lặng. Khiến cho
những kẻ thiếu thông tin, thiếu suy xét, bị đánh lừa, bị lôi kéo vào những âm
mưu đen tối, những tội ác khủng khiếp, đưa loài người tới bờ vực của chia rẽ, hỗn
loạn, chém giết, hủy diệt. Nhất là khi lời nói láo được tung ra bởi một
người có quyền lực trước một đám quần chúng cuồng tín, dễ bị dụ dỗ, lung lạc.
Người nói láo bị lên án đã đành, người toa rập đáng lý ra
cũng cũng phải lãnh một phần trách nhiệm trước luật pháp do con người đặt ra,
và trước tòa án lương tâm mà con người mặc nhiên chấp nhận. Thế người giữ im lặng
trước sự dối trá, gian lận, lừa gạt là người vô can chăng? Có một câu phát biểu
nổi tiếng đại khái như thế này: Loài người sẽ bị hủy diệt không phải do kẻ
ác, mà là do kẻ thấy cái ác mà vẫn cứ làm ngơ.
Tôi bỗng nhớ trên báo chí đã lâu lắm vô cùng xôn xao về
một chương trình truyền thanh trực tiếp có tính cách giải trí, chẳng khác gì
chương trình ca nhạc, thoại kịch v.v… trên đài phát thanh. Chuyện này cũng có
ít nhiều liên quan tới thời sự bây giờ, tức là thời của hư cấu, bịa đặt, giả mạo,
lừa gạt, AI. “Người trình diễn là Orson Welles.
George Orson Welles là một người Mỹ tài ba. Là một ngôi sao
điện ảnh, một nhà sản xuất phim, một nhà truyền thông, một nhà văn. Mới 21 tuổi
ông đã vừa là nhà sản xuất, vừa đóng vai chánh trong phim Citizen Kane nổi
tiếng, được xem như là một trong những phim giá trị nhất của nền điện ảnh Hoa Kỳ
từ trước đến giờ. Năm 23 tuổi, ông trực tiếp truyền thanh câu chuyện người Sao
Hỏa tấn công địa cầu, phỏng theo một tiểu thuyết của H. G. Wells.
Orson Welles đã trình diễn trên đài phát thanh một cách hùng
hồn, lôi cuốn, và vô cùng sinh động. Thính giả nào được nghe từ đầu với đầy đủ
lời giới thiệu thì biết được đấy chỉ là chuyện hư cấu. Nhưng có nhiều người
không nghe được phần giáo đầu, tưởng là chuyện có thật, thế là hoảng hốt chạy
trốn, dày xéo lên nhau, hỗn loạn, thương tích, chết chóc.
Tuy nhiên sự kiện này mới gây kinh ngạc. Nhiều người
đã biết đấy là một chương trình truyền thanh giải trí, và đã nghe được từ đầu.
Nhưng khi thấy người ta đua nhau chạy, trong khi tai vẫn nghe Orson Welles gào
thét trên đài, thì lại nghĩ rằng biết đâu người Sao Hỏa quả đã thực sự vừa
mới ập xuống Trái Đất, trong lúc chuyện hư cấu vẫn đang được trình diễn mua
vui. Vậy thì trong ba mươi kế, chạy là thượng sách. Họ hoảng hốt không kém, cắm
cổ chạy thục mạng theo đám người thiếu thông tin nói trên.
Có lẽ những đấng chuyên môn nói láo rất am hiểu tâm lý người
nghe, cho rằng họ là bọn người dễ tin, dễ bị thuyết phục, dễ bị đánh lừa.
Ngoài ra người nói láo biết rằng cứ việc kiên nhẫn, dai dẳng
nói láo, lâu ngày lời nói láo “tự nhiên” biến thành lời nói thật. Lượng với thời
gian biến thành phẩm? Lại nữa có khi người nói láo bị bắt quả tang, “chí nắm đè
tay”, vẫn tiếp tục nói láo một cách trân tráo, không buồn cải chính. Tại sao vậy?
Thứ nhất, luật pháp không trừng trị tội nói láo. Thứ nhì, chuyện nói láo khi bị
kiểm chứng phát hiện thì có người nghe được, có người không. Vậy cứ việc nói
láo, người nào không nghe được phần kiểm chứng sẽ tin là thật. Ngay cả khi người
nói láo buộc lòng phải cải chính – chuyện hiếm khi xẩy ra – cũng vậy, có người
nghe được lời cải chính, có kẻ vì bận công này việc nọ cho nên không biết gì
thêm, thì tên nói láo sẽ cười thầm trong lòng rằng số người nghe cải chính hôm
nay chắc chắn không nhiều bằng số người nghe nói láo hôm qua. Làm một phép toán
trừ đơn giản, hắn cho rằng nói láo vẫn có lợi hơn.
Và điều này cũng đáng gây kinh ngạc. Có người suy nghĩ một
cách “vô tư” rằng đã lỡ nghe nói láo thì phải sẵn sàng nghe tiếp không
chút thắc mắc. Phóng lao phải theo lao mới là hành động chân chính, quân tử.
Đấy là chưa kể vì quyền lợi tiêng tư, vì tánh khí giống nhau, hãy thỏa hiệp với
tên nói láo.
Cái gì liên quan đến loài người đều quá đỗi phức tạp, rối rắm,
hỗn loạn, phi lý, sẽ không bao giờ lý giải cho hết được. Hay là hãy thử để mắt
nhìn vào chuyện loài vật cho khỏe trí hơn. Súc vật không biết nói láo, “thương
thì nói rằng thương, ghét thì nói rằng ghét”. Chuyện sư tử, và mèo chẳng hạn.
Nhưng nỗi kinh ngạc sẽ vẫn đeo đẳng, kinh ngạc một cách thoải mái, vui mừng,
xúc động.
Một chuyện nhiều người đã biết. Một người nuôi một con sư tử
từ bé. Lúc nó lớn lên độ năm, sáu tuổi, có đủ sức mạnh và sự khôn ngoan cần thiết,
anh ta thả nó vào rừng hoang. Vài ba năm sau, anh có dịp đi đến một khu rừng
khác khá xa, bỗng một con sư tử to lớn từ đâu chồm tới vồ lấy anh. Nó đứng thẳng
người lên, cao hơn anh, hai chân trước quàng quanh vai anh, không giương móng
vuốt ra, dụi đầu vào anh như đứa bé dụi đầu vào lòng mẹ. Đến lúc đó anh mới
biết đấy là con sư tử anh đã nuôi nấng ngày trước.
Một chuyện khác lạ hơn. Một con sư tử đầu đàn, to lớn,
dũng mãnh, chộp được một con beo, cắn vào cổ họng, sắp xé xác ra để ăn thịt. Bỗng
bốn năm con sư tử cái nằm gần đấy phóng tời tấn công nó, con sư tử đực đành phải
nhả con mồi ra, chạy giật lui từng bước gượng gạo. Lại cái trò giành mồi, tranh
ăn chứ gì. Nhưng không phải thế, mấy con sư tử cái đều thủng thẳng bỏ đi nơi
khác. Con báo vẫn cứ nằm tại chỗ, nằm ngửa mình, bốn chân quờ quạng, chưa
dám nhổm lên chạy. Con sư tử đực đứng phân vân trong chốc lát, rồi từ từ quay
trở lại, hai chân trước nhanh nhẹn vồ vào con mồi. Mấy con sư tử cái không để
yên, lại can thiệp, lần này càng quyết liệt hơn lần trước. Con sư tử đực đành
phải bỏ đi hẳn.
Chuyện đáng kinh ngạc là làm thế nào mà bốn năm con sư tử
cái đều đồng loạt nhảy vào bảo vệ con báo? Chúng nó hội ý nhau lúc nào vậy?
Nhưng trường hợp này còn ly kỳ hơn nữa. Một con sư tử
cái ở châu Phi chịu đói chịu khát suốt mấy tuần lễ vì muốn che chở cho một con
nai mới ra đời khi mẹ nó bị những con sư tử khác ăn thịt cách đấy không xa.
Con nai con chập chững đi trước, con sư tử đi theo sau canh
chừng, không rời nửa bước. Con nai con lớn lên nhanh, đi đứng khỏe lên
nhanh, biết dừng lại nơi nào để ăn cỏ, lá cây non, và uống nước tại những cái
vũng nhỏ ven đường. Nó quấn quýt bên con sư tử như con đối với mẹ. Con sư tử nhịn
đói vì không dám chạy đi săn mồi một mính, sợ thú rừng ăn thịt con nai. Nhưng một
hôm nhịn khát không nổi, ven đường không gặp được một vũng nước nào, nó đưa con
nai con đến một gốc cây, rồi đi xuống dòng suối. Lúc quay lại, không thấy con
nai đâu cả. Chẳng khác gì người mẹ tìm đứa con thơ thất lạc, nó đi sục sạo tìm
con nai con khắp nơi, càng ngày nó càng càng phờ phạc, ốm nhom, tiều tụy.
Giống sư tử vốn nhiều tình cảm, nhưng con sư tử này quả là đặc
biệt. Nó không chỉ sống theo bản năng, theo thói quen lâu đời truyền lại từ thuở
hồng hoang. Tình cảm của nó sâu xa, lòng thương xót của nó bao la, khác hẳn
dòng giống của nó. Nó là con sư tử duy nhất có đức tính vừa nêu chăng? Có lẽ
không phải thế. Trong rừng sâu chưa có vết chân người, biết đâu thỉnh thoảng xuất
hiện giống sư tử đó. Hoặc giả đấy cũng chỉ là một con sư tử bình thường như
ngàn vạn con khác, nhưng trong một phút thức tỉnh, hay để dùng chữ của nhà Phật,
trong một sát na đốn ngộ, tâm tính nó chuyển hóa?
Những câu chuyện nói trên được xem trên mạng YouTube.
Chuyện dưới đây mới là chuyện người viết chứng kiến tận mắt. Xin khẳng định rằng
người viết không cường điệu một chút nào cả. Tất nhiên bạn đọc có thể nghĩ
khác, tùy ý.
Hồi còn sống trên quê hương trước năm 1975, nhà tôi có nuôi
chó và mèo. Tôi và thằng con trai thích chó hơn, trái lại vợ tôi và ba đứa con
gái thích mèo hơn.
Con mèo tam thể mới lớn, dịu dàng, xinh đẹp, trông như một
nhánh hoa rực rỡ. Ba màu trắng phau, đen nhánh, đỏ hồng, đứng cạnh nhau nổi bật.
Nhánh hoa tươi thắm đó lúc thì được chưng trên mặt bàn, lúc thì nở rộ nơi góc
tường, khi thì nép mình dưới kệ sách, khi thì khoe sắc cạnh cửa ra vào.
Không nuôi nó để bắt chuột, mà để vui nhà vui cửa. Để trang hoàng nữa chứ.
Nó được yêu mến, cưng chiều vô cùng. Nó không hề đi ra khỏi
nhà, cùng lắm đứng ngồi thơ thẩn trước hàng hiên như nàng khuê nữ lơ đãng nhìn
ngắm phố phường. Thế mà một hôm không thấy nó đâu cả. Mấy đứa con gái chạy
qua hàng xóm hỏi han, rồi quan sát mặt đường xem có dấu vết nó bị xe cán chăng.
Không tìm thấy. Có lẽ nó bị người ta bắt cóc. Mấy đứa con gái, đứa nào cũng
rưng rưng nước mắt.
Chỉ một tuần sau, vợ tôi xin được một con mèo còn nhỏ, lông
trắng, đầu hơi to, mắt vàng khè, chân dài. Một con mèo đực.
Mấy đứa con tôi vốn thích mèo nhưng có vẻ không mặn mà với
con mèo trắng này cho lắm. Làm sao quên ngay được những kỷ niệm đối với con mèo
vừa mất để có thể hân hoan đón mừng con mèo mới, nhất là khi con mèo mới này
không thể nào sánh với con mèo tam thể đẹp như hoa, sang trọng và nhõng nhẽo
như mấy “cô gái trong nội”. Nhưng nó cũng được hỏi han, vuốt ve chiếu lệ.
Cho nên con mèo vẫn rụt rè, bỡ ngỡ, không tỏ vẻ thân thiện với những người chủ
mới. Rồi ai nấy vội vàng trở lại với công việc của mình, quên bẵng con mèo. Đến
giờ ăn trưa, sực nhớ, thì nó đã biến đi đâu mất. Cả nhà đi tìm khắp nơi , không
thấy.
Đứa con gái út đưa ra ý kiến rằng từ sáng đến giờ nó chưa được
cho ăn, chắc đói lắm. Vậy hãy trộn chén cơm nhỏ và nóng với cá rán, lấy
muỗng gõ vào chén, kêu to meo meo, dụ nó ra khỏi chỗ trốn. Cũng vô ích.
Cuối cùng đành bảo nhau rằng nó đã theo chân con mèo tam thể bỏ nhà đi biệt.
Sau bữa ăn tối, vợ tôi mở máy may ra định xuống lai quần tây
dài của thằng con trai. Khi lần tay vào cái hộc bên dưới máy may hở hai đầu để
tìm cái kéo, thì đụng phải con mèo. Nó nằm cuộn tròn dưới mấy lớp vải
dày. Ba đứa con gái la ồ lên ngạc nhiên.
Như để chuộc cái lỗi đã không tiếp nhận nó một
cách niềm nở, ba đứa bé cuống quýt, vồn vã phục vụ con mèo tìm thấy lại. Chén
cơm trộn cá được hâm lại cho nóng thêm một chút, lại có một tách sữa nhỏ, đặt
trước con mèo. Ba đứa trẻ ngồi quanh chăm chú nhìn. Con mèo tỏ vẻ hài lòng ngồi
ăn thủng thẳng, thoải mái, dạn dĩ dần. Nhưng chỉ ăn hơn một nửa chén cơm, nó ngừng
lại lim dim mắt nhìn quanh, rồi tiến đến lần lượt cọ đầu vào chân hết đứa này
qua đứa khác.
Tôi nói con mèo này coi bộ thông minh lắm, biết nghe lời, biết
“nịnh” người chăm sóc nó. Để tôi làm thử cái này xem. Tôi liền bồng nó đặt trước
chén cơm, khe khẽ bảo nó rán ăn cho hết đi, chóng ngoan. Nhé! Nhé! Ba đứa con
gái phản đối nói rằng ăn như mèo ăn, nghĩa là ăn ít lắm, bố không thể ép nó ăn
thêm được nữa đâu. Thật không ngờ, con mèo vừa nhìn tôi vừa từ từ ăn hết chén
cơm.
Đến giờ đi ngủ, đứa gái út giành bồng nó lên giường, đặt cạnh.
Trước kia, một con chuột cống đêm nào cũng từ lỗ cống
bò lên tới khoét một lỗ nhỏ nơi bao gạo ăn vụng gạo. Người làm phải khiêng bao
gạo từ nhà bếp lên lầu. Không ăn thua, con chuột lại bò lên lầu. Nó không sợ
con mèo tam thể, không ngán cả con chó. Hay là con chó biết rằng việc bắt chuột
không phải là nhiệm vụ của nó nên không xía vào?
Nửa khuya hôm bắt đầu có con mèo trắng, bỗng xẩy ra một trận
“ác chiến” khiến mọi người thức dậy bật đèn lên. Một con chuột cống to hơn con
mèo trắng chạy trước xuống lầu, con mèo đuổi theo sau. Gạo từ miệng chuột vung
vãi trên các bậc cấp. Con chuột chui nhanh xuống lỗ cống. Con mèo đành đứng lại
hậm hực, máu me đầy cổ. Nó bị con chuột cắn, bị thương khá nặng. Ba đứa con gái
vội vã lấy thuốc trụ sinh xức và băng bó vết thương. Từ đó về sau con chuột cống
không dám bén mảng tới nữa.
Bình phục mau lẹ, vết thương lành da, con mèo lớn nhanh như
thổi. Cứ năm, ba ngày, mấy đứa trẻ đặt con mèo lên cân một lần.
Nhà không có cửa lưới, ruồi vào ra thoải mái, lũ trẻ thỉnh
thoảng rình đập ruồi, thường trật. Con mèo thấy thế tham gia bắt ruồi.
Tay (hay chân trước) nó nhanh như chớp, tung đòn một cái, chụp được ruồi ngay.
Nó giở tay lên, con ruồi chết dí. Nó không hài lòng. Tiếp theo nó nhẹ tay chụp
ruồi, giở tay lên, con ruồi bay mất. Tiếp đến nữa, khi chụp được ruồi xong, nó
đưa bàn tay khe khẽ chà lên con ruồi, cho nên con ruồi vẫn sống nhưng không bay
nổi, để nó đùa giỡn một chốc chơi.
Bỗng có tiếng thằn lằn kêu, làm phá cuộc vui của nó. Con thằn
lằn bò ngược trên trần nhà, chân bám trần, lưng quay xuống. Con mèo bèn dí mạnh
tay làm chết con ruồi, rồi hai con mắt màu vàng long lên sòng sọc, nó gào lên một
tiếng, tức thì con thằn lằn rơi xuống sàn nhà. Nó vồ lấy ngay. Vợ tôi bảo
nó là con “linh miêu” và nói thêm rằng nếu nó là con mèo đen mắt vàng, tức là
mèo mực, thì nó càng linh hơn nữa.
Từ khi có nó, nhà hết chuột, hết ruồi. Nó cũng không để yên
chim chóc đậu trên mái nhà. Nó thường nhảy lên mái nhà bắt chim sẻ, bồ
câu vô tình bay tới đậu. Thỉnh thoảng có trận ác chiến trên mái nhà mà nó
luôn luôn là kẻ chiến thắng. Nó tấn công những con mèo nào dám tới tranh bắt
chim của nó.
Nhưng chuyện này lạ hơn. Nó biết đấm lưng. Ta nằm sấp
trên tấm phản, nó ngồi trên cái gác lửng gần đó. Bảo nó nhảy xuống, nó hiểu ý
nhảy xuống ngay, hai chân trước của nó chạm vào mặt phản kêu cái bịch. Bảo nó
trở lại lên gác, chỉ vào lưng, nó hiểu ý làm ngay, nhảy xuống, hai chân trước
chạm lưng một cách êm ái. Đã lắm. Bảo nó tiếp tục làm lại, thỉnh thoảng nó trở
chứng làm biếng nhảy lên cái gác, thì chịu khó bồng nó đặt lên gác, nó sẵn sàng
nhảy xuống đấm lưng.
Và chuyện này còn đáng kinh ngạc hơn cả. Thật khó tin nổi.
Như đã nói trên, con mèo rất được ba đứa con gái cưng như
cưng trứng, và ngược lại nó cũng thương yêu ba đứa đó, nhất là cô gái út. Một
hôm hai chị em, áp út và út, ngồi trên phản chơi đánh thẻ với nhau. Con mèo ngồi
cạnh đấy theo dõi trái banh vồng vồng, chốc chốc đưa bàn tay khều một vài cái
thẻ chơi. Chẳng biết vì lý do gì, hai đứa bé giành nhau trái banh, không ai chịu
nhường nhịn ai. Cuối cùng đứa út giành không nổi, ngồi khóc tấm tức. Con
mèo liền nhảy tới. Tôi ngạc nhiên chờ xem nó tính làm gì. Nó đưa một tay
níu vào tay áo của đứa bé út, rồi vừa kêu meo meo, vừa nhìn vào mắt cô bé, vừa
kéo cô bé đi chỗ khác. Cô bé nín khóc ngay, sửng sốt nhìn con mèo. Chị nó cũng
sửng sốt không kém, liền buông trái banh ra, và chồm tới ôm chầm lấy con mèo vuốt
ve từ đầu đến đuôi.
Vậy nó là con mèo khôn ngoan, và biết điều, độc nhất? Chắc
là không phải. Có lẽ hầu hết giống mèo đều thông minh, có trí tuệ và tình cảm,
gần như nhau. Nhưng chúng chưa có dịp bày tỏ những đức tính đó vì nhiều lý do
khác nhau. Hoặc vì cả thẹn, nhút nhát; hoặc vì chưa được thương yêu đầy đủ; hoặc
vì tiềm năng của nó bị thui chột do sự đối xử thiếu tế nhị của loài
người, v.v …
Trong quan hệ đối với loài vật, dường như loài người đặt nặng
vấn đề làm sao ăn thịt chúng nó một cách “nhân đạo”. Thay vì dùng dao nhọn đâm
vào cổ họng, dùng búa tạ đập vào đầu, thì dùng dòng điện mạnh dí vào chẳng hạn.
Rồi dày công nghiên cứu tìm xem nào là thịt con bò, con heo nơi nào ngon nhất,
ngon nhì, ngon ba; nào là thịt tay gấu có ngon hơn não khỉ hay không, thịt nhím
chắc chắn thơm hơn thịt gà, thịt bồ câu ra ràng rất bổ dưỡng cho người già yếu,
thịt chim sẻ làm tăng cường khả năng sinh lý của đàn ông, thịt chó rựa mận
thơm phức khiến cho người đang nằm bệnh lâu ngày nhờ một cơn gió tình cờ mà ngửi
thấy sẽ vùng dậy tỉnh táo ngay, vân vân. Con mèo có số hên hơn, bớt bị ăn thịt
hơn, do câu nói dân gian: “Ăn con mèo nghèo ba
năm.”
Lại có người không thèm thịt cho lắm cũng say máu lặn lội
trong rừng tìm cách giết chết thú vật một cách bừa bãi. Hươu, nai, gấu, heo rừng,
sơn dương, chẳng hạn. Có lẽ từ thuở xa xưa khi con người còn ăn lông ở lỗ, bị
thú rừng lấy mất mạng, cho nên bây giờ, theo luật nhân quả, hậu bối của họ quyết
phục hận. Và khi giết được chúa sơn lâm là sư tử châu Phi, hay cọp châu Á, những
hậu bối đó cho đấy là chiến công vô cùng oanh liệt. Chém giết, săn bắn, được
xem như là môn giải trí cao nhã của giới thượng lưu.
Tuy nhiên công bằng mà nói, có một số ít loài thú vẫn được
loài người quý mến. Voi, ngựa, vào sinh ra tử với chủ nhân của chúng ngoài chiến
địa; lạc đà đi trên sa mạc nóng cháy chuyên chở đồ đạc và bản thân những người Ả-rập;
con trâu ngoài đồng ruộng lầy lội cùng với nông dân cày bừa dãi dầu mưa nắng.
Hay con chó coi nhà, con mèo bắt chuột…
Theo một tài liệu khoa học, 99,9% loài vật đã bị tuyệt chủng
trên quả đất ta đang sống, phần lớn do sự phát triển văn minh vật chất nhanh
chóng của loài người. Một số sinh vật còn lại cũng đang đối mặt với nguy cơ tuyệt
chủng. Và oái oăm thay, nhân loại không khéo cũng bị tuyệt chủng nốt chính vì
những tiến bộ khoa học kỹ thuật của họ, những kho bom nguyên tử đang chực kích
nổ.
Cho nên loài người thông minh đang làm bá chủ hành tinh này
có lẽ phải mau mau bình tâm lại để có thể có những nhận định đúng đắn về vai
trò của mình trong cộng đồng nhân loại. Bớt dối trá đưa đến xung đột, hủy diệt;
thêm thành tâm tiến tới hòa hợp, xây dựng. Đồng thời đời sống tình cảm và lý
trí của loài vật nói chung cũng nên được quan tâm nhiều hơn. Có thế người
ta mới nhìn thấy rõ hơn, để kinh ngạc và thán phục, rằng chúng là những
người bạn đồng hành đầy thương mến của loài người từ thuở nào. Thiếu
chúng, những loài vật còn sống sót với ta mà cũng bị tuyệt chủng, con người sẽ
cô đơn biết là dường nào.