Chưa tới ngày giỗ đầu của cha tôi mà bốn chị em tôi đều có bốn
người đàn ông chân thành muốn tiến tới hôn nhân…
Chẳng ai mai, ai mối mà tự nhiên thành… Ai cũng nghi là do vong linh cha tôi phù hộ… Qua giọng điệu trao đổi, tôi có cảm giác là họ nội thoáng một chút gì không vui lắm. Dĩ nhiên, nếu do chính tay họ xe được bốn mối duyên lành này thì họ sẽ thích hơn nhiều.
Cứ như là trúng số,
một người bạn cũ của chị Sáu ở Na-Uy viết thư giới thiệu anh Lễ đến nhà tôi để
nhờ chị tôi đưa đi tham quan một số cảnh đẹp của thành phố… Vẫn xe đạp cọc cạch
như tự bao giờ, chị Sáu mượn thêm một chiếc xe đạp nữa của thằng Cu Nhí trong
xóm để hai anh chị dong chơi qua các phố phường. Khi đã hơi thân, anh Lễ ngỏ ý
nhờ chị Sáu tôi kiếm vợ giúp… Chị Sáu đưa anh đi gặp một số các cô gái trẻ
trung hơn, bạo dạn hơn, xinh xắn hơn nhưng không ngờ cái vẻ ni cô của chị Sáu lại
thu hút anh. Trước khi về nước, anh xin phép được sắm tặng chị một chiếc xe
Dream nhưng chị cương quyết từ chối. Chị vốn sợ tốc độ. Anh đề nghị làm lễ đính
hôn và hẹn lượt qua sau làm đám cưới, chị cũng không cần. Chị muốn mai mốt cưới
hỏi luôn một lượt. Lý do hết sức đơn giản là để bảo vệ tuổi thọ của má tôi, rút
kinh nghiệm từ cái chết của cha tôi sau lượt bốn chàng rể hụt không thành.
Cũng với lý do
đó, chị Năm nói với anh Khiết, Út Mười nói với Minh và tôi nói với Quân, rằng
ít ra cũng phải đợi mãn tang cha tôi và tổ chức sống chung trong tương lai hết
sức đàng hoàng rồi mới cho má biết.
Anh Khiết là giám
đốc một nông trường ở cao nguyên. Má thằng Cu Nhí có chồng bị cưỡng bách lao động
trên đó. Tới kỳ thăm nuôi, mấy đứa con đều bị bệnh, bản thân chị cũng bị ho lao
nên chị nhờ chị Năm tôi đi thăm giùm. Ba thằng Nhí là người nổi tiếng quậy phá,
gặp chị Năm, biết cảnh tình ở nhà, anh ngồi khóc thảm thiết tới độ anh Khiết và
chị Năm tôi phải xúm lại dỗ dành. Và như thế, họ quen nhau rồi yêu nhau. Chỉ có
một trục trặc là anh Khiết muốn chị cứ ở dưới thành phố làm việc rồi một tháng
anh về nhà một lần hoặc chị lên. Chị thì sẵn sàng bỏ hết để lên non sống với
người chồng tương lai. Anh lại càng không muốn đưa vợ về làm cùng cơ quan. Nông
trường anh đang rất rối ren. Rất nhiều nhân viên của anh rước vợ lên sống, đã
làm rối thêm. Anh lại là người đứng đầu, nên làm gương, ngừa trước hay hơn…
Còn Út Mười quen
Minh trong một kỳ thi lên lớp Anh văn, hai người được xếp ngồi cạnh nhau. Minh
liếc bài nó, ngó thấy chỗ sai, kêu sửa, Út Mười lì lợm nói kệ, cho nhớ… Hôm đi
lấy bằng, lại gặp nhau, Minh đọc một thôi “lý lịch trích ngang” của Út Mười, nó
trợn mắt hỏi: “Ủa, sao anh biết?”. Minh nhún vai: “Nhờ thám tử điều tra. Tôi
còn biết cô còn ba người chị cũng lớn tuổi nhưng chưa lập gia đình y như cô. Ðọc
cái truyện ngắn của chị Tám cô viết về bốn chị em lớn tuổi không chồng, không cả
người yêu, tôi nảy ý phải kiểm tra coi câu chuyện đó có thật bao nhiêu phần
trăm. Chúng tôi cá nhau và tôi thắng cuộc vì đã đánh cá với tỷ lệ cao nhất”.
Tôi biết Minh.
Minh là người có tài. Sự thành công của Minh trong những bài viết về tình hình
kinh tế trong nước hiện nay có được là do sự tự học và sự độc lập của Minh.
Nhưng trên tất cả là do một tấm lòng nhân ái… Út Mười và Minh gặp nhau rồi yêu
nhau do chỗ hai người đều tự tin nơi mình, không quy lụy ai. Họ cũng gặp nhiều
khó khăn trong công việc nhưng không phải vì vậy mà những người không được họ
chiều lòng không giao việc cho họ.
Quan hệ giữa hai
người này đều làm chị Năm, chị Sáu và tôi đều vui. Chúng tôi đã quá lớn tuổi,
không có người yêu còn chấp nhận được, chớ bề gì Út Mười cũng sáng sủa nhất
nhà, tính tình cũng chín chắn đàng hoàng, thậm chí khó khăn khi tiếp xúc với
người khác phái.
Phần tôi thì muộn
nhất trong bốn người nhưng rốt rồi cũng được yêu và yêu được. Rảnh, thấy có lớp
học quay vidéo tôi ghi tên học. Thấy tôi không có máy nhưng sáng dạ, chuyên cần,
Quân thường cho mượn máy rồi giúp tôi tăng thu nhập bằng cách rủ đi quay những
show thư, đám cưới, đám ma. Quân quay, tôi cầm đèn. Một vài phim tài liệu hay
phóng sự ngắn của Quân tôi cũng được Quân cho đi theo phụ, nếu rảnh. Hết đám ma
này, đám cưới kia tới phim tài liệu nọ. Cho đến một ngày, Quân nói rất chân
tình:
“Tại sao hai đứa
mình không làm đám cưới?”.
*
Ðể chuẩn bị cho bốn
cái tổ ấm tương lai, điều làm tám người chúng tôi băn khoăn nhất là vấn đề nhà
cửa. Anh Lễ về đây ở hotel, anh Khiết ở nông trường, Minh chung phòng với mấy
người bạn trai trong khu tập thể cơ quan, còn Quân ở tạm nhà một người bà con
xa…
Và không trông
mong được gì nơi căn nhà chúng tôi. Ðó là một căn nhà vẹo xiêu, mục nát với tất
cả những ý nghĩa đầy đủ nhất của hình dung từ này. Chỗ ngủ của Út Mười là mấy
miếng ván mục, 2m x 0,8m, kê làm balcony, đụng sát balcony nhà đối diện mà bất
cứ ai đi ngang cũng sợ rớt trúng đầu… Không phải chỉ khúc đó mà toàn căn nhà gỗ
ván của chúng tôi đang báo động cấp mười về mối, mọt, mốc, mục và muỗi, rệp…
Cho dù chúng tôi ra tay chống đỡ hết sức những con “quái vật” này nhưng không
thể nào ngăn được chúng chuyển từ các nhà hàng xóm qua…
Căn nhà của chúng
tôi lại được nằm trong một xóm lao động phức tạp… Nghèo có, giàu ngầm có, buôn
lậu có, cán bộ có, trí thức học sinh có, những người thất nghiệp về hưu, nhàn rỗi
có, gái bao có. Cả năm trời nay đường cống thoát nước trong xóm bị bể, tổ trưởng
hô hào đóng mỗi nhà vài ngàn để sửa nhưng nhà đóng nhà không… Với nhiều nhà cơm
kiếm được từng bữa thì vài ngàn là con số quá lớn với họ. Thế nên lối đi của cả
một xóm chỗ nào cũng ngập ngụa những nước làm cá, nước giặt đồ, nước vo gạo, nước
rửa chén, rửa rau. Vậy mà giữa những vủng nước lấp xấp ấy lúc nào cũng có lúc
nhúc trẻ con chơi và người lớn ngồi tán gẫu quanh những hàng quà vặt… Về mặt trẻ
con thì xóm tôi “giàu có” vô cùng, đứa nào đứa nấy khôn lanh, già trước tuổi…
Ngõ đối diện nhà tôi có thằng nhóc sáng nào cũng ló đầu sang balcony nhà tôi gọi:
“Các cô ơi, dậy mà đi lấy… chồng!”
Một trong những
người bà con bên nội chúng tôi la làng khi ghé thăm:
“Tụi bây ở cái
xóm này ế chồng là đúng. Ai mà dám rước tụi bây khi bây ở trong cái xóm như vậy”.
Nói vậy cũng có
phần oan cho cái xóm của tôi… Biết bao nhiêu cô gái trong xóm này chỉ bằng phân
nửa tuổi chúng tôi đã làm vợ, làm mẹ. Má tôi cũng kịch liệt phản đối những ai
cho là không ai dòm ngó tới chúng tôi vì gia đình này nghèo. Còn đóng được tiền
sửa cống là gia đình tôi vẫn còn khá hơn năm mươi phần trăm dân trong xóm. Thế
mà những cô gái trong năm mươi phần trăm ấy vẫn có gia đình đàng hoàng và những
gia đình ấy bao giờ cũng sanh sôi nảy nở hơn mức nhà nước quy định nhiều. Họ thực
hiện hết sức triệt để câu: “Ðược hào con, mất hào của”. Như má Cu Nhí, thua tôi
mười tuổi nhưng đã sinh tới bảy lần, mỗi lần ba Cu Nhí từ cái nơi cưỡng bách
lao động về là nó lại có thêm một đứa em. Hồi nó năm tuổi, Út Mười kéo nó đi
đóng vai một đứa trẻ người Cămpuchia. Nó giao ước: “Ai hỏi phải nói con là con
cô Mười, chứ đừng nói con là con của ba con”. Cu cậu thở dài thậm thượt: “Ba gì
mà kỳ quá, cứ chui vô tù ở hoài!”. Thậm chí trong xóm có anh Thọ chuyên ngủ
ngoài trời vì không có nhà – nếu mưa thì anh ta đứng – cũng có được một đời vợ.
Trước đây nhà Thọ cách nhà tôi một căn, có người làm mai Thọ với một cô bị chồng
bỏ, có một con riêng. Ráp với nhau xong, cô xúi bán nhà về quê. Xài hết tiền,
cô đã có nhân tình mới, mời anh ta khỏi nhà. Thọ đi loanh quanh rồi lại về xóm
cũ. Ai có việc gì kêu thì anh đi làm. Tối, anh có một manh chiếu xin được và một
mảnh vải trùm người. Thế là đủ. Một điểm nữa, cần phải tuyên dương tinh thần
“tương trợ” của xóm tôi. Những phần tử bất hảo đi gieo sự bất an cho nơi khác
chứ tuyệt đối không đụng tới xóm nhà. Ðiều này không có nghĩa là xóm tôi luôn
an toàn bởi thỉnh thoảng những băng của xóm khác vẫn tới đây hành nghề hoặc gây
hấn với băng chủ nhà.
Cùng nỗi băn
khoăn, bốn chàng rể tương lai cũng họp bàn cách rời nhà tôi đi nơi khác hoặc ít
ra cũng kiếm được chỗ cho từng tổ ấm tương lai. Tiền bạc tưong đối khá nhất là
anh Lễ. Hướng của anh rất lý tưởng là kiếm một miếng đất rộng rãi ở ngoại ô,
xây cất mới. Anh Khiết thì cho biết, giám đốc nông trường được tiêu chuẩn xin
nhà thành phố, anh sẽ xin, chắc được thôi nhưng có lẽ hơi lâu. Minh lại hơi
phân vân giữa chuyện xin và xây nhà. Anh cũng thuộc diện xin nhà tập thể là có
ngay, nhưng anh tâm sự anh không muốn những đứa con tương lai của anh và Út Mười
ở trong các khu chung cư hay tập thể. Phần tôi, chẳng hy vọng chút nào về khả
năng kiếm nhà của Quân. Quân không có thói quen sắm sửa cho đời riêng tư những
nhu cầu cần thiết. Tiền kiếm được đủ sống và giúp đỡ bạn bè, còn chuyện xin nhà
thì anh ấy tuyên bố vô cùng thù ghét, “cứ như đi ăn cướp của người”. Anh ấy
cũng đồng ý với Minh là kẹt lắm mới chui vào chung cư… Anh ấy không chịu nổi tiếng
ồn ào và sự thiếu không khí là hai thứ rất thừa thãi ở xóm tôi… Quân đã không
muốn thì tôi đành đứng ra xin… Cơ quan tôi có hứa, bao giờ chuẩn bị lập gia
đình cứ báo, họ sẽ lo cho chỗ ở…
Ðêm đêm, trước
khi đi vào giấc ngủ, chúng tôi thường vẽ vời với nhau về ngôi nhà trong tương
lai. Ðứa thích nhà có gác lửng, đứa mơ mỗi đứa được một phòng, đứa đề nghị bếp
núc tráng men sạch bóng, đứa thèm có một balcony chắc chắn, đứa khoái đường hẻm
dẫn vô nhà không bể cống lúp súp nước như chúng tôi đang chịu đựng hôm rày…
Má tôi ngạc nhiên
khi thấy chúng tôi như là trúng số chuẩn bị xây nhà. Vâng, cho đến giờ này, má
tôi vẫn chưa biết gì rõ ràng về bốn chàng rể quý trong tương lai. Chúng tôi vẫn
cương quyết bao giờ có nhà rồi mới báo tin cho má tôi biết.
Một điều tôi có
thể chắc chắn là đêm đêm trong khi chúng tôi ngủ thì má tôi vẫn thức. Một phần
do cái khoảng hẻm trước nhà tôi như là một “ngã tư quốc tế”, có những băng đến
đó vui chơi, ăn uống, trò chuyện, đánh lộn, cãi lộn với nhau suốt đêm… Một phần
do thời gian bị tra tấn, cắm điện vào tai, đầu… thần kinh của má tôi rất yếu và
hiện tại má đang bị bệnh mất ngủ kinh niên.
*
Có lẽ nên nói rõ
đôi điều về má tôi. Sức khỏe của má tôi hiện nay rất mong manh. Nhiều người cứ
tưởng má sẽ ra đi trước ba. Chẳng gì má tôi cũng là một người tù mấy năm ròng
rã chuyển từ Khám Lớn qua căng Bà Rá… Những đòn tra tấn độc hiểm rồi vùng nước
độc rừng thiêng đã lưu hậu quả đến bây giờ. Cha tôi là người cứu má tôi ra khỏi
tù. Ðám cưới, sanh con xong, má tôi hoạt động lại. Lại bị bắt, lại được chồng bảo
lãnh ra, rồi lại vào, bảy lượt, năm lần tới độ anh kế của tôi cũng được sanh ra
trong tù.
Cha tôi là một
công chức từ thời Tây, ở ngành thú y chuyên chữa bệnh cho trâu bò, mèo chó, lại
không khuyên được vợ nên phải lãnh một quyết định của nhà nước là không được ở
tỉnh nào quá hai năm. Họ sợ má tôi lại tìm cách gây phong trào chống đối. Nhờ vậy
chín anh em tôi mỗi người sanh một tỉnh, Bà Rá, Tân Uyên, Bà Rịa, Long Xuyên, Rạch
Giá, Pleiku, Phan Thiết, Bình Tuy, Biên Hòa… Cũng nhờ vậy, chuyện không an cư
là điều mà chúng tôi đã được chuẩn bị từ lâu… Chúng tôi đã từng ở những căn nhà
khang trang cũng như rất tồi tàn. Và chúng tôi sớm ý thức được rằng đó vẫn là
nhà của người ta, những người ta trước và sau khi chúng tôi dọn đến…
Hơn nửa cuộc đời,
mỗi đứa có được một chút tình yêu, được gặp những người đàn ông đàng hoàng, được
mơ hẳn một căn nhà riêng như ý mình để ở. Và điều quan trọng nhất, chúng tôi muốn
lập gia đình để má chúng tôi vui. Gần hết cuộc đời, má có được thư thái chút
nào đâu. Bao nhiêu năm tù tội, lang thang hết tỉnh này sang tỉnh khác, sống
trong những căn nhà tạm bợ và bây giờ hằng đêm, vẫn chập chờn giấc ngủ không
yên trong tiếng lao xao của những băng nhóm sau khi đi “quậy” về, tụ tập trước
nhà tôi tán dóc…
Khi “giải phóng”
xong, vì phải đi nhiều tỉnh, hoạt động nhiều nơi nên má tôi không liên lạc được
bạn xưa. Cái tỉnh má tôi ở lúc đó không cấp giấy chứng nhận gia đình liệt sĩ
cho má tôi với lý do cha tôi là công chức và anh tôi bị trưng dụng vào quân y
khi vừa tốt nghiệp bác sĩ. Vào thành phố này, má tôi cứ phân vân không biết nên
tới gặp lại bạn cũ hay không. Má nói: “Tụi nó ngon rồi thì phải tới thăm mình,
mình đi thăm ngược e không phải”. Tụi tôi nói: “Có ai biết má ở cái hóc này đâu
mà tới” để động viên má đi, má lại e ngại không biết bạn xưa có còn nhớ.
Có lần đọc báo,
thấy cáo phó một người quen, má ngậm ngùi: “Tội nghiệp cái chị Năm Lê này hết sức.
Chị giỏi lắm. Ở trong tù, chỉ soạn nhiều tuồng hay, soạn cả tuồng Tàu rồi nhảy
ra đóng luôn. Trong mấy trăm nữ tù, chỉ chọn má đóng vai Bàng Quý Phi. Lớp xử
án, má vừa khóc vừa ca, chỉ đóng vai Tống Nhân Tôn, ngồi ngó mê quên cả đập bàn
dọa nạt…”. Nhờ tôi chở đến đám tang dì Năm Lê đó, má tôi mới gặp lại bạn quen…
Mấy bà già chìa ra cuốn” Những năm tháng ngục tù”, trách móc má tôi: “Sao bây
giờ mầy mới ló mặt ra? Ở mấy trang cuối này, coi tụi tao ghi về mầy nè: “Năm Nhỏ:
không liên lạc được”.
Mấy bà già dặn
tôi thỉnh thoảng phải đưa má tôi đến nhà các bà chơi, bà nào cũng được ở trong
những ngôi nhà tuyệt đẹp. Tôi về tả lại cho ba người kia. Thế là bốn đứa cãi
nhau nên xây nhà giống như mẫu nhà bà Lựu hay của bà Huệ, bà Mai. Má tôi cứ la
tụi bây đừng như những người hùn mua vé số, chưa trúng độc đắc đã đánh nhau vì
tranh cãi nếu trúng rồi mua xe hơi ai ngồi trước, ai ngồi sau. Hay như cái con
nhỏ đội sữa trên đầu mơ đổi sữa lấy trứng, trứng nở ra gà, đổi gà lấy heo, đổi
heo lấy bò, bò đẻ ra bê, rồi tưởng tượng bê con tung tăng nhảy múa đến độ sữa đổ
lênh láng, tan rụi ước mơ. Những câu chuyện đó má tôi được nghe kể khi còn ở
trong tù. Hồi nhỏ, má tôi chỉ được ông ngoại dạy chữ Nho. Còn vốn chữ Pháp và rất
nhiều kiến thức má tôi học được do thời gian ở tù, được nhốt chung với nhiều
người con nhà giàu, học trường Tây nhưng bỏ hết đi làm cách mạng…
*
Có lẽ cũng nên
nói thêm một chút về hai họ của tôi. Họ ngoại tôi thì chết gần hết trừ một vài
người đi tập kết về. Trong số những người chết vì lính Nam Hàn ở một xã nhỏ thuộc
tỉnh Quảng Nam có đến hơn hai mươi người thuộc họ ngoại của tôi… Ông nội tôi gốc
làm quan triều Nguyễn. Ðến đời các chú bác tôi, một số người chuyển hướng kinh
doanh. Cuộc nổi loạn đầu tiên của cha tôi là bỏ nhà ra Vinh, rồi sang Lào sống
tự lập. Cuộc nổi loạn thứ hai là dám cưới má tôi, một “con tù Bà Rá” – nói theo
cách gọi khinh khi của gia đình bên nội.
Hình ảnh gây ấn
tượng nhất cho tôi về họ nội qua những mẫu chuyện kể của má tôi là khi cha tôi
đưa má tôi về ra mắt với nước da vàng ệch của người bị bệnh sốt rét rừng, má vừa
chạm môi vào tách trà của ông nội rót cho bà thì một bà o đã nhanh tay chụp lấy
chiếc tách đem tráng nước sôi cất đi. Má nói, bả dốt ghê, ai lại tin là vi
trùng sốt rét lại truyền đi bằng đường miệng.
Họ nội không
thích cả gia đình chúng tôi, có lẽ vì ở chúng tôi toát ra sự thanh thản, phong
lưu theo kiểu những người nghèo, còn ở họ lại tràn ngập một nỗi bất an khôn
cùng của những người giàu có. Một bà o ruột, giàu hàng mấy trăm lượng, khi gia
đình chuẩn bị đi xuất cảnh, vào thành phố này khám sức khỏe và đợi chuyến bay,
sợ tốn tiền khách sạn, gắng gỏi tới ở một tháng ròng trong cái ổ chuột xóm tôi…
Má tôi vì lịch sự nấu nướng cho họ ăn nhưng nói thẳng với bà:
“Không phải vì
mong cô gởi quà về mà tôi lo cho cô đâu. Chỉ mong cô đừng quên cái tình của cô
với một người anh bệnh hoạn là chồng tôi”.
Ngày lên máy bay,
bà bỏ lại nhà tôi chiếc áo túi rách và tặng cha tôi năm mươi đồng. Năm mươi đồng
lúc đó ăn được hai bát phở loại trung bình. Ai cũng trách cha tôi sao nhận làm
gì. Ông chỉ cười:
“Nó là em tôi, hồi
nhỏ nó hào phóng lắm. Từ lúc làm dâu nhà giàu nó đã biến thành một con người
khác”.
Sự đam mê đồng tiền
của bà o khiến chúng tôi hãi sợ chuyện làm dâu nhà giàu. Chúng tôi càng không
hào hứng lắm với những người đàn ông do họ nội làm mai như một cách ban phước của
họ. Và họ càng phẫn nộ hơn khi bốn cô gái ế chồng nhà tôi tự nhiên lại được bốn
người đàn ông đẹp từ hình thức đến tâm hồn như ở trong những giấc mơ tuyệt vời,
bước ra ngỏ lời xin cưới.
*
Bốn người đàn ông
quá lý tưởng khiến chúng tôi cứ e sợ không biết có phải là một trò đùa của số mệnh
như những lượt trước kia. Nỗi nghi ngờ ấy, dần dần bỗng hóa thành sự thật.
Người ra đi đầu
tiên là Minh. Minh chết do một tai nạn giao thông. Ðôi mắt mở trừng như trối lại
một điều gì. Trước đó mấy ngày, tên của Minh đang được mọi người nhắc tới vì một
loạt bài báo nói lên một số bí mật mà nhiều người muốn dấu. Út Mười đang hóa
trang ở sân khấu lầu ba thì điện thoại ở tầng trệt gọi tới báo tin… Sau đó nó vẫn
phải lết lên mấy tầng lầu để độn một mớ gòn vải trong người, đóng vai một bà mập
béo đi tìm lại vòng eo của mình, trong một vở hài vì không ai thay kịp. Chất
hài đêm đó của nó có pha một chút khùng điên. Khán giả cảm được một điều gì đó
khi vai mụ béo đột nhiên khóc cười lồng lộn…
Người chào vĩnh
biệt chúng tôi kế đó là anh Khiết. Anh để lại một bức thư dài nói rõ lý do phải
ra đi. Lòng tự trọng khiến anh không thể sống khi đã không quản lý nổi những
người phụ tá của anh. Họ đã tàn sát những khu rừng. Ngoài việc thất
thoát hàng tỷ đồng của Nhà Nước và các cơ quan bạn, còn thêm những hậu quả nặng
nề, làm tan nát thêm những làng dân tộc quanh đó, sau những trận bão rừng… Những
dòng cuối anh dành riêng để xin lỗi chị Năm, anh đã không đem được hạnh phúc tới
cho chị và cũng là cho anh như anh hằng mong ước… Anh ấy cũng xin được chôn xác
trên cao nguyên. Chị Năm đi một mình vì sợ má tôi nghi. Thằng Cu Nhí xin đi
theo chị Năm lên cao nguyên để thăm cha nó. Nó nói với tôi như một người lớn:
“Bề nào ổng cũng là ba của con”.
Quân cười vào mặt tôi khi thấy tôi lo sợ quá đáng mỗi lần
anh phóng xe nhanh. Anh nói chắc chắn anh không dễ bị xe đứt thắng đụng như
Minh, nếu có phải chết, chắc anh sẽ chọn cho mình một tư thế khác.
Sau hai đám tang đó, tôi và chị Sáu nằm im trong lúc chị Năm
và Út Mười vẫn tiếp tục trao đổi về cái nhà:
“Anh Minh nói em thường đi diễn về khuya, ráng kiếm một khu
an toàn hơn mà ở. Em cho ảnh biết xóm mình đi giựt xe nơi khác thì có nhưng
không bao giờ giựt của người trong xóm mà ảnh không tin. Ảnh còn dặn em khi xây
nhà nhớ kiếm một khoảng trống trồng hoa hay lá gì cũng được. Ảnh thích loại cỏ
tóc tơ, thích dây tơ hồng, thích dây cát đằng rủ hoa làm rèm che nắng…”
“Anh Khiết thì dặn, nếu có điều kiện nên làm nhà cây. Ở nhà
cây mát hơn nhà gạch. Chị nói sợ rệp, ảnh mới dẹp mộng làm cây”.
Má tôi cứ hỏi:
“Sao lâu quá không thấy thằng Khiết với thằng Minh ghé chơi.
Thôi thì cho là thằng Khiết kẹt trên rừng còn thằng Minh biết đâu đang chuẩn bị
đám cưới với cô nào. Bây coi chừng chớ tao thấy lúc này có nhiều đứa con gái tốc
chiến tốc thắng lắm chớ đâu rề rề như tụi bây. Ngó nội quanh xóm này thì đủ thấy.
Con Năm Chằn mới ngày nào còn ngồi trước nhà mình chơi đánh bài ăn dây thun, giờ
đã đi bán bia ôm, nói tiếng Anh lốp bốp…”
Những chiếc bưu thiếp của anh Lễ gởi từ nhiều nước cứ thưa dần.
Anh đang làm việc cho Liên Hiệp Quốc nên đi liên tục. Chúng tôi có báo cho anh
hay về cái chết của anh Khiết và Minh. Suýt nữa má tôi đã đọc được lời chia buồn
của anh Lễ gởi về. Trong lúc má tôi đi kiếm kính thì tôi đã nhanh tay xóa đi những
dòng chữ chia buồn. Nhưng khi điện tín của mẹ anh Lễ đột ngột báo tin anh ấy đã
cưới vợ bởi một sự ràng buộc nào đó thì chúng tôi không có ở nhà để dấu má tôi.
Chính má tôi lại họp chị Năm, tôi và Út Mười lại bàn chuyện dấu chị Sáu. Chúng
tôi tin ở thần kinh vững vàng của chị nên vẫn báo cho chị hay. Chị Sáu lặng lẽ
xin mấy miếng ván về lập trang thờ anh Lễ ở một góc nhà, chị coi như anh Lễ đã
chết. Chiều chiều đều đặn thắp nhang và thì thào trò chuyện với anh. Có bữa chạng
vạng, cúp điện, tôi nghe chị đứng vái mà rợn cả người:
“Anh cứ yên tâm, thế nào rồi tụi em cũng kiếm một xóm yên tịnh
hơn để an giấc hằng đêm. Nhưng gánh nặng xin nhà bây giờ chỉ còn đè lên vai con
Tám”.
Út Mười vẫn chọc khán giả cười nôn ruột với những vai hài có
nhiệm vụ làm tươi tắn vở. Chị Sáu lặng lẽ ban ngày ngồi may, lặng lẽ ban đêm
vác mấy cuốn sách tiếng Pháp, tiếng Anh của cha tôi với mấy cuốn tự điển dầy
cui, vừa dịch, vừa đọc. Chi Năm cũng ghi tên vào lớp tiếng Anh do cơ quan chị tổ
chức. Ông Giám Ðốc thoáng thấy mặt chị cười ha hả: “Nó đã bỏ cho rồi, còn đi học
làm chi?”. Ông muốn nhắc tới anh chàng H.O. dạo nào suýt dắt chị tôi đi. Cho tới
giờ này anh ta vẫn chưa trả hết số tiền đã hứa trả cho chị tôi trước Tòa án Quận
Ba.
Còn tôi, sống với tâm trạng nơm nớp chờ án tử của Quân rơi
xuống đầu tôi. Chúng tôi vẫn đi quay show thư, đám cưới, đám ma… dành dụm tiền
để chờ có nhà rồi làm đám cưới. Tôi vẫn chẳng biết cách thức làm sao để có được
nhà nhanh như nhiều người, chỉ biết đưa đơn rồi ngồi đợi như người ta mua vé số
chờ lượt trúng tới mình…
Một hôm, Quân hớn hở tới rủ tôi, khoe show này trả cao lắm,
hy vọng gộp vào số tiền đã có để kiếm một chỗ ở tương đối mà làm đám cưới cho rồi.
Người đặt hàng cầu kỳ đề nghị quay cảnh sinh nhật của cha anh ở Ðà Lạt với những
thắng cảnh nổi tiếng nơi đây. Ðằng sau cuốn băng là những lời chửi rủa nhau hết
sức tồi tệ của những người con, cháu muốn độc quyền việc phụng dưỡng ông già với
hy vọng sẽ được lượng đô-la rót về nhiều hơn…
Gần cuối chuyến đi, quay ở một thác nước cao. Nén không nổi
nữa, các phe đã làm rớt bộ mặt thương yêu nhau khi thâu vào máy mà hậm hực ném
ra những lời chửi xiên, chửi xéo nhau… Trong lúc mọi người đi ăn cơm, tôi và
Quân ngồi nói chuyện với ông già bên bờ suối vì quay xong rồi, họ quên bẵng
ông. Tôi phải đi lấy bánh mì mang đến cho ông nhưng ông chỉ ăn được phần ruột
bánh mềm bên trong. Ông già vừa kêu chỉ thèm được liệng cuốn băng xuống dòng
thác đang cuồn cuộn dưới kia thì người con trai trưởng của ông tới yêu cầu Quân
xóa đoạn cô cháu gái phát biểu lên án anh ta. Cô cháu có mặt liền bảo vệ lời
phát biểu của cô, đồng thời yêu cầu xóa đoạn cô chú Bảy nói xấu cô… Thế rồi các
phe rầm rập kéo tới giành giựt chiếc máy của Quân. Quân nghe lời ông già không
đưa cho một ai. Và anh lùi bước, hụt chân. Tôi hét lên một tiếng thấu trời khi
người yêu của tôi, người chồng sắp cưới của tôi, người rể tương lai còn sót lại
của gia đình tôi đã rơi xuống thác!
Quân không chết mà nằm liệt một chỗ vì bị gãy cột sống. Có một
vấn đề gì đó trong não anh nên anh quên sạch chữ. Mỗi khi có nhu cầu người phụ
giúp, anh chỉ sử dụng được hai chữ “Ðám cưới! Ðám cưới!” Tôi đã chứng kiến một
người đàn bà bị tai biến mạch máu não, cần ăn cơm, bà nói: “Ði chợ! Ði chợ!”
Hình như suốt quãng đời trước kia của bà, đi chợ là điều bà quan tâm nhất. Còn
đám cưới, tưởng đâu chỉ là khát vọng của bốn chị em tôi thôi, không ngờ lại
truyền đọng cho Quân trong hai chữ cuối cùng.
Từ nhà thương ra, tôi xin phép má tôi và thân nhân Quân cho
tôi được mang anh về nhà. Anh sống với chúng tôi một tháng thì mẹ anh ở quê ra
đón anh về quê vì sợ anh không chịu nổi tiếng ồn và sự ô nhiễm của xóm tôi.
Chuyến đưa anh về quê có mẹ anh và tôi. Chuyến về thành phố lại chỉ có mình tôi
với những người buôn than, củi trên một toa xe lửa buồn thảm. Vọng suốt bên tai
tôi hai chữ “Ðám cưới! Ðám cưới!” của Quân khi tạm biệt, như một điệp khúc tóc
tang…
*
Sau đó, cũng có nhiều người đàn ông muốn đến với bốn chị em
tôi, nhưng chẳng có đám nào thành. Khó biết bao khi yêu được một người đàn ông
và càng khó vô cùng khi có thể chung sống được với nhau trong một thời gian nào
đó. Họ nội vốn không ưa cái nghề của Út Mười mà họ cho là “xướng ca vô loài”,
không ưa cái trò viết lách của tôi mà họ nghi là cái nghiệp vận vào thân. Họ vẫn
cho cái chuyện bốn đứa chúng tôi chưa lấy được chồng là một cái nhục chung cho
gia tộc. Sau những gắng gỏi mối mai của họ cho chúng tôi đều thất bại, họ nguyền
rủa rằng đường hôn nhân của chúng tôi sẽ bị triệt ám bởi Khiết, Lễ, Quân, Minh…
Một người rể hụt trước đây của nhà tôi là Ngọc. Sau những
ngày sống chung không yên ổn với cô gái đã một thời xin phép làm em gái tôi,
nay Ngọc đề nghị được tổ chức đám cưới với tôi. Khi tôi bảo đã có chồng, Ngọc
tưởng tôi đùa nên rước mẹ từ miền Trung vào và cả hai mẹ con đều hốt hoảng trước
cảnh tượng năm người phụ nữ nhà tôi kẻ khóc, người cười.
Chị Sáu hỏi anh biết chuyện ông thần ve chai chưa? Một trăm
năm đầu tiên bị nhốt trong vỏ chai, ông hứa sẽ cho ai giải thoát ông được hưởng
tất cả vàng ngọc trên thế gian. Một trăm năm kế ông hứa trao toàn bộ quyền lực
lớn nhất nhưng vẫn không có một ai nhận lời. Sau đó, ông nguyền giết chết ai
dám giải thoát cho ông…
Má tôi xin lỗi hai mẹ con Ngọc về thái độ bỡn cợt của chúng
tôi, rồi xin phép đưa hai người ra đường lớn, tránh ngã có cống xụp.
Bây giờ, ban đêm, sau một ngày làm việc mệt nhoài, chúng tôi
lặng lẽ nằm cạnh nhau, nghe những tiếng lao xao suốt đêm của những băng nhóm nhậu
nhẹt bàn cãi chuyện đời, cảm được bước đi của những con rệp từ các nhà hàng xóm
bò qua chuyển động trên thân thể mình, thỉnh thoảng có tiếng rơi lõm bõm của những
thanh xà mục xuống hồ nước phía sau… Tôi nhớ tiếng thở dài của thằng Cu Nhí: “Bề
nào ổng cũng là ba của con”. Bề nào nơi đây cũng là xóm của chúng tôi. Chúng
tôi không còn nghĩ tới căn nhà đẹp đẽ nào đó trong tương lai nữa. Chúng tôi như
những dòng suối cạn nguồn, không chờ đợi một ai.
Hôm giáp năm ba tôi, ngồi soạn những hộp giấy chất đầy trên
căn gác mục nhà tôi, tôi tìm thấy một cái ví của ba tôi, trong đó có tờ giấy
cho phép nghỉ hưu của chính quyền cách mạng sau một thời gian lưu dung, có tờ
50 đồng của o tôi cho trước giờ lên máy bay đi Mỹ và có tấm hình má tôi hồi còn
trẻ, đẹp xuất sắc hơn bốn đứa bây giờ. Má tôi vẫn chưa hay gì về cái chết của
Khiết và Minh. Bà xuống tóc để cầu duyên cho bốn đứa tôi. Bà không hề biết rằng
hạnh phúc đối với chúng tôi bây giờ không còn là mơ được gặp một người đàn ông
nào đó thương, hiểu và cưới mình nữa, mà là sức khỏe và niềm an vui của má
chúng tôi.
Ngày tiếp ngày, đêm tiếp đêm, chị Năm vẫn hị hụi đi làm, chị
Sáu vẫn lặng lẽ may, Út Mười duyên dáng trong những vai chọc ghẹo người ta cười.
Tôi vẫn đi dạy và thỉnh thoảng viết những câu chuyện mong sẽ có người vui khi đọc.
Chúng tôi sống an phận mình trong một đời riêng đã cùng kiệt duyên phần.