Cái gì chớ “nửa cái bánh mì” thì tui ăn đều đều, còn “nửa sự
thực” thì tới bữa rồi mới được thưởng thức qua bài viết (“Người
Đàn Bà Tặng Hơn 5.000 “Lượng Vàng Cho Cách Mạng”) của nhà báo Hoàng
Thùy, trên trang Vnexpress:
“Hơn 90% số tiền buôn vải được vợ chồng bà Hồ dùng để ủng hộ cách mạng. Có khi trong nhà không sẵn tiền mà đúng lúc cách mạng cần, bà sẵn sàng bán phá giá vải để gom đủ tiền đưa cho cán bộ.
Ở tuổi 97, bà Hoàng Thị Minh Hồ vẫn giữ nét đẹp của người
phụ nữ Hà Nội gốc: Gương mặt phúc hậu, nước da trắng, giọng nói ấm áp và thái độ
điềm đạm. Trong ngôi nhà số 34 Hoàng Diệu (Hà Nội), nơi bà sống cùng hai con
trai, hai chiếc huân chương độc lập hạng nhất được đặt nơi trang trọng nhất. Bà
cho hay, đó là phần thưởng cao quý mà nhà nước dành tặng người chồng quá cố Trịnh
Văn Bô và bà vì những đóng góp to lớn cho cách mạng.
Giữ giọng chậm rãi, bà Hồ kể, ngôi nhà số 48 Hàng Ngang của
bà trước kia là tiệm vải Phúc Lợi, thuộc loại lớn nhất Hà Nội thời bấy giờ. Có
điều kiện dư dả, hai ông bà thường xuyên làm từ thiện, giúp đỡ người nghèo. Thấy
vậy, cán bộ Việt Minh đã đến nhà vận động ông bà đi theo cách mạng. Việt Minh
khó khăn, không có tiền ra báo, bà đã ủng hộ 8 vạn rưỡi tiền Đông Dương. Ngôi
nhà số 48 Hàng Ngang cũng được chọn làm trụ sở hoạt động của cách mạng…
Ngôi nhà số 48 Hàng Ngang được xây theo kiểu nhà ống cổ,
gồm 4 tầng. Tầng một là cửa hàng vải Phúc Lợi nổi tiếng khắp vùng. Khách đến
mua đông đúc, xung quanh lại tấp nập người qua lại nên được chọn làm nơi ở cho
Bác Hồ cùng những nhà lãnh đạo cách mạng từ chiến khu trở về…
33 ngày Bác ở nhà bà (từ 24/8 đến 27/9), bà đều trực tiếp
chỉ đạo nhà bếp nấu ăn phục vụ Người. Sau đó, hai vợ chồng bà thay nhau bê lên.
Vào 9h hằng ngày, bà thường bê cháo và hoa quả lên cho Bác. Một hôm bà đang định
quay gót thì Bác hỏi “Cô tên gì?”. Sau khi bà trả lời, Bác lại nói “Cô còn trẻ
mà đã có cơ đồ sự nghiệp, có chồng con, tiền bạc. Cô chẳng có gì khổ cả”.
Nghe vậy bà Hồ khẳng khái nói:“Cháu vẫn có một điều khổ,
đó là nỗi nhục mất nước”. Bác cười: “Vậy thì kiên trì và nhẫn nại nhé!”
Sau khi “cách mạng” thành công, ông Hồ Chí Minh trở thành chủ
tịch nước thì bà Hoàng Thị Minh Hồ lại lâm vào cảnh … vong gia thất thổ! Đó
là nửa phần sự thực còn lại của câu chuyện mà nhà báo Hoàng Thùy đã không kể kết,
hay nói một cách không mấy lịch sự là ông ấy “nhất định dấu biến đi cứ y như là
mèo dấu cứt” vậy. Phần nửa sự thực này chỉ được công luận biết đến qua tác phẩm
(Bên Thắng Cuộc)
của một nhà báo khác, Huy Đức:
“Năm 1954 từ nơi tản cư trở về, gia đình ông Trịnh Văn Bô
không còn một căn nhà nào để ở, cho dù trước đó, ông sở hữu biệt thự nổi tiếng
48 Hàng Ngang và nhiều dinh thự khác như 34 Hoàng Diệu, 24 Nguyễn Gia Thiều,
56-58 Tràng Tiền… Ông Trịnh Văn Bô (1914-1988) là một doanh nhân Việt Nam nổi
tiếng giữa thế kỷ 20. Cha ông, ông Trịnh Văn Đường và cha vợ ông, ông Hoàng Đạo
Phương, đều là những nhà nho cùng thời với cụ Lương Văn Can, từng đóng góp rất
nhiều cho phong trào Đông Kinh Nghĩa Thục.
Ông Trịnh Văn Bô cùng vợ là bà Hoàng Thị Minh Hồ, trong
10 năm, kinh doanh thành công, đưa tài sản của hãng tơ lụa Phúc Lợi tăng lên
100 lần so với ngày thừa kế hãng này từ cha mình. Tơ lụa do Phúc Lợi sản xuất
được bán sang Lào, Campuchia, Thái Lan, được các thương nhân Pháp, Anh, Thuỵ
Sĩ, Thuỵ Điển, Ấn Độ, Trung Quốc và Nhật Bản tìm kiếm.
Từ năm 1944, gia đình ông nằm trong sự chú ý của những
người cộng sản. Ngày 14-11-1944, hai vợ chồng ông bà cùng người con trai cả đồng
ý tham gia Việt Minh. Vài tháng sau, ông bà đã mang một vạn đồng Đông Dương ra ủng
hộ Mặt trận Việt Minh và từ đó, gia đình ông Trịnh Văn Bô trở thành một nguồn
cung cấp tài chánh to lớn cho những người cộng sản. Đến trước Cách mạng tháng
Tám, gia đình ông đã ủng hộ Việt Minh 8,5 vạn đồng Đông Dương, tương đương
212,5 cây vàng. Khi những người cộng sản cướp chính quyền, ông bà Trịnh Văn Bô
được đưa vào Ban vận động Quỹ Độc lập(298).
Ngày 24-8-1945, khi Chính phủ lâm thời về Hà Nội, Hồ Chí
Minh, Trường Chinh, Phạm Văn Đồng, Lê Đức Thọ, Hoàng Quốc Việt, Hoàng Tùng đều
đã ở hoặc qua lại ngôi nhà 48 Hàng Ngang. Ba đêm đầu Hồ Chí Minh ngủ trên giường
của ông bà Trịnh Văn Bô, sau đó, ông xuống tầng hai, ngủ trên chiếc giường bạt
còn các nhà lãnh đạo khác thì kê ghế da hoặc rải chiếu ngủ. Ở tầng trệt, cửa
hàng vẫn hoạt động bình thường, ngay cả bảo vệ của Hồ Chí Minh cũng không xuống
nhà để tránh gây chú ý. Mọi việc ăn uống đều do bà Trịnh Văn Bô lo, thực khách
hàng ngày ngồi kín chiếc bàn ăn 12 chỗ…
Khi Pháp tái chiếm Đông Dương, ông Trịnh Văn Bô theo
Chính phủ Kháng chiến lên Việt Bắc còn vợ ông thì mang 5 người con, trong đó có
một đứa con nhỏ, cùng với mẹ chồng lên “vùng tự do” Phú Thọ. Những năm ở đó, từ
một bậc trâm anh, thế phiệt, bà đã phải cuốc đất trồng khoai và buôn bán để
nuôi con. Năm 1955, gia đình ông Trịnh Văn Bô trở về Hà Nội. Ông bà tiếp tục
xoay xở và bắt đầu phải bán dần đồ đạc cũ để nuôi sống gia đình. Lúc này, toàn
bộ biệt thự, cửa hàng đều đã bị các cơ quan nhà nước sử dụng hoặc chia cho cán
bộ nhân viên ở. Lúc đầu, Nhà nước “mượn” sau tự làm giấy nói gia đình xin hiến,
nhưng cụ bà Trịnh Văn Bô bảo: “Tôi không ký”.
Năm 1958, Chủ tịch Hồ Chí Minh cho tiến hành “cải tạo xã
hội chủ nghĩa” trên toàn miền Bắc, các nhà tư sản Việt Nam buộc phải giao nhà
máy, cơ sở kinh doanh cho Nhà nước. Bà Trịnh Văn Bô lại được kêu gọi “làm
gương”, đưa xưởng dệt của bà vào “công tư hợp doanh”. Bà Bô cùng các nhà tư sản
được cho học tập để nhận rõ, tài sản mà họ có được là do bóc lột, bây giờ Chính
phủ nhân đạo cho làm phó giám đốc trong các nhà máy, xí nghiệp của mình. Không
chỉ riêng bà Bô, các nhà tư sản từng nuôi Việt Minh như chủ hãng nước mắm Cát Hải,
chủ hãng dệt Cự Doanh cũng chấp nhận hợp doanh và làm phó.
Cho dù được ghi nhận công lao, trong lý lịch các con của
ông Trịnh Văn Bô vẫn phải ghi thành phần giai cấp là “tư sản dân tộc”, và rất
ít khi hai chữ “dân tộc” được nhắc tới. Con trai ông Trịnh Văn Bô, ông Trịnh Kiến
Quốc kể: “Ở trường, các thầy giáo, nhất là giáo viên chính trị, nhìn chị em tôi
như những công dân hạng ba. Vào đại học, càng bị kỳ thị vì lượng sinh viên người
Hà Nội không còn nhiều. Trong trường chủ yếu là sinh viên con em cán bộ thuộc
thành phần cơ bản từ Nghệ An, Thanh Hoá… những người xếp sinh viên Hải Phòng,
Hà Nội vào thứ hạng chót. Chị tôi vào Đại học Bách Khoa, năm 1959, phải đi lao
động rèn luyện một năm trên công trường Cổ Ngư, con đường về sau Cụ Hồ đổi
thành đường Thanh Niên, và sau đó là lao động trên công trường Hồ Bảy Mẫu”.
Cả gia đình ông Trịnh Văn Bô, sau khi về Hà Nội đã phải ở
nhà thuê. Năm 1954, Thiếu tướng Hoàng Văn Thái có làm giấy mượn căn nhà số 34
Hoàng Diệu của ông với thời hạn 2 năm. Nhưng cho đến khi ông Trịnh Văn Bô qua đời,
gia đình ông vẫn không đòi lại được.
Sở dĩ tôi loay hoay gần tiếng đồng hồ để ráp hai bài báo
(thượng dẫn) với nhau vì bên dưới bài của tác giả Hoàng Thùy có vị độc giả, quí
danh là Lê
Tùng, đã cảm khái ghi lại dòng chữ phản hồi như sau: “Đọc bài viết,
tôi cảm phục gia đình bác quá. Đó là tấm gương sáng cho thế hệ trẻ chúng cháu.”
“Thế hệ trẻ chúng cháu” cần một tấm gương, chứ không phải là
một mảnh gương vỡt bởi những ông nhà báo bất lương, và bất trí – cỡ như
ông Hoàng Thùy hoặc Ngọc
Niên, thuộc Cơ Quan Trung Ương Hội Nhà Báo Việt Nam (*). Mồm miệng họ thì
lúc nào cũng xoen xoét nói đến “sự thực” và “lương tâm chức nghiệp” mà suốt đời
cầm bút luôn chỉ viết phân nửa sự thực thôi.
Tưởng Năng Tiến
(*) Xin đọc thêm phóng sự “Đi
Tìm Sự Thật Về Nhà Thờ Của Gia Đình Thủ Tướng Nguyễn Tấn Dũng Ở Kiên Giang ”
của Ngọc Niên, trên trang Thanh Niên Online, vào hôm 29 tháng 12 năm 2012.