(Bài viết của
GS TS, nhà văn Trần Kiêm Đoàn)
Trên nẻo đường
Nam Bắc Việt Nam, những bước chân lãng tử của giới văn nghệ sĩ dừng lại đậm nét
nhất với cả Hà Nội, Huế, Sài Gòn với nguồn cảm hứng sáng tác phong phú, nhưng nếu
xét về số lượng tác phẩm và tầm ảnh hưởng thì có thể ghi nhận rằng:
Hà Nội đứng
đầu với số lượng tác phẩm phong phú và đa dạng.
Sài Gòn
tươi mới với những tác phẩm đầy màu sắc năng động.
Huế lắng đọng với những tác phẩm mang chiều sâu trữ tình và trĩu nặng tâm hồn.
Người sinh
ra và lớn lên ở Huế cũng như khách thăm Huế đều có cùng cảm nhận tương tự về tầm
nhỏ nhắn, cảnh quang núi sông thơ mộng, điệu sống êm đềm trầm mặc của xứ nầy;
nhưng khác nhau là tâm lý đòi đoạn (Emotional Fragmentation in Psychology) mà
chỉ có những người Huế rặt chân quê mới trải nghiệm “nắng cháy da cháy thịt,
mưa héo úa tâm hồn” của vùng đất quê huơng độc ngự cảm quan từ thời thơ ấu. Nguồn
tâm lý nầy là khởi điểm của dòng cảm nhận: “Huế là quê hương đi để mà nhớ; chứ
không phải ở để mà thương”!
Một người
Huế nào đó đã đi khắp “ba đồng bảy đội” (tầm xa trái ngược với “ba đồng bảy đọi”)
mới thấu cảm hết câu hỏi: “vì răng mà lạ rứa? (xin trả lời “tại rứa chớ mần
răng”) như một loại công án về ngôn ngữ đặc chất đất lề quê thói rất Huế!
Có dịp đến
những vùng đất cổ tích từ đấu trường La Mã ở Ý, Kim Tự Tháp ở Ai Cập đến bến
sông Tiền Đường ở Trung Hoa nơi còn đượm dấu chân luân lạc nàng Kiều của Tố
Như… thì chỉ càng thêm nhớ Huế. Mãi cho đến khi đối diện với Bức Tường Than
Khóc (Wailing Wall) của Do Thái ở Jerusalem vào tháng Ba năm ngoái, nhìn dòng
người khóc lóc tiếc thương, nguyện cầu chí thiết dưới chân bức thành được cho
là huyền nhiệm đã gần hai nghìn năm, tôi mới hiểu Huế để cảm nhận trực tiếp nguồn
tâm cảm vì sao Huế đi để mà nhớ chứ không phải ở để mà thương vẫn còn mịt mờ giữa
cảm xúc mông lung và lý giải rạch ròi. Huế từng là Ô Châu Lạc Địa của Ma
Hời vong quốc. Huế là dòng trung chuyển của hào khí dân tộc mở mang bờ cõi của
tổ quốc tiến về Nam. Huế là kinh đô vương quốc đầu tiên trong lịch sử dân tộc
thống nhất giang sơn từ Bắc vô Nam. Huế là cái bể cạn nhỏ bé chứa những ước mơ
đại hải sông hồ. Nhưng hiện thực, Huế vẫn còn vất vả gieo neo đồng hành với bước
chân thời đại. Hệ luận thuận tình mà nghịch lý “đi dễ nhớ, ở khó thương” mang dấu
ấn Tâm Huế nầy thật không ngờ vẫn còn là dòng chảy luân lưu xuyên thế hệ.
Thật ngạc
nhiên và cảm động khi từ bên này bờ đại dương vừa được đọc một tác phẩm của thế
hệ đàn em: Huế, Quê Hương Đi Để Mà Nhớ; tác giả là Bùi Hoàng
Linh, đang ở độ tuổi tiền trung niên, tam tứ thập, lại là một người chuyên
ngành khoa học kỹ thuật (Kiến trúc sư). Thật thú vị khi đọc Bùi Hoàng Linh cảm
nhận về ý nghĩa Nhà và Quê Hương:
“Huế
bình thản ngày tạ từ mà đau đáu ngày đoàn viên. Huế để người ta đi xa ngái mà
day
dứt
thương nhớ cố quận khôn nguôi. Với tôi Sài Gòn là nhà mà Huế là quê hương!”
Quê hương
không chỉ là nơi lai lịch của mình thuộc về mà còn là nơi ẩn dấu cảm xúc miên mật
từ trái tim
như nhà thơ
M. Darwish nói lên từ cảm xúc chân phương rằng, “mái nhà là nơi để sống
nhưng quê hương là nơi nương náu của tâm hồn cho dẫu nghìn trùng xa cách (A
home is a place where you live, but a homeland is where your heart belongs,
even when you're far away."
Có chăng
thiên nhiên là thành quách rêu phong của một nguồn tình cảm Huế đã nảy mầm và
trấn ngự mà Bùi Hoàng Linh đã thể hiện trong tác phẩm, rằng:
“Những
cơn mưa dầm như một món đặc sản đã làm cho tình cảm Huế ít phát triển hướng
ngoại mà
thường hướng về chiều sâu của nội tâm, âm thầm mà chung thủy. Thế nên,
người ở
lại thì vẫn năm tháng đợi chờ gót lữ hành của kẻ ‘khăn gói đi xa’. Người viễn xứ
thì luôn
có một ‘góc Huế’ trong mớ hành trang của ký ức để luôn canh cánh trở về mỗi
khi thấy
nhớ.”
Và, Huế đây
rồi. Huế mang ngữ cảnh của Bức Tường Than Khóc Jerusalem qua cảm nhận của chàng
tuổi trẻ văn nhân xứ Huế
“Trên những
dấu vết của đền đài dường như nghe được cả trăm năm với lời cỏ cây xa xưa
vọng lại
...Và mỗi lần về Huế tôi cứ có cảm giác như được chạm tay vào từng dấu rêu,
được đặt
chân vào quá khứ. Cứ ngỡ như là một cuộc hành hương về lại với những ký ức
ngậm
ngùi bởi Huế mang riêng mình một nét đẹp mà buồn, rất buồn. Cái buồn của Huế
không rõ
ranh giới, không mang hơi hướng của lý tính vì thế mà nó lãng đãng như một
nửa câu
thơ ...chỉ một nửa thôi, nửa còn lại chờ người cố xứ mang về xứ thâm trầm của
mưa, của
nắng, của bỏng rát gió Lào mùa hạ.”
Quả nhiên
không phải là sự tình cờ chợt bắt gặp Huế qua nắng hàng cau hay nàng áo tím qua
cầu… mà bằng nguồn cảm xúc gieo mầm, đâm chồi và nở hoa trong tư tưởng nghệ thuật
của Bùi Hoàng Linh khi tác phẩm đầu tay về Huế là một thi phẩm… đậm tình với Huế
có nhan đề là Lời Thương Gửi Huế.
Cách viết của
Bùi Hoàng Linh giàu cảm xúc và tinh tế: Văn phong giàu chất thơ, thấm đẫm tình
yêu đối với Huế, nhưng không quá lụy về quá khứ mà luôn mang một sự trăn trở và
hoài niệm sâu sắc. Đặc biệt là nét Huế thật hồn nhiên mà cũng rất nồng đượm,
thâm cung:
“Cái mặt
hiền khô của người Huế cũng như dòng sông không gợn sóng mà đáy sâu chỉ giữ lại
cho riêng mình những gì riêng nhất...Tình Huế có cái chi đó thâm trầm, khiêm
cung, lặng lẽ, chìm khuất. Để khi xa rồi, tưởng sẽ quên dần theo thời gian mà
có đâu ngờ nỗi nhớ theo tháng theo năm đã hóa thành trầm tích, lắng đọng lại
cái tình lắm khi như cái roi tre của tình cảm vừa đủ ngậm ngùi rưng rức, để rồi
có người giữa phố thị không có ngõ sau vẫn luôn ngoái về quê mẹ.”
Huế đang
chuyển mình cùng chung với tầm cao, hướng xa và độ nhanh của thời đại. Mong
dáng xưa, hồn cũ của Huế sẽ không biến tướng với thời gian. Trong cuộc thế xuôi
dòng không ngừng nghỉ thế hệ văn nghệ trẻ như Bùi Hoàng Linh sẽ không bị mất
hút vì đi quá xa về phía trước; nhưng cũng không trơ vơ ngồi lại bên cầu. Cực
đoan trong nghệ thuật sáng tạo văn học nghệ thuật thường không có chỗ đứng của
dòng văn học nghệ thuật Huế.
Chúc mừng,
cảm khái và khen tặng tác phẩm viết về Huế của Bùi Hoàng Linh.
California
ngày 18-1-2025