Có những bài thơ, đầy cảm xúc, sau khi được soạn thành ca
khúc, nó biến dạng, trở thành một thứ cảm xúc khác, trong một hoàn cảnh khác,
và vẫn cứ hay.
Đó là trường hợp bài thơ “Khúc thuỵ du” của Du Tử Lê (Lê Cự Phách, 1942-2019) viết năm 1968. Đó là một bài thơ thời thế thảm khốc, biến thành một bài nhạc tình, pha chút hơi hướng thơ thiền, qua bàn tay của nhạc sĩ Anh Bằng. Sao lại có thể như thế?
Xin hãy đi lòng vòng với nhau một lúc, gọi là “nhập đề lung
khởi.”
Trước nhất là tựa bài thơ: Khúc thuỵ du, đoạn thơ, hay đoạn
nhạc mang tên hai người, “Thuỵ”, trong cái tên Hoàng Thị Châu và “Du” trong bút
hiệu Du Tử Lê (chàng lang thang họ Lê). Có lẽ Anh Bằng nhìn bài thơ qua cái tựa
để quyết định chỉ nói về chuyện tình, thay vì hoàn cảnh ra đời cực kỳ khổ đau của
bài thơ!
Du Tử Lê viết bài thơ ấy ngay trong mùa Xuân năm Mậu Thân
1968, trong cuộc tổng công kích của Cộng sản Việt Nam vào thành thị miền Nam.
Chàng du tử họ Lê, lúc đó là sĩ quan VNCH, được giao công tác làm phóng sự chiến
trường ở khu Ngã Tư Bảy Hiền, theo chân một tiểu đoàn Thuỷ Quân Lục Chiến.
Tại ngoại ô Sai Gòn, tác giả nhìn thấy những xác chết không
toàn thây, bị cháy nám, rất khó nhận biết đó là xác dân, xác lính hay xác bộ đội
Cộng Sản. Rất nhiều mảnh thịt người vương vãi hai bên đường. Có cả những cánh
tay văng ra, vướng trên giây điện. Rất nhiều căn nhà trúng bom, đạn pháo đổ
nát. Có những con chó vô chủ gậm chân, tay, xương người bên lề đường. Tất cả những
hình ảnh ghê rợn ấy đập vào mắt nhà thơ, quyện trong mùi hôi thối nặng nề bay
trong bầu không khí mà ông hít thở.
Trong hoàn cảnh đó, bài trường thi ra đời. Tác giả viết hơn
100 câu, và bộ Thông tin đã kiểm duyệt cắt bỏ mất 1/3 bài. Chàng lãng tử họ Du
thời đó viết tay và nộp bản duy nhất cho bộ phận kiểm duyệt. Ngày sau, chàng chỉ
có bản đã bị kiểm duyệt in trên báo “Văn”. Cái gì đã mất, mất luôn theo thời cuộc
xoay vần.
Du Tử Lê cho biết: “Tuy còn mấy chục câu thôi, nhưng nội
dung bài thơ, từ đầu đến cuối, vẫn là một bài thơ nói về thảm cảnh chiến tranh.
Người phụ trách phần kiểm duyệt vẫn để lại cho bài thơ của tôi những câu cực kỳ
“phản chiến” như: “…Ngước lên nhìn huyệt lộ – bầy quạ rỉa xác người – (của tươi
đời nhượng lại) – bữa ăn nào ngon hơn – làm sao tôi nói được…” Hoặc: “…Trên xác
người chưa rữa – trên thịt người chưa tan – trên cánh tay chó gậm – trên chiếc
đầu lợn tha…”
Mấy chục năm sau, bài thơ thời thế lại chạy qua một “cỗ máy
kiểm duyệt” khác, êm ái và nhẹ nhàng, biến thành bài thơ tình. Dấu vết chiến
tranh hoàn toàn biến mất. Sự đau đớn oằn oại vì chiến cuộc của tác giả được sơn
phết, tô vẽ, biến thành sự buồn khổ vì tình:
Tất nhiên là bao giờ cũng có những lời tình ngay trong hoàn
cảnh thảm khốc nhất. Khi cận kề cái chết, người ta nghĩ tới nhau, gọi tên nhau,
dù không thể trối trăng.
Thi sĩ tâm sự: “Nói cách khác, tình yêu chỉ là phần phụ; với
những câu hỏi được đặt ra cho những người yêu nhau, giữa khung cảnh chết chóc
kia, là gì? Nếu không phải là những tuyệt vọng cùng, tất cả sự vô nghĩa chói gắt
của kiếp người?”
Hôm nay, 57 năm sau, đọc lại bài thơ, tôi không khỏi bâng
khuâng và tự hỏi, làm thế nào để một bài thơ thảm khốc biến thành một bản tình
ca bất hủ, nói lên sự cách chia của đôi lứa, bằng hai câu kết buồn mênh mông
như một mặt hồ. Hai câu không hề có trong bài thơ gốc, nhưng nghe cũng rất du tử
lê!