Cô Giáo Jenny nhận quà Giáng Sinh do đại diện trại tỵ nạn
trao tặng, năm 1982
Sau ngày Việt Cộng cưỡng chiếm Miền Nam, dân Việt chúng ta
đã ào ạt bỏ xứ ra đi tìm Tự Do, vì không thể sống dưới chế độ bạo lực, tù đầy
và sự trả thù dã man của bọn Cộng Sản. Cả thế giới dang rộng vòng tay và lòng từ
thiện thiết lập những trung tâm tỵ nạn tại các hòn đảo trong vùng Á Châu Thái
Bình Dương để chúng ta có nơi tạm trú chờ đi định cư ở các quốc gia khác.
Trong
thời gian tạm trú này, đã có rất nhiều thiện nguyện viên nam cũng như nữ, già
cũng như trẻ, ở khắp mọi nơi trên thế giới tới các trại tỵ nạn để giúp đỡ chúng
ta tìm thân nhân thất lạc cũng như học Anh ngữ. Một trong những người trẻ đó là
cô Jennifer Joy Ramm mà các bạn hữu và các học viên thường gọi cô bằng cái tên
ngắn gọn và đầy tình thân: “Chị Jenny”.
Jenny là con cả trong một gia đình gốc Anh, sinh sống ở vùng
Burra Burri thuộc Tiểu bang Queensland. Đến khi lớn lên, gia đình đã chuyển về
Cooroy để cô có thể tiếp tục học bậc trung học ở Noosa.Tốt nghiệp trung học,
Jenny được học bổng của chính phủ Liên Bang để tiếp tục học ở Đại Học
Queensland.
Sau khi tốt nghiệp văn bằng Cử Nhân Văn Chương tại
Queensland, cô đã xuống Melbourne học thêm để lấy chứng chỉ về Giáo Dục tại Đại
học La Trobe.
Là thành viên của nhóm người trẻ tình nguyện hoạt động ở ngoại
quốc “Australian Volunteers Abroad – AVA”, vào năm 1976, cô Jenny được cử đi dậy
Anh ngữ tại một trường trung học ở Mukah, thuộc Malaysia. Với giọng nói nhẹ
nhàng, vui tươi và thái độ cởi mở, Cô giáo Jenny đã thu phục được nhân tâm của
các học sinh và phụ huynh của Mukah, đến nỗi có gia đình đã đặt tên con của họ
là Jenny để ghi nhớ thời gian cô dậy học cho các em học sinh tại đây.
Năm 1979, cô lại được cử đến trại tỵ nạn Ban Vmai ở Thái
Lan, để lập ra một chương trình giảng dậy tiếng Anh cho 60.000 người Hmong đang
sống ở trại tị nạn này. Để có thể dậy tiếng Anh một cách hữu hiệu, cô đã theo
cách thức của các nhà truyền giáo là học tiếng bản địa trước. Jenny đã bỏ ra bốn
tháng trời để chuyên tâm học tiếng Thái Hmong cho thật trôi chẩy, rồi sau đó mới
dùng chính ngôn ngữ của họ mà dậy tiếng Anh cho họ. Trong vòng hai năm trời, cô
đã xây dựng lên một trung tâm giảng dậy với nhiều lớp học, thuê giáo viên địa
phương và mua cả một chiếc xe chở hàng nữa.
Với những kinh nghiệm giảng dậy này, vào khoảng cuối năm
1981, cô đã được Cao Ủy Tỵ Nạn Liên Hiệp Quốc mới đi dậy tiếng Anh cho các Thuyền
Nhân Việt Nam tại trại Tỵ Nạn Galang, thuộc Indonesia.
Tại Galang, công vỉệc của Cô Giáo Jenny không chỉ đơn giản
là dậy tiếng Anh cho người Việt Nam, cô con phải giúp đỡ họ chuẩn bị cho cuộc sống
mới ở các nước Tây Phương, mà ở đó, không những họ chỉ phải đương đầu với sư
khác biệt về ngôn ngữ, mà còn cả những khác biệt về phong tục tập quán, cách thức
ăn uống và những sinh hoạt hàng ngày nữa. Các học viên của cô, gồm đủ mọi trình
độ, đủ mọi lứa tuổi và đủ mọi ý thích. Từ đó, cô Jenny mới chia lớp học ra
thành nhiều nhóm khác nhau: Nhóm nhỏ bạo dạn hơn, nói lung tung mà không sợ bị
chê là sai, nên học nhớ chữ mau hơn và nói đúng giọng hơn.
Nhóm lớn tuổi, trí nhớ kém đi và hay bị mặc cảm nên khó nhớ
mặt chữ và giọng đọc cứng hơn. Một nhóm đặc biệt mà chỉ có ở trại tỵ nạn Việt
Nam, đó là nhóm trai tráng đã đi lính, bị Việt Cộng bắt đi tù “Cải Tạo” rồi trốn
về hoặc được thả về. Nhóm người này đa số biết nói một chút ít tiếng Anh, một số
nói rất khá.Họ rất chăm chỉ học và cố gắng nói thật nhiều để cô sửa giọng cho họ.Đối
với nhóm cựu quân nhân này và những nhóm lớn tuổi, cách giảng tiếng Anh của cô
là kể những câu chuyện về đời sống hàng ngày tại Úc và dậy cho họ những câu đối
thoại cần thiết.
Theo kinh nghiệm dậy học cho người Hmong, ngoài giờ dậy học,
Jenny thường hay tới thăm viếng những láng trại của người Việt tỵ nạn để nói
chuyện với họ, tìm hiểu cách thức sinh sống của họ và nhất là . . . học tiếng
Việt bằng cách . . . nói tiếng Anh với người Việt. Từ những buổi tiếp xúc này
mà cô giáo Jenny quen biết rất nhiều bạn bè và biết ăn cơm, biết cầm đũa. Một
cô thợ may đã đo và may tặng cho Jenny một chiếc áo dài, cô mặc thử, thấy đẹp
quá, về thư viện, cô đã tìm sách đọc thêm, và sau khi biết chíêc áo này được
coi là quốc phục của người Việt Nam, cô đã khuyến khích các cô gái Việt trên đảo
giữ truyền thống áo dài của mình bằng cách . . . tổ chức một cuộc thi áo dài
ngay trên đảo tỵ nạn.
Cô Giáo Tỵ Nạn tổ chức thi Hoa Hậu Áo Dài mừng xuân Quý Hợi
1983 tại trại tỵ nạn Galang.
Trong một buổi giảng dậy, cô giáo Jenny để ý thấy có một cậu
trai luôn luôn lảng vảng phía ngoài lớp học, nhưng không bao giờ vào dự lớp học
của cô.Nghĩ rằng anh này có thể . . . còn ngại ngùng gì đó, nên cô giáo đã đích
thân ra mời anh vô lớp để học cho vui, nhưng anh mắc cở đỏ mặt chạy đi nơi
khác.Một lúc sau, anh ta lại quay trở lại, nhưng cũng vẫn đứng ở ngoài lớp học
chứ không vô trong lớp.Lâu dần, cô không thắc mắc nữa, mà chỉ giảng và đọc lớn
hơn để người đứng ở ngoài có thể nghe rõ hơn mà thôi.
Đến năm 1983, cô giáo Jenny trở về lại Melbourne, tiếp tục dậy
tiếng Anh tại Trung Tâm Anh Ngữ Cho Những Người Di Dân Lớn Tuổi (Adult Migrant
English Service-AMES), tại đây, Jenny cũng vẫn giúp đỡ người dân tỵ nạn Việt
Nam bằng cách khuyến khích họ làm những công việc mà họ có khả năng từ hồi ở Việt
Nam, và dậy họ nói Tiếng Anh về chính ngành nghề họ có thể làm, muốn làm và
đang làm. Cô giáo Jenny thành công ở chỗ, cô có thể nói tiếng Việt, hiểu tiếng
Việt, để nghe người Việt nói ra những điều họ muốn biết, muốn học, do đó đã
giúp người Việt có hứng thú khi học tiếng Anh và vì thế mà họ học mau hơn, tiến
bộ hơn. Jenny lại có sáng kiến tổ chức những buổi barbecue tại nhà của mình, mới
các bạn trẻ người Úc và người tỵ nạn Việt Nam cùng tham dự, để cả hai bên hiểu
rõ nhau hơn và nhất là để các bạn trẻ người Việt có cơ hội nói chuyện, trau dồi
khả năng Anh ngữ của mình.
Nhiều cô giáo đã rất ngại ngùng phải dậy học cho đám trẻ thiếu
niên đi tỵ nạn một mình, vì các em . . . khó dậy, không chịu tiếp xúc . . .
Riêng đối với Jenny, cô không thấy có gì trở ngại cả, vì cô hiểu tâm tình của
đám trẻ này, cứ để cho các em tâm sự với cô về những khó khăn của cuộc sống, cô
nhờ nhân viên xã hội giải quyết những điều các em mong muốn, rồi sau đó mới dậy
học cho các em nhỏ này. Việc quan trọng nhất mà Jenny muốn hướng dẫn họ là, nên
đi học trở lại để có kiến thức và có một tương lai tốt đẹp hơn.
Cũng vì tình thân với người Việt, đã có nhiều người mời
Jenny dự đám cưới của họ, và cô rất vui khi được mặc áo dài để bưng mâm ngũ quả
đi rước dâu.
Gia Đình hạnh phúc.
Trong một buổi barbecue mời tất cả các . . . cư dân của đảo
Galang, cô giáo Jenny lại gặp lại người thanh niên thường hay lảng vảng ngoài lớp
học của cô hồi còn ở trại tỵ nạn. Anh chàng cũng vẫn đứng một mình, tay cầm lon
coca xoay qua xoay lại chứ không bắt chuyện với ai. Cô giáo Jenny nghĩ rằng anh
này chắc . . . không biết tiếng Anh, hoặc là ít nói, nên đã tới nói chuyện với
anh ta.Anh vui vẻ nói chuyện, tự giới thiệu tên là Sơn, hiện đang làm việc cho
Australia Post, tại Blackburn Mail Centre. Cô Jenny rất là ngạc nhiên khi biết
anh . . . biết nói tiếng Anh, và lại nói khá nữa:
“Ah! Vì anh biết nói tiếng Anh rồi, nên mới không tham dự lớp
học của tôi ở trại tỵ nạn, có phải vậy không?”
Lại trái với dự đoán của Jenny khi anh con trai trả lời:
“Không phải vậy. Hồi đó, quả thực tôi dở tiếng Anh lắm. Vì
tình trạng chiến tranh, tôi chỉ mới học hết lớp 11 mà thôi. Đến khi Việt Cộng
chiếm miền Nam, tôi là con Lính Cộng Hòa nên đâu có được tiếp tục học nữa, tôi
phải đi bán hàng với mẹ để kiếm sống cho gia đình, bao nhiêu tiếng Anh tôi học ở
trường, tôi quên hết trơn, nên tôi đâu có biết học từ đâu? Thấy cô dậy học, tôi
cũng muốn vô học, nhưng thấy mình lớn rồi, vô học không biết một câu tiếng Anh
tiếng U nào hết . . . mắc cở với đám con nít lắm . . . nên tôi chỉ đứng ngoài
nghe lén mà thôi. Hơn nữa, cô nói tiếng Anh của người Úc . . . khó nghe quá,
tôi nghe như là . . . vịt nghe sấm . . . chẳng hiểu cô nói gì hết, thì làm sao
mà học?”
Cô giáo Jenny lúc nào cũng có thói quen nghề nghiệp, cô khuyến
khích Sơn:
-“Anh nói tiếng Anh hay lắm, lại được làm ở Australia Post
thì đời sống cũng khá lắm rồi . . . nhưng nếu anh muốn, anh có thể đi học lại,
vô đại học học nghành nào mà anh thích, biết đâu lại có tương lai sáng sủa
hơn!”
-“Tôi cũng muốn lắm, nhưng tôi . . . mới học xong lớp 11 chứ
chưa tốt nghiệp trung học, làm sao tôi có thể vô đại học được?Hơn nữa, tiếng
Anh của tôi chỉ đủ để làm việc thôi, chứ chưa đủ để học đại học đâu.”
-“Anh đừng lo, tôi có thể giúp anh về phần tiếng Anh, anh sẽ
dư sức học. Ở Úc có những trường cao đẳng, gọi là trường TAFE (Technical And
Further Education) dành cho những người chưa học xong trung học, tôi sẽ giới
thiệu anh với chú tôi, một giáo sư của trường Footscray Institute of Technology
(FIT- sau này nhập chung với trường Đại học Victoria University) để chú giải
thích cho anh nhiều hơn.”
Khi về nhà, anh Sơn mới kể lại câu chuyện cho người bạn cùng
phòng là anh Lê Hữu Giàu nghe.Anh Giàu cũng khuyên anh Sơn nên đi học để có
tương lai khá hơn.
Thế là anh Sơn đi gặp Giáo sư Douglas Ramm để vấn kế. Ông
Douglas làm đúng luật, đã đưa đơn cho anh điền để học thử ba môn học về Civil
Engineering xem kết quả ra sao cái đã. May mắn, anh đậu hết cả ba môn toán học
này, ông Douglas liền hướng dẫn anh một lần nữa nộp đơn xin học khóa Bachelor
of Civil Engineering.
Thực sự thì Sơn chưa muốn hoàn toàn định cư ở bên Úc, đầu óc
của anh vẫn còn hướng về Việt Nam: Khi Sơn còn ở trên đảo Galang, anh đã có
nghe về Phong Trào Phục Quốc của Tướng Hoàng Cơ Minh, Sơn định cư tại Úc đúng
vào thời điểm Phong Trào Phản Chiến bộc phát rất lớn, Sơn nhớ lời cha dặn là
ráng tìm cách gia nhập bất cứ tổ chức kháng chiến nào, để trở về Việt Nam tiêu
diệt bọn Cộng Sản, khôi phục lại chế độ Việt Nam Cộng Hòa thân yêu tràn đầy tự
do và lòng nhân ái. Do đó, khi được chấp nhận cho học, Sơn phân vân không biết
nên lựa chọn con đường nào? Anh đem việc này ra bàn với Jenny.Tiếc thay, cô
giáo Jenny chỉ có thể giúp anh trau dồi Anh ngữ thôi, chứ không có khả năng
giúp anh về vấn đề này, nên Sơn quyết định không nộp đơn xin học, mà chờ tin để
trở về Việt Nam cùng với các bạn bè trong nhóm.
Buồn thay, tổ chức phục quốc càng ngày càng im tiếng và
không có ai liên lạc với anh để nói tới ngày về cả. Sơn đành phải nộp đơn xin
đi học và bảo lãnh cha mẹ qua Úc chung sống.
Muốn tỏ tình với một cô gái đã là chuyện khó rồi, huống chi
cô gái này lại còn là cô giáo dậy tiếng Anh nữa, công việc càng trở nên phức tạp
và . . . khó khăn hơn.
Một lần đến nhà Jenny ăn cơm tối, Sơn đem theo cây đàn hát tặng
Jenny bản nhạc “Nắng Chiều”:
Hát xong bản nhạc, Sơn đã hỏi Jenny bằng tiếng Việt:
“Jenny à . . . nếu tôi muốn nói . . . anh yêu em . . . bằng
tiếng Anh, thì . . . làm cách nào để nói?”
Jenny thích bản nhạc Nắng Chiêu quá, đang lo hát theo, nên
không biết mánh của Sơn, cô ngây thơ trả lời:
“Thì nói . . . I love you . . . dễ mà.”
Thế là Sơn vừa khẩy đàn vừa nhìn Jenny mà hát câu hát để đời:
“I love you . . . I love you . . . and I love you . . .”
Sơn lại trả lời bằng . . . tiếng Việt:
“Anh nói thiệt mà!”.
Sơn tốt nghiệp thủ khoa khóa Civil Engineer của FIT vào năm
1990.Một tháng sau khi cha mẹ Sơn qua định cư ở bên Úc, Jenny và Sơn làm đám cưới.
Jenny rành đủ sáu câu về đám cưới Việt Nam, nên cô đòi đủ thứ . . . nào là áo
cưới cô dâu, vương miện, bông tai, dây chuyền vàng, ngũ quả, heo sữa và pháo nổ
. . . thậm chí cả phong bao lì xì cho đám con nít giữ cửa ở nhà gái khi rước
dâu cũng phải có đầy đủ.
Ba Mẹ của chàng rể Sơn mới từ Việt Nam qua, nghe đằng nhà
gái nói tiếng Anh líu lo cứ như là chim hót, chẳng biết người ta nói cái gì,
nhưng cũng biết đó là những lời chúc tụng cho cô dâu chú rể.Khi mẹ chồng được mời
ra đeo dây chuyền cho cô dâu, thiếu điều bà phải bắc ghế đứng lên mới quàng dây
chuyền qua cổ cô dâu Tây được. Đằng nhà gái lần đầu tiên nhìn thấy cô dâu và
đám phù dâu mặc áo dài thật là đẹp, thấy người nhà bưng các khay đựng đủ thứ
bánh trái, rồi lại được nghe pháo nổ đì đùng khói bay khét lẹt . . . thật là
vui . . . vui quá xá là vui.
Vì tốt nghiệp ưu hạng, Sơn được học bổng của chính phủ để học
Master, nhưng việc đầu tiên của người chồng và người con là phải lo làm ăn kiếm
tiền lo cho gia đình và phụng dưỡng cha mẹ, nên Sơn đã từ chối học bổng để đi
làm với công ty xây cất John Holland, và được cử đi làm việc ở Kuching, Mã Lai.
Đứa con gái đầu lòng tên Lana của hai vợ chồng ra đời vào
tháng 4 năm 1993, chỉ một tháng sau là Jenny đã được hưởng Mother day lần đầu
tiên trong đời.
Cô gọi điện thoại về Úc chúc mừng mẹ:
“Chúc mẹ một ngày “Mother day” vui vẻ . . . và cũng một ngày
“Mother Day” vui vẻ cho chính con nữa . . . vì con cũng đã là mẹ của bé Lana rồi.”
Đến năm 1995, em trai của Lana cũng đã chào đời, được ba mẹ
đặt tên là Liam (Từ khi Jenny mới bắt đầu mang bầu, hai vợ chồng đã bàn tính suốt
chín tháng trời để tìm cách đặt tên cho con, những cái tên nào vừa có sắc thái
của Vương Quốc Anh, lại vừa vẫn có vẻ là một cái tên Việt Nam. Lana cũng có
nghĩa là Lan và Liam cũng có thể đọc là Liêm.Ông Bà Nội cũng đọc tên các cháu
được, mà Ông Bà Ngoại cũng cảm thấy happy khi gọi tên hai đứa cháu của mình.)
Khi các con đã lớn, và cha mẹ đã có phần già yếu, Sơn và
Jenny quyết định xin trở về Úc làm việc. Lana thi đậu vào trườngMac Roberson và
tốt nghiệp VCA với số điểm ưu hạng 99.30 nhưng cháu lại không muốn học Y, Nha,
Luật . . . mà chỉ muốn theo gót của mẹ, học Art ở Melbourne University, thời giờ
rảnh thì cháu . . . đi làm việc thiện nguyện. Còn Liam thì học IT ở RMIT
University với ước mơ trở thành . . . tài tử đóng phim, trong khi Jenny thì đi
dậy trở lại ở VUT – Victoria University of Technology.
Lana và Liam được mẹ cho biết gốc gác của mình là . . . dân
tỵ nạn Việt Nam, vượt biên tới đảo và được định cư ở Úc, nên lâu lâu, hai chị
em đùa dỡn với nhau, Liam đóng vai Việt Nam, nói với chị:
“Tôi là . . . Vietnamese Boat people . . . tôi không biết
nói tiếng Anh . . .”
Lana đóng vai cô giáo, nghiêm trang trả lời:
“If you be good . . . I will teach you how to speak English
. . .”
Jenny và Sơn nhìn nhau cười.
Vào khoảng tháng Ba Năm 2011,trận bão Yasi đã tàn phá hầu hết
những trang trại trồng chuối ở Queensland, giá bán chuối ở các siêu thị vọt lên
tới con số kỷ lục là $14.00 một Ký, có nơi còn không có chuối để mà bán.
Sáng sớm ngày Mother’ Day năm 2011, ba cha con mặc quần áo đẹp
đẽ, trịnh trọng lái xe đi chợ, khệ nệ đem một gói quà thật lớn đưa tặng cho mẹ.
Hai chị em cùng la lớn:
“Happy Mother’ Day my dear Mummy”.
Jenny mở gói quà ra: Một nải chuối với năm trái chín vàng
óng ánh.
Jenny sung sướng cười thật tươi, nhưng vẫn cự nự chồng:
“Chuối mắc lắm, anh mua làm chi cho tốn tiền.”
Lana và Liam lại đồng thanh nói:
“Chúng con có tiền . . . chúng con mua tặng mẹ.”
Phần của Sơn là một bó hoa đỏ thắm đưa tặng vợ.
Jenny bị cancer ruột từ năm 2006, coi như đã lành bệnh sau
nhiều ca mổ, nhưng đến cuối năm 2011 thì bệnh của cô lại tái phát, qua những vết
sẹo còn lại của những ca mổ trước đây. Sơn nghỉ làm suốt ngày luẩn quẩn tại bệnh
viện St. Vincent lo chăm sóc cho Jenny. Nhà thương thấy vậy, cho Sơn mướn luôn
một phòng để ăn ngủ tại chỗ cùng với vợ.
Những ngày cuối của cuộc đời, hai đứa con cũng nghỉ học để ở
bên cạnh mẹ.
Lana và Liam nắm tay mẹ mà nói:
“Mẹ sẽ khỏe lại mà . . . Mother’s Day năm tới chúng con sẽ lại
mua chuối cho mẹ ăn nữa nha.”
Sơn so lại phím đàn, hát cho Jenny nghe bản nhạc “Bên Kia
Sông”:
Cô Giáo Tỵ Nạn Jenny Ramm ra đi vào ngày 10 01 2012 với tuổi
đời 58 còn rất trẻ trung, để lại chồng và hai đứa con.
Từ bốn phương trời, những người dân Việt tỵ nạn ở đảo Galang
trước đây đã được cô giáo Jenny dậy học tiếng Anh đã gởi thơ chia buồn đến cho
gia đình:
“Jenny . . . chúc chị ra đi bình yên . . . Tên của chị, hình
bóng của chị, tiếng Anh của chị dậy . . . sẽ không bao giờ phai nhòa trong trí
óc chúng tôi . . .”
Cô Giáo Tỵ Nạn Jennifer Joy Ramm, đã đem tất cả lòng nhiệt
thành và tuổi trẻ của mình ra để phục vụ người tỵ nạn khắp bốn phương trời, nhất
là người tỵ nạn Việt Nam
CÔ DÂU CỦA NGƯỜI VIỆT TỴ NẠN . . . LÀ NHƯ THẾ ĐẤY.