• Câu
chuyện mở đầu
Trong cuốn Ngàn Giọt Lệ Rơi (A Thousand Tears Falling), bà Đặng Mỹ Dung thuật lại cuộc đời và công tác gián điệp của bà. Bà là người con thứ tư trong gia đình 7 anh chị em, 5 gái, 2 trai. Người cha tên Đặng Văn Quang, sau đổi thành Đặng Quang Minh. Bà mẹ tên Trần Thị Phàm. Người cha Đặng Quang Minh là cán bộ cao cấp của Việt Cộng, đã từng làm đại sứ của “Chính phủ Cách mạng Lâm thời Cộng hòa Miền Nam Việt Nam”, ở Liên Xô và một số nước Cộng Sản Đông Âu.
Sau Hiệp định
Genève 1954, Đặng Quang Minh và con trai đầu lòng là Đặng Văn Khôi tập kết ra Bắc.
Bà mẹ và các con nhứt định không đi tập kết vì không ưa chế độ Cộng Sản. Ông
Minh không muốn làm áp lực mạnh, vì tin tưởng rằng hai năm sau sẽ trở về đoàn tụ
gia đình.
Sau khi học
hết chương trình trung học ở trường Phan Thanh Giản, Cần Thơ, năm 18 tuổi, Mỹ
Dung nhận được việc làm ở phòng Tâm lý chiến thuộc Quân đoàn 4, Cần Thơ.
Bà mẹ bán
tiệm may, cùng với mấy chị em dọn về Sài Gòn. Ở Sài Gòn, Mỹ Dung được thu nhận
vào làm việc tại Trung tâm BOQ (Bachelor Officers’ Quarter). Ở đây bà gặp và có
mối tình với Trung úy Hải Quân John James Krall, tình báo Hải Quân Hoa Kỳ. Sau
vụ tấn công Tết Mậu Thân 1968, cả hai về Mỹ, và làm đám cưới tại Monterey,
California. Dung được đổi thành Yung và lấy họ của chồng là Krall. Cái tên Yung
Krall từ đó.
Năm 1975,
John J. Krall chuyển về làm việc ở Hạm đội Thái Bình Dương, do Đề đốc Gaylor
làm Tư lịnh . Yung Krall xuất sắc trong vai trò gián điệp đôi, đã phá vỡ hai ổ
gián điệp Việt Cộng ở Hoa Kỳ và Pháp.
Trong tựa đề
của cuốn Ngàn Giọt Lệ Rơi, cựu Bộ trưởng Tư pháp Hoa Kỳ, Griffin Boyette Bell
đã viết: “Yung Krall đúng là một công dân Hoa Kỳ vĩ đại. Tôi nhiệt liệt tán
dương sự nghiệp của cô đối với đất nước chúng ta”.
• Tình
nguyện làm gián điệp để di tản gia đình
Ít ngày trước
30/4/1975, bất ngờ vào một buổi sáng, Yung Krall nhận một cú điện thoại từ
Paris của một người Pháp, xưng tên Jean Sagan, bạn thân của cha bà là Đặng
Quang Minh, báo tin Miền Nam VN sắp sụp đổ, và hối thúc Yung Krall di tản gấp mẹ
và em ra khỏi nước. Yung Krall sực nhớ lại ba năm trước, có nhận được, cũng của
kẻ trung gian bí mật này, một bao thơ (không ghi tên người gởi), cũng từ Pháp,
chuyển một số hình của Đại sứ Đặng Quang Minh chụp ở Hà Nội chung với Hồ Chí
Minh, Lê Duẩn, Trường Chinh.
Chồng của Mỹ
Dung là Thiếu tá John J. Krall xin nghỉ phép 30 ngày, tức tốc bay về Việt Nam,
vận động với Sứ quán Hoa Kỳ để đưa mẹ vợ và em vợ được sang Mỹ. Theo nguyên tắc,
chuyến đi nầy bất hợp pháp, vì Bộ Quốc phòng Mỹ cấm sĩ quan tự ý đến Việt Nam,
nếu không có công vụ lịnh của cấp chỉ huy. Việc này làm cho Yung Krall lo âu,
không biết việc gì có thể xảy ra cho chồng và gia đình ở Việt Nam. Bà liền nghĩ
ra một ý kiến táo bạo, là điện thoại cầu cứu thẳng cho Đề đốc Tư lệnh Hạm đội
Thái Bình Dương.
Sau một thời
gian chờ đợi, khó khăn, Mỹ Dung được nói chuyện với Đề đốc. Bà cho biết chức vụ
của cha trong chính quyền Việt Cộng, đồng thời cho biết những nguy cơ của mẹ, kể
cả nội dung cuộc điện đàm với người Pháp tên Jean Sagan, về nguy cơ sụp đổ của
chính quyền miền Nam. Đề đốc Gaylor liền cho Thiếu tá Hải Quân Dave Smith tiếp
xúc với bà để lấy thêm những chi tiết cần thiết. Trong cuộc gặp gỡ này, để được
chắc ăn, Mỹ Dung cho biết, bà sẽ tình nguyện phục vụ chính phủ Hoa Kỳ khi nào cần
đến.
Tình nguyện
của bà có hiệu quả nhanh chóng. Không đầy 24 giờ sau, một nhân viên CIA, mặc
thường phục, tên Bob Jantzen đến tận nhà bà, sốt sắng ghi đầy đủ lý lịch của
thân nhân bà ở Việt Nam. Bob cũng hứa sẽ thông báo cho Tòa Đại sứ Mỹ ở Sài Gòn,
cho biết John Krall đang ở Việt Nam. Tham vụ Ngoại giao của Sứ quán Mỹ ở Việt
Nam là Grant Ichikawa liên lạc được với chồng bà để sắp xếp mọi việc cho thân
nhân của bà. Ngày 10/4/1975, John Krall về Mỹ trước. Vài hôm sau, mẹ và em của
bà đến phi trường Honolulu, Hawaii.
Tháng 6 năm
1975, Bob Jantzen cho Mỹ Dung gặp sĩ quan phụ trách công tác là Robert Hall
(Rob) là người trực tiếp làm việc với Mỹ Dung, trong những việc như theo dõi
công tác, ra chỉ thị, nhận báo cáo, v.v. Rob cử Mỹ Dung theo học khóa huấn luyện
ở Langley.
• Mỹ
Dung gặp cha lần thứ nhất sau 20 năm xa cách
Ngày
20/7/1975, Mỹ Dung vui mừng khi đọc được một bản tin trên tờ báo Japan Times,
cho biết ngày 5/8/1975, hai phái đoàn, Hà Nội và Mặt Trận Dân Tộc Giải Phóng Miền
Nam, do Đỗ Xuân Oánh và Đặng Quang Minh hướng dẫn, sẽ đến Tokyo để tham dự Hội
nghị Quốc tế, chống bom nguyên tử. Mỹ Dung vui mừng, liền bay qua Nhật với đứa
con trai tên Lance, 5 tuổi, để gặp lại cha sau hơn 20 năm nhớ thương. Trong cuộc
gặp, Đặng Quang Minh không dám nhận con gái và cháu ngoại, mà bảo là người quen
cùng làng. Mỹ Dung đau buồn vì không nói được tiếng Ba đối với người cha vô
cùng thương nhớ, mà xưng hô với nhau là bác, cháu.
Khi chia
tay, Ông Minh an ủi con gái: “Ba không tìm cách thay đổi con, nhưng xin con
cũng đừng dày xéo niềm tin của ba. Nếu con thoải mái với niềm tin của con thì
ba cũng hài lòng”.
• Mỹ
Dung gặp cha lần thứ hai
Giữa tháng
9 năm 1975, khi được biết người cha có chuyến công tác đến Paris, Mỹ Dung làm
thủ tục để đưa mẹ (Bà Trần Thị Phàm) sang Pháp để gặp cha. Trước ngày khởi
hành, sếp CIA là Jerry Parker tiếp Mỹ Dung tại một nông trại ở Virginia, ông tỏ
ý muốn giúp sĩ quan Việt Cộng Đặng Văn Khôi, là anh cả của Mỹ Dung, đào thoát
khỏi chính quyền Cộng Sản. Khôi là chuyên viên về tên lửa hướng dẫn (guided
missiles) được huấn luyện ở Trung Quốc và Liên Xô. Robert Hall được lịnh qua
Paris để theo dõi và giúp đỡ Mỹ Dung.
Tại Paris,
bà Trần Thị Phàm vui mừng tràn đầy nước mắt khi gặp lại chồng sau 21 năm xa
cách. Những ngày vui ngắn ngủi qua mau, bà Phàm lại đầm đìa nước mắt khi chia
tay. Ông Minh lên máy bay Aeroflot về sứ quán của ông ở Liên Xô. Cũng tại
Paris, ông Phan Thanh Nam, đại diện Mặt Trận Dân Tộc Giải Phóng Miền Nam, đề
nghị để cho sinh viên Phạm Gia Thái đưa mẹ con bà Mỹ Dung về ngụ ngôi nhà ở
Verrière-la-Buisson, đồng thời làm hướng dẫn viên hai người khách đi thăm
Paris. Bà Mỹ Dung khéo léo từ chối, là đã thuê phòng tại khách sạn rồi. Cũng
trong lần gặp gỡ nầy, cả ông Đặng Quang Minh và Phan Thanh Nam đều thuyết phục
mẹ con bà Mỹ Dung hãy về sống tại Việt Nam.
Đại sứ Việt
Cộng Võ Văn Sung mời bà Mỹ Dung đến sứ quán, tỏ ý muốn chồng bà, Thiếu tá John
Krall, tiếp xúc làm việc với cha vợ Đặng Quang Minh, giúp Hà Nội. Đồng thời vận
động dư luận quần chúng Mỹ đòi Hoa Kỳ phải bồi thường chiến tranh 3.25 tỷ đô la
như Tổng thống Richard Nixon đã hứa hồi tháng 2 năm 1973. Võ Văn Sung cũng cho
biết, Việt Cộng có một số “cảm tình viên” ở Mỹ, và yêu cầu bà Mỹ Dung tiếp xúc
và làm việc với người cầm đầu Hội Việt Kiều Yêu Nước ở San Francisco tên Phan
Thanh Nam, ông Nam cũng tuyển mộ Mỹ Dung làm việc cho Cộng Sản để thu lượm tin
tức trong chính quyền Hoa Kỳ. Hắn cũng đề nghị Mỹ Dung nên giả vờ như một người
chống Cộng. (“You should even pretend that you are anti-communist).
Khi trở về
Hawaii, Yung Krall được CIA chỉ thị, cùng chồng dời về sinh sống ở thủ đô
Washington, D.C.
Hướng công
tác mới là phá vỡ hệ thống gián điệp Cộng Sản ở nước ngoài.
• Yung
Krall đóng vai trò gián điệp nhị trùng
Đặng Mỹ
Dung được bố trí đóng vai gián điệp nhị trùng, một vai trò khá nguy hiểm, là
khi có gián điệp nhị trùng của hai bên đụng độ với nhau, nhưng Mỹ Dung vẫn chấp
nhận. Vài tháng sau, Mỹ Dung trở qua Paris để bắt liên lạc với Huỳnh Trung Đồng,
Chủ tịch Hội Liên hiệp Việt kiều ở Pháp. Mỹ Dung được hướng dẫn đi thăm trụ sở
và thư viện, chứa đầy những tài liệu tuyên truyền. Tham dự những buổi học tập của
cán bộ, và gặp các phần tử than Cộng Việt-Pháp. Bà cũng được trao những ấn phẩm
Anh-Việt để phổ biến ở Hoa Kỳ.
Điều quan
trọng là Huỳnh Trung Đồng căn dặn Mỹ Dung phải tiếp xúc với cán bộ Nguyễn Thị
Ngọc Thoa ở thủ đô Washington, để phối hợp hoạt động. Ngọc Thoa là người cầm đầu
mạng lưới tình báo ở thủ đô Washington. Về Mỹ, khi nghe Mỹ Dung báo cáo, sếp
CIA Robert Hall ngăn cản, không cho Mỹ Dung gặp mặt Ngọc Thoa, cho đó là vụ việc
của FBI. Sếp CIA hăm dọa, sẽ bãi nhiệm Dung, nếu không tuân lệnh. Cho rằng,
không một ai được phép làm việc cùng một lúc với CIA và FBI.
Đối với Mỹ
Dung, đó là việc duy nhất mà bà phải làm, và hơn nữa, bà đã bỏ ra nhiều công sức,
chỉ còn một vài bước nữa là hoàn tất công việc. Mỹ Dung bướng bỉnh cãi lại, cho
rằng bà đã làm việc không ăn lương cho CIA suốt 9 tháng qua, và không có một hợp
đồng nào cả, không có một ràng buộc nào cả. Bà không phải là nhân viên chính thức
của CIA.
Mỹ Dung nhờ
chồng trình vụ việc lên Đề đốc Bobby Inman, Giám đốc Cục Tình báo Hải Quân, mà
John Krall là nhân viên của cơ quan này. Vài hôm sau, Đề đốc Inman tiếp xúc với
bà. Bà cho biết, việc cần thiết phải làm, là phá vỡ màng lưới gián điệp Việt Cộng
ở Hoa Kỳ. Ông Inman hứa sẽ thảo luận với Giám đốc FBI là ông Clarence Kelly.
Vào tháng 6
năm 1976, nhân viên FBI Bill Flesman và nhân viên đặc trách CIA, Bill Reardon
được chỉ định cùng làm việc với Mỹ Dung. Từ đó, một điệp vụ có hợp đồng chính
thức.
• Vụ
án gián điệp Đinh Bá Thi và Trương Đình Hùng
Do bức thơ
giới thiệu của Huỳnh Trung Đồng, Chủ tịch Hội Liên hiệp Việt Kiều ở Pháp, Mỹ
Dung gặp bà Ngọc Thoa một cách dễ dàng, tại một căn gác nhỏ ở địa chỉ đường
18th Street, thủ đô Washington. Địa chỉ nầy là nơi phát hành tài liệu tuyên
truyền của Việt Cộng, cũng là nơi phát hành nguyệt san Người Việt Đoàn Kết. Nhờ
sự giúp đỡ của LM Trần Tam Tĩnh, Canada, nguyệt san xuất bản 5,000 số mỗi
tháng.
Bà Thoa sống
rất kín đáo và kham khổ. Có chồng Mỹ là người thiên tả, thân Cộng. Hệ thống hoạt
động của bà Thoa gồm những trí thức người Việt thân Cộng ở Mỹ.
Một sinh
viên có khả năng và hăng hái hoạt động là Trương Đình Hùng, con của Luật sư
Trương Đình Dzu. Bà Mỹ Dung trở thành người “giao liên” chuyển những bao thơ mật
của Trương Đình Hùng và của bà Thoa đến Huỳnh Trung Đồng và Nguyễn Ngọc Giao ở
Paris. Đương nhiên là những thơ mật đã được copy để lưu hồ sơ. Trong đường dây
gián điệp Việt Cộng, bà Mỹ Dung cũng bắt liên lạc được với Nguyễn Văn Lũy, Chủ
tịch Hội Việt Kiều Yêu Nước tại San Francisco, và những thành viên khác.
• Gặp
Đại sứ Việt Cộng Đinh Bá Thi ở trụ sở Liên Hiệp Quốc
Cuối năm
1976, bà Dung điện thoại xin đến thăm Đinh Bá Thi, Đại sứ Việt Cộng ở trụ sở
Liên Hiệp Quốc, New York. Ông Thi vui vẻ nhận lời vì đã quen biết với cha bà là
Đặng Quang Minh. Mục đích đến thăm là trao một bao thơ mật mà Trương Đình Hùng
gởi cho ông. Ông Thi mời bà Dung đến ở tại Sứ quán Hà Nội ở LHQ. Sự việc bất ngờ,
ngoài dự liệu. Bà thông báo cho hai sếp CIA và FBI, cho biết, nếu trong 3 ngày
mà không có liên lạc, thì có thể gặp nguy hiểm.
Bà Dung cho
biết, trong sứ quán, ngoài ông Thi ra, thì chỉ có 4 người. Họ ăn ở chung với
nhau. Thường xuyên nghe ngóng thời sự qua 3 cái tivi, và không ai được phép rời
New York quá 25 dặm. Tất cả đều nhịn ăn sáng để tiết kiệm. Đó là thời điểm mà
người Việt trong nước ăn bo bo hoặc ăn độn với khoai.
Theo bà Mỹ
Dung thì ông Thi tánh tình cởi mở, không quá khích. Ông cho biết, vợ ông bịnh nặng
ở Việt Nam mà chính phủ không cho xuất ngoại, vì nguyên tắc là nhân viên ngoại
giao không có quyền đem gia đình theo, để tránh nạn đào ngũ. Ông Thi buồn rầu
nhận định: “Khi một chế độ không mang lại hạnh phúc cho dân và không đưa đất nước
tiến tới một tương lai đã hứa hẹn, thì phải thối lui, và tự đặt câu hỏi: Vì
sao?” (Trang 312 Hồi ký).
• Chiến
dịch Operation Magic Dragon của FBI
Trương Đình
Hùng bị FBI bắt.
Chiến dịch
Operation Magic Dragon (Rồng Ma Thuật) nhằm vào Trương Đình Hùng và Ronald
Louis Humphrey.
Kể từ năm
1977, Mỹ Dung bám sát vào Trương Đình Hùng (David Hùng). Hùng không thuận với
Nguyễn Văn Lũy, Chủ tịch Hội Việt Kiều Yêu Nước tại San Francisco (HK),
nên Hùng nhờ “người giao liên” Mỹ Dung liên lạc thẳng với Phan Thanh Nam, Xử lý
Thường vụ đại sứ Mặt trận Dân tộc Giải phóng Miền Nam Ở Paris, và Đại sứ Đinh
Bá Thi (LHQ). David Hùng tâm sự với người giao liên, với khả năng và sự ngoại
giao rộng rãi, anh ta hy vọng được kết nạp vào Đảng và giao trách nhiệm điều
khiển hệ thống tình báo ở Hoa Kỳ.
Trong bức
thơ mà Phan Thanh Nam nhờ Mỹ Dung chuyển cho David Hùng, ông Nam viết: “Hoan
nghênh chương trình làm việc của anh… đã có khả năng và mánh lới thu thập tin tức…”
Tóm lại,
Trương Đình Hùng tự nhận là gián điệp của Việt Cộng, không thể chối cãi được ở
tòa án.
Một hôm,
David Hùng khoe với Mỹ Dung rằng anh ta “có thể có những gì anh muốn, nhờ một
nhân vật “vô ra tự do ở tầng thứ 7 của Bộ Ngoại giao”.
Mỹ Dung liền
báo cho Giám đốc FBI là ông Clarence Kelley và Thứ trưởng Bộ Ngoại giao Warren
Christopher về vụ việc. Thế là chiến dịch Operation Magic Dragon thành hình.
• Bao
thơ cuối cùng của người giao liên
Khi Mỹ Dung
đến từ giã David Hùng để đi Luân Đôn, bà theo chồng đến nhiệm sở mới, là Bộ Tư
Lệnh Hải Quân Hoa Kỳ ở Âu châu. Hùng đưa cho Mỹ Dung một bao thơ đựng tài liệu
lấy ở Quốc Hội, trao cho Huỳnh Trung Đồng. Hùng nói: “I ran over the Congress
to get a package of that stuff”.
Đó là bức
thơ cuối cùng của người giao liên.
Do điệp
viên Mỹ Dung thông báo, với sự đồng ý của Tổng thống Jimmy Carter và giấy phép
của Bộ trưởng Tư pháp, Griffin Bell, FBI đặt máy thu hình bí mật tại văn phòng
của Humphrey ở cơ quan USIA. Và đặt máy nghe lén, micro, tại nhà của David
Hùng.
Ngày
31/3/1978, FBI bủa lưới bắt Ronald Humphrey và Trương Đình Hùng.
Trong những
bức thơ mà David Hùng nhờ Mỹ Dung chuyển đi, có hai tài liệu mật do Ronald L.
Humphrey, nhân viên của cơ quan USIA (US Information Agency). Ông nầy, 46 tuổi,
có người vợ Việt Nam tên Kim, bị kẹt ở Việt Nam sau 30/4/1975. Ông trao tài liệu
mật để David Trương can thiệp cho vợ ông được sang Mỹ.
Chứng cớ rõ
ràng không thể chối cãi, nên cả hai, David Trương và Humphrey, mỗi người lãnh
15 năm tù. Đinh Bá Thi được hưởng quy chế ngoại giao nên bị trục xuất ra khỏi
nước Mỹ.
Đinh Bá Thi
là đại sứ đầu tiên của Việt Cộng ở Liên Hiệp Quốc, mà làm ăn bê bối, mời gián
điệp Mỹ vào ở sứ quán mà còn tâm sự “linh tinh vô tổ chức” nhằm bôi bác chế độ,
(Thời điểm 1968) nên bị thanh trừng bằng cái chết bất thường vì tai nạn ô tô
khi từ Phan Thiết vào Sài Gòn.
Tại tòa án,
Humphrey tố cáo David Hùng lừa gạt ông ta. David Hùng không làm gì cả trong việc
đưa bà Kim, vợ ông sang Mỹ. Mà do các nhà ngoại giao Thụy Điển, Tây Đức và Hội
Hồng Thập Tự Quốc tế can thiệp.
• Vài
nét tổng quát về Trương Đình Hùng và Trương Đình Dzu
Trương Đình
Hùng (David Trương), con của Trương Đình Dzu, sinh ngày 2/9/1945 tại Sài Gòn.
Năm 1965, sang Mỹ du học. Ông tỏ ra có cảm tình đặc biệt và ủng hộ chính quyền
Hà Nội. Nhiệt liệt ca ngợi Mặt trận Dân tộc Giải phóng Miền Nam. Ông và một
nhóm bạn bè tích cực ca ngợi hai phái đoàn Việt Cộng trong Hội đàm Paris.
Trong vụ án
gián điệp năm 1978, Trương Đình Hùng bị kết án 15 năm tù. Ở tù được 7 năm 4
tháng thì được trả tự do với điều kiện là phải ra khỏi nước Mỹ. Năm 1986, ông
Hùng và người vợ Mỹ, Carolyn, đến sống ở Hòa Lan. Ông đi nhiều nơi, và sau cùng
chết vào ngày 26/6/2014 tại Penang, Malaysia, thọ 69 tuổi.
Cha của
Hùng, Luật sư Trương Đình Dzu, sinh ngày 10/11/1917 trong một gia đình giàu có
và quyền thế ở Bình Định. Ra Hà Nội học trường Lycée Albert Sarraut, rồi học
khoa Luật của Đại học Đông Dương. Năm 1945, Trương Đình Dzu vào Sài Gòn mở tổ hợp
luật sư, gồm có Nguyễn Hữu Thọ, sau làm Chủ tịch Mặt trận Dân tộc Giải phóng Miền
Nam, và Trần Văn Khiêm, em của bà Trần Lệ Xuân, vợ của Ngô Đình Nhu.
Năm 1967,
ông Dzu ra ứng cử Tổng thống, chạy đua với liên danh Nguyễn Văn Thiệu-Nguyễn
Cao Kỳ. Sau khi thất cử, ông bị bắt về tội hoạt động cho Việt Cộng. Ông Dzu ngồi
tù cho đến tháng 4 năm 1975, thì được Tổng thống Trần Văn Hương ký lệnh trả tự
do cho ông.
Mỉa mai
thay. Năm 1978, con trai ông là Trương Đình Hùng bị tù 15 năm về tội làm gián
điệp cho Việt Cộng, thì ở Việt Nam, Trương Đình Dzu bị đi tù cải tạo từ năm
1978 đến năm 1987 (9 năm) vì tội làm gián điệp cho CIA.
Sau khi ra
trại, Dzu phải sống trong một thời gian dài trong tình trạng bị quản chế cho đến
ngày chết vào năm 1991.
( 1946 -
2023)
• Những
lời khen tặng bà Đặng Mỹ Dung
Bà Mỹ Dung
được đề cao như: Yung Krall, truly a great American…a genuine American hero.
Giáo sư Douglas Pike, thuộc Đại học Berkeley viết: “Yung Krall’s A Thousand
Tears Falling is one of the best of this genre”.
Ngày
19/4/1996, tại buổi lễ ở Kennesaw State College, GA, Ủy ban Georgia Author of
the Year Committee đã bầu Đặng Mỹ Dung là một trong 45 tác giả đặc sắc nhất của
năm. Đại hội toàn quốc Society Daughter of The American Revolution Hoa Kỳ, đã tặng
huy chương Danh Dự về thành quả phục vụ cộng đồng và đất nước Hoa Kỳ. Giới lập
pháp và hội đoàn Cựu Chiến binh Mỹ cũng thường mời Yung Krall đến trình bày về
các vấn đề Việt Nam.
• Kết
luận
Làm gián điệp
xâm nhập vào lòng địch là một vai trò rất nguy hiểm, nhất là gián điệp hai
mang.
Người phụ nữ
Việt Nam, bà Đặng Mỹ Dung (Yung Krall) đã hoàn thành nhiệm vụ một cách xuất sắc,
rất tài tình. Đã phá vỡ hai ổ gián điệp Việt Cộng, một ở Pháp và một ở Hoa Kỳ.
Nhiệm vụ này không có một người Mỹ nào thi hành được cả, vì phải xâm nhập vào
các cộng đồng người Việt ở Pháp và ở Hoa Kỳ.
Cựu Bộ trưởng
Tư pháp Hoa Kỳ, Griffin Boyette Bell, đã viết: “Yung Krall đúng là một công dân
Hoa Kỳ vĩ đại. Tôi nhiệt liệt tán dương sự nghiệp của cô đối với đất nước
chúng ta”.
Trúc
Giang MN
(Minnesota,
7/3/2022) / Việt Báo
*******
Đặng Mỹ
Dung tên tiếng Mỹ là Yung Krall, sinh năm 1945 là một cựu điệp viên CIA, cựu đặc
vụ FBI gốc Việt và vợ của một sĩ quan hải quân Mỹ[1]. Bà Dung, cũng lại là một
liên lạc viên của các cơ quan tình báo Việt Nam ở Mỹ và Paris, là một nhân chứng
trong vụ án gián điệp của Trương Đình Hùng.
• https://www.voatiengviet.com/.../yung-krall.../896128.html
http://
•www.quocgiahanhchanh.com/cauchuyendiepvien.htm
• Đặng Mỹ
Dung https://g.co/kgs/5DGyQY
• Tiểu sử
Đặng Mỹ
Dung là con gái của Đặng Quang Minh (làm giáo chức tên thực là Đặng Văn Quang),
nguyên đại sứ Việt Cộng (MTDTGPMNVN) tại Nga, có 6 anh em. Năm 1954 khi bà được
9 tuổi thì cha bà tập kết ra Bắc. Mặc dù muốn đưa cả vợ con đi, nhưng vợ không
bằng lòng, vì không đồng ý với đường lối làm việc theo Cộng sản của ông, nên
ông chỉ đưa người con trai cả là Đặng Văn Khôi đi theo, để vợ và 6 người con ở
lại. Bà Dung chỉ gặp lại cha lần đầu tiên vào tháng 8 năm 1975 lúc cha bà đại
diện phái đoàn của Mặt trận Giải phóng Miền Nam đi qua Tokyo để dự hội nghị chống
bom nguyên tử. Theo bà Dung thì bà bắt đầu làm việc với cơ quan tình báo Mỹ CIA
vào tháng 5 năm 1975, để trả ơn cho họ, sau khi nhờ họ giúp má bà ra khỏi Việt
Nam[1].
Bà Đặng Mỹ
Dung đã cộng tác với CIA và FBI để phá mạng lưới gián điệp Việt Nam hoạt động tại
Mỹ thời kỳ 1976-1978[2], đưa đến việc ông Đinh Bá Thi, đại sứ Việt Nam tại Liên
hợp quốc bị trục xuất. Ronald Humphrey, người cung cấp tài liệu và Trương Đình
Hùng, người nhận và chuyển tới phía Việt Nam ở Paris qua bà Dung bị kết án 15
năm tù.
Ngàn Giọt
Lệ Rơi
Bà Dung được
biết đến nhiều qua cuốn tự truyện Ngàn Giọt Lệ Rơi (tiếng Anh: A Thousand Tears
Falling) kể lại hoàn cảnh của một gia đình bị phân chia vì chiến tranh, vì ý thức
hệ. Trong lời tựa của cuốn này, cựu Bộ trưởng Tư Pháp Hoa Kỳ Griffin Boyette
Bell viết: "Yung Krall đúng là một công dân Mỹ vĩ đại. Tôi nhiệt liệt tán
dương sự nghiệp của cô đối với nước ta, và tôi vui mừng thấy rằng cuối cùng người
đọc đã được biết đến câu chuyện của người phụ nữ xuất sắc này. Hy vọng của tôi
là cuốn sách này sẽ đóng góp vào quá trình hàn gắn vết thương và xiết chặt tình
cảm ở đất nước này và ở Việt Nam." [1]
Một câu
chuyện thật nhưng ly kỳ như trinh thám về cuộc đời của nữ điệp viên CIA Đặng Mỹ
Dung được bà kể lại trong 412 trang sách của cuốn tự truyện A Thousand Tears
Falling (Ngàn giọt lệ rơi)
Cuối năm
1995, nhà xuất bản Longstreet Press, Atlanta, Georgia, cho phát hành ấn phẩm ”
Ngàn Giọt Lệ Rơi, A Thousand Tears Falling “ của một phụ nữ Việt tên Yung Krall
tự Đặng Mỹ Dung , với lời giới thiệu nồng nhiệt của Griffin B. Bell , nguyên Bộ
trưởng Tư pháp thời Tổng thống Carter . Quyển tự thuật này, dày 412 trang, khác
với tác phẩm ” When Heaven And Earth” về nhiều khía cạnh : tác giả là một phụ nữ
thuộc giới trung lưu gốc Cần Thơ , trình độ trên trung học, sinh năm 1946, hoạt
động trong ngành tình báo CIA, đồng thời là nhân viên của FBI . Điểm đáng lưu
ý: Thân phụ của Yung Krall là Đặng Quang Minh, một thành viên cấp cao trong Đảng
CSVN và Đại sứ của Chính phủ Giải Phóng Miền Nam tại Bắc Âu và Liên Sô.
Năm 1968,
tác giả lập gia đình với Trung úy phi công Hải quân Mỹ John J. Krall. Sau khi bất
chấp hiểm nguy giúp chính quyền Hoa kỳ phá vỡ năm 1978 , mạng lưới tình báo Việt
cộng tại Mỹ gồm có Đinh Bá Thi, Trương Đình Hùng và đồng bọn, tác giả từ nhiệm
và về sinh sống tại Atlanta . Đương sự đã phải viết thơ khiếu nại thẳng với Đề
đốc Stansfield Turner, Giám Đốc CIA, và mặt khác, nhờ Văn phòng Luật sư Quinlan
J. Shea Jr , Columbia, Maryland, căn cứ vào Luật Thông tin Tự do, quyết liệt
tranh đấu nhiều tháng mới được phép thực hiện quyển hồi ký MNGLR . Cả hai,
Griffin Bell và Quinlan Shea, nơi trang 8 và 142 trong sách, đều đề cao
Yung Krall như “truly a great American …a genuine American hero”.
Phê bình về
các tác phẩm tả thực bi kịch VN, Gs Douglas Pike, thuộc Đại học Berkeley, viết
“Yung Krall’s A Thousand Tears Falling is one of the best of this genre, if not
the best”. Ngày 19.4.1996, tại buổi lễ ở Kennesaw State College, GA, Ủy ban
Georgia Author of the Year Committee đã bầu Đặng Mỹ Dung một trong 45 tác giả đặc
sắc nhứt trong năm. Ngày 18 tháng 4 sắp đến, Đại hội toàn quốc Society
Daughters of The American Revolution, Hoa kỳ, sẽ tặng cho đương sự tại Hoa Thịnh
Đốn huy chương danh dự về thành quả phục vụ cộng đồng và đất nước. Giới Lập
pháp và các hội đoàn cựu chiến binh Mỹ cũng thường mời Yung Krall trình bày về
vấn đề VN. Để giúp độc giả Việt nhận định về mối nguy nan do hoạt động tình báo
của CS Hà-nội tạo ra tại Hoa kỳ, nhứt là đối với cộng đồng di cư chúng ta, tác
giả bài này đã phỏng vấn Yung Krall về quyển sách của cô và nhiều chi tiết bên
lề. Xin tóm lược sau đây các điểm chính yếu.
• Tình
phụ tử sâu đậm không hàn gắn nổi những dị biệt chính trị giữa cha con.
17 chương đầu
của hồi ký MNGLR dành để trình bày cuộc sống của gia đình tác giả từ 1945 đến
1954 trong chiến khu Nam bộ và từ 1954 đến 1975 trong vùng quốc gia. Thân phụ của
Yung Krall xuất thân là một giáo viên, tên thật Đặng Văn Quang, sau đổi thành Đặng
Quang Minh, sinh năm 1909 tại Vĩnh Long, tham gia hoạt động cho CS từ lúc 18 tuổi,
bị Pháp bắt giam năm 1930 và sau 1940, đày ra Côn đảo cho đến 1945. Thân mẫu của
Yung Krall là bà Trần Thị Phàm, có 7 người con, hai trai và năm gái. Yung Krall
là người con thứ tư trong gia đình. Trước Hiệp định Genève, Đăng Quang Minh đắc
cử Dân biểu CầnThơ trong Quốc hội CS và năm 1954, rút về Bắc Việt để làm việc
trong ngành ngoại giao.