“Có những
niềm riêng một đời câm nín
Nên khi
xuôi tay còn chút ngậm ngùi”
(Lê Tín
Hương)
Hơn bốn mươi năm nay tôi có một ước mơ nhưng chưa bao giờ thực hiên được. Nó trở thành nỗi ám ảnh trong tôi. Tưởng đơn giản mà sao rất khó. Đó là về Huế, ngồi một mình ở Cercle, nhìn ra sông Hương và nhớ đến anh.
Tôi đã nhiều
lần về Huế, nhiều lần đi qua cầu Phú Xuân, nhìn vào Cercle nhưng “Nhìn xem
phong cảnh nay đà khác xưa”. Những năm sau 75, nó là nơi sinh hoạt Văn Thể Mỹ
cho nhi đồng. Thời mở cửa, đó trở thành nơi ăn nhậu xô bồ. Rồi được cổ phần hóa
thành Trung tâm dịch vụ Festival. Lần về Huế gần nhất, Cercle được che bạt để sửa
chữa. Tôi và cô bạn thân T.V đành ngồi ở Café trên hè đường Lê Lợi nhìn sang.
Không biết khi sửa xong, cái vẻ quý phái sang trọng của nó có còn giữ được?
Trước 75,
Cercle Sportif được xem là một nơi dành cho giới thượng lưu trí thức Huế. Trước
sân có hồ bơi, có sân Tennis. Đi vào là một sảnh rộng dành cho những buổi hòa
nhạc, khiêu vũ, có cầu thang đi xuống mé sông với những tấm dalle bằng beton
dành cho dân bơi lội Phía sau là một balcon hình bán nguyệt nhìn ra sông Hương
thơ mộng. Ở đây, khách có thể nhâm nhi một ly rượu, ăn nhẹ nhàng với những người
hầu nam lịch sự, nhìn những chiếc Perissoire lướt nhẹ trên sông.Tòa nhà thủy tạ
không cao, được sơn trắng, hài hòa với vẻ đẹp hiện đại mà cổ kính đặc trưng của
thành phố. Và chính ở đây, tôi đã gặp anh Long Lễ HVL.
Đó là một
cuộc gặp gỡ tình cờ và ngẫu nhiên. Tối đó, khoảng tháng hai năm 1973, tại
Cercle có buổi hòa nhạc của một band nhạc người Đức. Ma Soeur Madeleine kéo một
nhóm sinh viên đi nghe cho biết “thế nào là nhạc thính phòng”. Khi đó tôi học
năm thứ nhất ĐHSP và đang nội trú trong Inter Jeanne D’Arc.
Trước sảnh
người ta trưng bày một số tranh của các họa sỹ Huế như Đinh Cường, Tôn Thất
Văn, Vĩnh Phối…Chưa đến giờ nên chúng tôi cũng ngó nghiêng trong khi Soeur
Madeleine- một người thực sự có tâm hồn nghệ thuật- chăm chú thưởng ngoạn.Thực
sự, tôi cũng chẳng am tường gì về loại tranh lập thể và trừu tượng này. Tôi đi
vào một góc. Và ở đó tôi tìm thấy một bức tranh rất Việt Nam, dân dã và phồn thực.
Tranh vẽ cây chuối và một buồng chuối. Cây chuối mập mạp, những quả chuối thì
tròn căng đầy sức sống…Tôi kéo tay áo cô bạn đằng sau, miệng bô bô: “Tao chả hiểu
thế nào là nghệ thuật. Tao thích ăn chuối và tao thấy bức tranh này đẹp!”.
Không nghe cô bạn cùng chambre trả lời, tôi kéo mạnh tay áo giật giật. Ủa, sao
áo bạn cứng vậy cà? Tôi quay lui và nhận ra mình đang kéo tay áo một ông lính…rằn
ri!
Ngượng
ngùng đến đỏ mặt nhưng tôi không giấu nổi ngạc nhiên về sự tham dự của một người
lính trong sự kiện nghệ thuật này. Lính thì lo ra chiến trường đánh giặc chứ rảnh
đâu mà đi thưởng thức hòa tấu. Tôi cũng không biết đây là binh chủng gì, loong
lá ra sao vì tôi chỉ biết trong quân đội, bộ Treillis xanh có bông mai là Úy,
có gạch bên dưới là Tá. Đằng này quân phục thì loằng ngoằng, loong lá thì bên
vai alfa gạch gạch lung tung…Chịu!
Tôi lí nhí
xin lỗi và đúng lúc ấy chuông reo báo buổi hòa nhạc sắp bắt đầu.
Rất lịch
thiệp,người lính đưa tay hướng dẫn tôi vào khán phòng và ngồi xuống một ghế nệm
trắng. Ổng cũng ngồi một bên. Tôi đưa mắt nhìn quanh. Ông là người duy nhất măc
quân phục trong đám quan khách mặc Vest thắt cravate. Soeur Madeleine và các bạn
đang ngồi phía sau. Soeur gật nhẹ đầu trước ánh mắt cầu cứu và dò hỏi xin phép
của tôi.
Nhạc trưởng
người Đức bắt đầu đưa hai que điều khiển ban nhạc. Những bản nhạc nối tiếp
nhau. Khi thì dồn dập hào hùng, khi thì trầm lắng réo rắt…Và người ngồi cạnh
tôi như thả hồn trong chuỗi âm thanh hàn lâm đó. Chỉ khi chấm dứt từng bản ông
mới thì thẩm với tôi. Khi thì In a Persian market, khi thì Moonlight sonata,
khi thì Hòa tấu Mozart…May tôi còn hiểu nghĩa chứ nếu không thì thật quê độ!
Giữa phút
giải lao, người hầu bàn đưa nước mời. Toàn rượu màu trắng được ướp lạnh. Ông
bưng một ly ngửi nhẹ rồi trao cho tôi, nói nhỏ: “ Rượu chat trắng Sauterne cho
phụ nữ”. Ông cầm một ly khác rồi khà nhẹ “Whisky”. Tôi biết mình đang ngồi bên
một Quý ông lịch lãm!
Trời Huế lạnh
bởi còn mùa Xuân. Tôi mặc một chiếc Robe hồng nên hơi co ro. Tôi cầm mouchoir
che miệng tránh một tiếng ho bật ra. Ông nhìn sang có vẻ thông cảm…
Đêm nhạc chấm
dứt khoảng mười giờ. Ông bảo mình phải về đơn vị và xin tôi địa chỉ. Không hiểu
sao tôi đủ can đảm để cho dù luật nội trú khá nghiêm khắc. Tôi nhập vào đám bạn
và trở về inter, lòng không suy nghĩ gì khác.
Chiều thứ bảy
tuần sau, tôi có chuông báo xuống phòng khách có người gặp. Đó là ông và một
người lính khác. Sau tôi mới biết đó là một bác sỹ Quân y. Chúng tôi ngồi nói
chuyện dưới sự giám sát kín đáo của Soeur Anne gần đó. Những câu ngắn , vô thưởng
vô phạt. Ông hỏi tôi còn ho không. Ông trao cho tôi một hộp thuốc và nói bằng
tiếng Pháp “Deux capsules pour un jour”.
Cuộc gặp gỡ
trong vòng năm phút, tôi vẫn chưa biết tên và cấp bậc của ông. Nhìn vào cuốn sổ
trực nhật của Ma soeur, tôi thấy ông ghi tên Long Lê. Tôi nghĩ theo phương Tây,
chắc tên ông là Lê Long.
Phải gần
hai tháng sau mới có cuộc gặp gỡ thứ ba. Tôi từ cổng sau Văn khoa bước ra đường
Hoàng Hoa Thám. Ngang Bưu điện, một chiếc Jeep ngừng lại. Ông ngồi cạnh tài xế.Tôi
cảm thấy vui khi gặp lại ông. Ông đổi chỗ và mời tôi lên xe. Chúng tôi đến
Cercle.
Ông cho biết
đã chờ tôi “dans la cour de Inter” gần hai tiếng. Ông trao cho tôi một gói nhỏ.
Chúng tôi đều uống cà phê sữa.
Nắng vàng
nhạt trải dài trên sông Hương. Tôi ngồi một góc có thể nhìn chếch qua Thương Bạc.
Một chiếc Perissoire lướt nhẹ tạo nên cơn sóng nhỏ đằng sau. Ông vẫn không nói
gì nhiều. Một người đàn ông kiệm lời nhưng dễ tạo tin tưởng cho người đối diện.
Tôi có cơ hội
nhìn rõ và hiểu thêm về ông. Vẻ ngoài tầm thước, da ngăm- có ông lính nào da trắng
đâu nhỉ -,ít nói và khi nói hay chêm tiếng Pháp, khi đi lưng hơi khom về đằng
trước. Có ai đó đã từng nói với tôi tướng người như thế thường vất vả.
Bây giờ tôi
cũng biết thêm bộ binh phục ấy là của TQLC, cái alfa có hai gạch là cấp bậc
Trung tá. Ông vừa kế nhiệm chức vụ Tiểu đoàn trưởng TĐ Mảnh Hổ của Lữ đoàn 369
và Long Lễ là ám danh truyền tin.
Xin nói
thêm lúc đó tôi là một cô gái 18 tuổi, không đẹp chút nào. Bình thường, tôi
luôn tự ti về hai chữ « nhan sắc ». Chính vì thế tôi không hề có tư tưởng người
đàn ông trước mặt đang tán tỉnh mình và ông ta cũng chưa bao giờ thể hiện điều
này. Tôi nghĩ ông ấy coi mình như một cô cháu hoặc một người em nhỏ trong gia
đình thế thôi. Trong những câu giao tiếp, ông cũng không dùng đại từ nhân xưng
gì. Ngồi hơn nửa tiếng, chúng tôi chia tay. Chiếc Jeep qua cầu Phú Xuân , rẽ về
phía Bắc, hướng Quảng Trị.
Về cư xá
tôi mở gói quà. Không phải là những hộp thuốc, cũng không phải là thứ gì sang
trọng lắm. Đó là hai hộp kem Colgate và một gói kẹo lớn trong đó có mười gói kẹo
nhỏ. Và tất cả đều là của Pháp. Chắc ông hiểu những cô sinh viên xa nhà, ở nội
trú- dù được xem là cao cấp- cũng cần những nhu cầu thiết yếu.
Từ đó mỗi lần
có dịp về Huế, ông đều ghé thăm tôi. Trong Inter có tiếng xì xầm đồn thổi.
Nhưng tôi bất cần. “Mình trong trắng ắt quỷ thần gia hộ”. Chúng tôi quyết định
chọn Cercle làm nơi gặp gỡ. Với tuổi tác và cấp bậc của ông, chúng tôi không thể
vào những quán chè dành cho sinh viên như chè Chùa, chè Sầu… Tiệm ăn thì không
được vì tôi phải có mặt đúng giờ ăn dưới sự giám sát của bà soeur Madelaine. Để
minh chứng sự trong sạch của mình, tôi thường rủ thêm T.V cho khỏi bị dòm ngó.
Chúng tôi
đã gọi ông cụ thể là “Anh L”. Tôi cũng biết thêm gia đình anh. Bà vợ lai Pháp,
đã có một con trai. Chắc vì thế mà anh có thói quen hay nói chen những câu tiếng
Pháp trong giao tiếp.
Hiệp định
Paris đã kí nhưng mặt trận phía Bắc không vì thế mà an ổn. Binh chủng Dù đã rút
nhường cho các Lữ đoàn TQLC 147, 258, 369. Tiểu đoàn của anh đóng mạn Mỹ Thủy.
Hương Điền là nơi Bộ Chỉ Huy trú đóng. Tôi siêng đọc báo hơn để theo dõi tin
chiến sự, tập tểnh viết những truyện ngắn về lính, đặc biệt những người lính Võ
Bị. Anh có vẻ vui khi biết tôi rành rẻ về ngôi trường quân sự này. Anh xuất
thân K17 mang tên Khóa Lê Lai. Anh kể về chuyệnThủ khoa Vĩnh Nhi bắn bốn mủi
tên rơi mất ba mủi trong lễ mãn khóa ngày 30-3-1963 như một điềm báo cho cái chết
của ba thủ khoa liên tiếp: Vĩnh Nhi K17, Nguyễn Anh Vũ K18,Võ thành Kháng K19.
Anh cùng khóa với Đại Tá Võ Toàn, vừa xây xong nhà mới bên quận Mai Lĩnh thì Quảng
Trị tan nát; cũng là bạn của Trung Tá Võ Vàng, người “ giải phóng” Huế trong Tết
Mậu Thân…Tôi cũng kể thêm cho anh về ông anh rể K16, người anh con cậu K 20 đã
hy sinh sáu tháng sau khi ra trường, khi vừa mới hỏi vợ và người anh trai đang
theo học K 28 tại Trường Võ Bị Đà lạt. Anh vẫn giữ thói quen điềm đạm, nghe nhiều
hơn nói. Trong khi tôi và T.V ríu rít như chim sáo sậu thì anh cứ lắng nghe,
nhìn ra mặt sông, thi thoảng góp những câu nói ngắn. T.V nói thầm “Người ít nói
như rứa mà tán vợ đẹp làm răng?”
Noel năm
1974 anh quyết định tổ chức một buổi Re’veillons thật lớn, vui cho tôi và T.V
cùng mấy người bạn của anh. Anh nhờ qua phố Phan Bội Châu đặt một Buche de
Noel, order một con gà quay tại Cercle. Chúng tôi háo hức chờ đợi…
Năm giờ chiều
24, T.V vào xin phép cho tôi. Hai đứa đều mặc hai chiếc áo dài màu xanh Hotesse
de l’air, ôm hộp bánh ra Cercle, chọn một cái bàn nhìn ra sông. Không hiểu sao,
thời tiết chả lạnh chút nào.
Huế là một
thành phố đa phần là Phật giáo. Dân Công giáo phần đông tập trung ở quanh Dòng
Chúa Cứu Thế hoăc Phủ Cam nên đêm nay không khí cũng không mấy sôi động. Anh hứa
sẽ mang civil để có thể hòa mình vào dòng người đi lễ mừng Chúa giáng sinh.
Hơn sáu giờ
anh xuất hiện… chỉ với một người bạn và trong quân phục tác chiến. Anh cố làm một
vẻ mặt thật tươi nhưng sao vẫn không tự nhiên. Chúng tôi uống vang, ăn gà quay.
Hình như anh có ý pre’senter T.V cho người bạn. T.V lúng túng, đánh rơi một miếng
thịt gà trên áo dài. Sau nghe kể về nhà phải giặt bằng nước sôi cho xóa vết mỡ.
Không chờ
lâu như dự định, hơn bảy giờ anh đã vội vã cắt chiếc bánh khúc củi. Bấy giờ, vẫn
bằng một ngôn ngữ ngắn gọn, anh thông báo có công việc bất ngờ, anh không thể
thực hiện như lời hứa.
Chúng tôi
hơi buồn nhưng cảm thấy thương anh và đồng đội. Làm sao được. Anh không kể chuyện
nhưng chúng tôi biết “Mặt trận phía Bắc không hề yên tĩnh” như trong truyện của
Erich Maria Rermarque (All quiet on the Western front). Hai chiếc Jeep lao vội
vàng ra phía Quảng Trị. Bắt đầu khúc nhạc thánh thót “Silent night”. Tôi chắp
tay nguyện cầu cho những người lính…
Mấy tháng
sau, tôi nghe anh lên làm Lữ đoàn phó 258, giao Tiểu đoàn 9 cho thiếu tá Lâm
Tài Thạnh. Anh chở tôi qua bên Phan Bội Châu, mua cho tôi một chiếc Manteau da
màu vàng sẩm. Mua và vẫn không nói, không một lời giải thích hoặc trao tặng. Và
đó là kỷ vật cuối cùng!
Giữa tháng
ba năm 1975, tôi nhận được một bức điện tín của anh về địa chỉ nhà T.V. “ Về Đà
nẵng và vào Saigon gấp”. Quá bất ngờ. Chuyện gì đây? Huế vẫn sinh hoạt bình thường.
Trường Đồng Khánh đang Hội trại Lễ Hai Bà Trưng. Bên Văn Khoa, chúng tôi đang
được thầy Nguyễn Văn Xung từ Sài gòn ra dạy Thẩm mỹ học. Thầy dạy rất cuốn hút.
Bên Sư Phạm cũng học thầy thỉnh giảng chữ Nôm là Thầy Bùi Xuân Trữ, thân phụ của
Thứ trưởng giáo dục Bùi Xuân Bào. Làm sao tôi bỏ được? Và tôi sẽ trả lời với
gia đình ra sao về chuyện tự nhiên bỏ học về nhà?
Ba hôm sau,
Huế bắt đầu nhốn nháo. Ngày 20/3 tôi bò vào được Đà nẵng với chiếc valise và một
số tiền xe cắt cổ mà người bạn gởi gắm cho một ông thầy trường Luật!
Tôi mất biệt
tin anh. Ngoài anh ra, tôi không quen một ai để hỏi. Tôi đã nguyện nếu biết được
tin anh đi tù ở đâu tôi sẽ lặn lội đi thăm, cho dù trong Nam ngoài Bắc với thứ
tình cảm của một người em gái. Chúng tôi chưa hề cầm tay nhau! Và không hề có
thứ tình cảm nào ngoài đạo lý.Tôi trân trọng và thương kính anh và anh đối với
tôi cũng bằng thứ tình cảm trong sáng của một ngườ anh Cả.
Sau này khi
tôi được tin thì anh đã mất ngày 31-3-1984 ở Trại tù Xuân Lộc Z30A. Một cái chết
quá đau thương và đau lòng với những lời đồn thổi. Và khi hồi tưởng thời tuổi
trẻ, khi viết những dòng chữ này, tôi không khỏi rơi nước mắt ngậm ngùi. Ôi,
người anh đáng quý trọng của em!
Và có phải
trời có mắt. Quả đất vẫn rất tròn. Tôi đã liên lạc được với con trai của anh.
Cháu Huỳnh Nghi. Đứa con trai được sinh năm 1974 và năm anh mất mới vừa lên 9
tuổi. Tôi chỉ có thể nói rằng Ba cháu là một người rất tốt.
Tôi ấp ủ
nhiều năm và bài viết này như một nén tâm nhang gởi đến anh. Tôi chắc rằng anh
đang ở trên thiên đường.
Cũng như có
bàn tay của thượng đế. Bài được viết xong đúng ngày 31 tháng 3 năm 2021, kỷ niệm
đúng 37 năm ngày mất của Long Lễ.
Tôi sẽ về
Huế, cùng T.V vào Cercle và nhớ anh. Phải chi có thể đánh đổi một năm để được
quay về sống lại một ngày xưa cũ!