Tầu Đông Hải neo trong vịnh Tân Gia Ba vào tháng 5 năm
1975, sau khi hơn nửa số người di tản trên tầu đã được chuyển sang các tầu
khác. Ảnh: Tác giả cung cấp.
Viết cho hương hồn bố
và cho mẹ, vợ, cùng các em
Bắt phong trần, phải phong trần,
Cho thanh cao mới được phần thanh cao
(Truyện Kiều)
Với tôi, ký ức cốt lõi ấy là những gì xẩy ra cho tôi và gia
đình trong quãng thời gian kể từ khi thị xã Ban Mê Thuột thất thủ ngày 12 tháng
Ba năm 1975, kéo theo sự sụp đổ của miền Nam Việt Nam chưa đến bẩy tuần sau đó.
Lúc bấy giờ tôi đang là sinh viên ban Đốc Sự của Học Viện Quốc
Gia Hành Chánh (QGHC), một cơ sở giáo dục nằm trên đường Trần Quốc Toản, đặt trọng
tâm vào việc đào tạo nhân viên hành chánh cao cấp cho chính quyền Việt Nam Cộng
Hoà. Nói rõ hơn, tôi là một sinh viên gốc quân nhân trong số 105 sinh viên của
khóa.
Đầu năm 1974, khi 21 tuổi và đang là chuẩn úy phục vụ tại tiểu
đoàn 253 Pháo Binh, thuộc sư đoàn 25 Bộ Binh, tôi ghi danh học hàm thụ năm thứ
nhất Luật khoa, viện đại học Sài Gòn. Tháng 7 năm ấy, tôi thi đậu chứng chỉ năm
thứ nhất với số điểm cao thứ hai trong tất cả thí sinh. Thừa thắng xông lên,
hai tháng sau tôi thi đậu vào ban Đốc Sự khóa 22 của Học Viện QGHC với học
trình 4 năm. Theo quy định của chính phủ lúc bấy giờ, các quân nhân thi đậu được
trở lại đời sống sinh viên, một hình thức xem như biệt phái vĩnh viễn từ quân đội
sang hành chánh. Tháng 12 năm 1974, khi đã được thăng chức thiếu úy trong lúc
tình hình chiến sự trở nên sôi động, tôi nhận được sự vụ lệnh từ Bộ Quốc Phòng
để trình diện trường QGHC. Được bảo trợ bởi đại học Michigan State University,
trường QGHC tổ chức chương trình học gồm hai khóa mùa Xuân và mùa Thu với những
kỳ thi cuối khóa như những đại học ở Hoa Kỳ.
Chúng tôi nhập học ngay sau Tết Dương Lịch năm 1975. Đến
ngày 12 tháng Ba, tin tức thị xã Ban Mê Thuột thất thủ trước sự tấn công của Cộng
quân khiến quân dân miền Nam rúng động. Gia đình tôi có nhiều kỷ niệm với thành
phố cao nguyên này. Năm 1968, bố tôi, khi còn là thiếu tá Quân Lực Việt Nam Cộng
Hoà (VNCH), giữ chức vụ quận trưởng quận Ban Mê Thuột trong gần hai năm cho đến
khi ông được thăng chức trung tá và đổi về Sài Gòn. Gia đình tôi đã chuyển lên
sống tại thị xã này trong thời gian ấy.
Hai ngày sau khi Ban Mê Thuột thất thủ, tổng thống Nguyễn
Văn Thiệu ra lệnh triệt thoái khỏi Kontum và Pleiku. Cao nguyên Trung phần ở
Vùng II chiến thuật bị thất thủ. Thêm vài ngày nữa, Quảng Trị, Quảng Ngãi rồi
Huế ở Vùng I mất vào tay địch. Cuối tháng Ba, Đà Nẵng, Phú Yên, và Bình Định
cùng chung số phận. Sang đầu tháng Tư, đến lượt Khánh Hòa, Bình Thuận, Phan
Rang. Chỉ trong vòng chưa đầy ba tuần, miền Nam đã mất nửa lãnh thổ. Quân đội
hoang mang, lắm nơi địch chưa đến mà người lính đã bỏ thành. Làn sóng đồng bào
từ vùng I và vùng II ồ ạt theo chân người lính VNCH, trốn chạy Cộng sản bằng đường
bộ và đường thủy. Những tội ác của Cộng sản Việt Nam như chiến dịch cải cách ruộng
đất ở miến Bắc trong giai đoạn 1954-1957 và cuộc thảm sát tại Huế vào Tết Mậu
Thân năm 1968 còn gieo rắc kinh hoàng trong ký ức họ. Cũng vì hồi ức về những tội
ác của Cộng sản mà hàng triệu người miền Nam đã cuống cuồng tháo chạy khỏi những
vùng bị địch chiếm đóng trong những ngày tang thương thuở ấy. Biết bao chuyện
thương tâm đã xẩy ra trên những con đường di tản đầy máu và nước mắt, bi thảm
nhất là dọc Liên Tỉnh Lộ 7B từ Pleiku đến Phú Bổn, nơi hàng ngàn thường dân đã
bị tàn sát vì đạn pháo của Việt Cộng liên tục rót vào đoàn người đang lũ lượt
gánh gồng xuôi Nam vào hạ tuần tháng Ba.
Bước sang tháng Tư, Hoa Kỳ đã bắt đầu cho di tản người Mỹ
còn ở Việt Nam cùng các nhân viên người Việt đang làm cho sở Mỹ, và gia đình
các quân nhân, công chức VNCH mà họ nghĩ sẽ bị Cộng sản trả thù sau khi chiếm
được miền Nam. Lúc ấy, chúng tôi, những sinh viên QGHC, sau giờ học, thường vào
câu lạc bộ của trường, gọi một tách cà phê hay ly nước ngọt, đăm chiêu ngồi bàn
chuyện thời sự. Thật đau lòng khi trông thấy tấm bản đồ miền Nam với những tỉnh
lỵ, thành phố được tô đỏ dần trên các tuần báo Time và Newsweek.
Theo chỉ thị của Ban Giám Đốc học viện, sáng ngày 8 tháng
Tư, lớp chúng tôi tề tựu tại sân trường, chuẩn bị lên ba chiếc GMC đến trại Chí
Linh, trung tâm huấn luyện cán bộ Xây Dựng Nông Thôn, tại Vũng Tầu để giúp người
tỵ nạn từ miền Trung theo tầu, thuyền đến thành phố này. Khi xe lăn bánh, chúng
tôi nghe hai tiếng nổ lớn, vang đến từ hướng trung tâm thủ đô. Nhìn về hướng tiếng
nổ phát ra, mọi người trông thấy một phản lực cơ F5 của Không lực VNCH đang lượn
trên vùng nơi dinh Độc Lập tọa lạc nên đoán là quân đội, hay một phần của quân
đội đang thực hiện cuộc đảo chánh tổng thống Nguyễn Văn Thiệu. Mãi khi đến trại
Chí Linh, chúng tôi mới nghe kể một phi công của Không lực VNCH oanh tạc dinh Độc
Lập rồi bay ra vùng Việt Cộng đã chiếm.
Theo chương trình đã hoạch định, lớp chúng tôi ở Vũng Tầu một
tuần. Tuy nhiên, đến sáng ngày thứ ba của chuyến đi, tức ngày 10 tháng Tư, trường
QGHC cho xe đón chúng tôi trở về vì e ngại an ninh trên lộ trình Vũng Tầu - Sài
Gòn sẽ không còn được bảo đảm trong vài ngày sắp đến. Hôm trước, bốn sư đoàn Cộng
quân đã tấn công Xuân Lộc, nơi được ví von là cánh cửa thép để bảo vệ Sài Gòn từ
hướng Đông của thành phố. Trên đường về, qua từng chặng, chúng tôi lại thấy những
đơn vị lính kẻ đứng người ngồi dọc hai bên lề. Không hiểu họ được lệnh canh gác
huyết lộ dẫn đến thủ đô hay triệt thoái về đấy để tránh sức ép của địch. Đó
đây, có những đoàn người tay xách, nách mang đi bộ về hướng về Sài Gòn. Có lẽ họ
là những người dân chạy loạn.
Bố tôi tình nguyện nhập ngũ vào Quân Đội Quốc Gia, tiền thân
của Quân lực VNCH, năm 1951. Ông tốt nghiệp thủ khoa trường Võ bị Phà Đen ở Hà
Nội với cấp bậc chuẩn úy và rồi phục vụ trong một liên đoàn lưu động từng tham
gia các trận đánh khốc liệt với Việt Minh, về sau gọi là Việt Cộng, tại Bắc phần.
Di cư vào Nam, đơn vị ông đóng ở Phú Yên rồi Bình Định. Năm 1956, ông tham dự lớp
Chỉ Huy Tham Mưu và tốt nghiệp thủ khoa nên được thuyên chuyển về Phòng Ba Bộ Tổng
Tham Mưu. Đôi ba năm sau, ông được thăng cấp đại úy và giữ trách nhiệm Trưởng
Khối Kế Hoạch. Năm 1968, ông theo học khoá Quân Chánh, khoá học bắt buộc dành
cho các sĩ quan sẽ được bổ nhiệm làm tỉnh hay quận trưởng. Sau khi mãn khóa, được
chọn quận đầu tiên vì tốt nghiệp thủ khoa, ông đã chọn Ban Mê Thuột, quận lỵ lớn
nhất ở cao nguyên Trung phần thuộc tỉnh Dak Lak. Tháng Ba năm 1970, ông được biệt
phái sang hành chánh và trở về Sài Gòn. Năm 1974, ông giữ trách nhiệm chánh sở
kế hoạch thuộc Bộ Nội Vụ.
Bố tôi nhập ngũ một phần vì mối căm thù với Việt Cộng, sau
khi họ giết ông nội tôi một cách dã man.
Thẻ căn cước quân nhân của thân phụ tác giả bài viết
Ông tôi vốn là nhà giáo trong một làng thuộc huyện Gia Lâm,
tỉnh Bắc Ninh, cách Hà Nội khoảng chục cây số. Khi Việt Minh cướp chính quyền ở
Hà Nội vào năm 1945, làng bố tôi trở thành vùng xôi đậu, ban ngày Quốc Gia kiểm
soát, ban đêm Việt Minh mò về. Những người bên kia ép buộc ông tội nghỉ dậy
không được nên trong một đêm năm 1947, họ xông vào nhà tuyên án tử, rồi bắn ông
tôi 5 phát súng lục trước sự chứng kiến của người thân. Lúc đó bố tôi đang là
thông ngôn, làm việc ở nơi khác. Bắn xong, họ khênh ông tôi đi rồi bỏ lại đầu
ngõ vì nghĩ ông đã chết. Bác gái tôi, tức chị kế bố tôi năm ấy mới 20 tuổi, thấy
ông còn thoi thóp nên cùng hai người trong họ thay nhau khênh cáng đưa ông đến
một đồn lính Tây cách nhà khoảng 3 cây số nhờ họ chữa trị tạm thời. Mãi ba hôm
sau, những người lính trong đồn mới có xe đưa ông tôi lên nhà thương Phủ Doãn ở
Hà Nội. Ông dần dần bình phục và tạm trú ở Hà Nội. Đầu năm 1951, làng bố
tôi trở thành làng Tề, tức đã được quân Pháp và quân đội Quốc Gia kiểm soát. Những
người trong làng ra Hà Nội thỉnh cầu ông tôi trở về dậy học lại. Bùi tai, ông
quay về làng. Ít lâu sau, vào một buổi tối, khi dân trong làng, trong đó có ông
tôi, đang xem hội hàng năm của làng thì cán bộ Việt Minh đột kích vào bắn ông
tôi. Khi ông tôi ngã xuống, họ cẩn thận đâm thêm dăm bẩy nhát dao găm cho chết
hẳn rồi mới rút lui.
Bố tôi có người em út, kém ông 15 tuổi, là đại úy trưởng
Phòng Tiếp Liệu Quân Y Viện Ban Mê Thuột. Khi thành phố thất thủ, ông theo đoàn
người chạy giặc ra vùng ngoại ô và được một chiếc trực thăng bốc về Sài Gòn
ngày hôm sau, trong khi vợ và con gái nhỏ vẫn đang kẹt lại thành phố. Khi về đến
Sài Gòn, ông tá túc tại nhà chúng tôi nhưng không tìm đường ra nước ngoài với
hy vọng được đoàn tụ vợ con. Hậu quả là ông phải trả giá với hơn 5 năm tù. Khi
cùng vợ con sang định cư tại Houston năm 1990 theo diện tù cải tạo, ông kể rằng
trong những năm tháng bị cầm tù, ông và các bạn đồng cảnh phải học tập cái gọi
là “tội ác Mỹ Ngụy,” dĩ nhiên theo sự tuyên truyền dối trá của Cộng Sản. Trong
những “tội ác” này có chiến dịch truy lùng cán binh Cộng Sản nằm vùng tại Phú
Yên sau hiệp định Geneva mà bố tôi là người trong cuộc. Lúc ấy, tiểu đoàn 10
khinh chiến của Quân Đội Quốc Gia do đại úy Vũ Duy Đê là tiểu đoàn trưởng và bố
tôi là trung úy đại đội trưởng Đại Đội Chỉ Huy đã lùng soát và tiêu diệt thành
phần chủ chốt của Việt Cộng tại làng Ngân Sơn, thị trấn Chí Thạnh thuộc tỉnh
Phú Yên. Hiện nay vẫn còn rất nhiều báo mạng của Cộng Sản Việt Nam ghi lại chuyện
này nhưng với những lời thêu dệt, như những dòng sau đây trên trang mạng báo
Phú Yên Online: “Ngày 5/9/1954, tiểu đoàn lính ngụy mang tên Lê Hữu Từ (một
linh mục phản động khét tiếng ở Bùi Chu - Phát Diệm di cư vào Nam) do Vũ Duy
Đê chỉ huy đã gây ra vụ thảm sát Ngân Sơn - Chí Thạnh làm chết 64 người, bị
thương 76 người. Đây là một trong ba vụ thảm sát man rợ ở miền Nam gây chấn động
cả nước và quốc tế.”
Thân phụ tác giả và các con trong buổi tiệc mừng thọ 80 tuổi của ông vào năm 2009.
Tối 21 tháng Tư, đài truyền hình Sài Gòn chiếu trực tiếp cảnh
tổng thống Nguyễn Văn Thiệu từ chức, trao quyền lãnh đạo đất nước cho tân tổng
thống Trần Văn Hương, trong lúc tình hình chiến sự thêm bi thảm cho quân đội
VNCH.
Trong khung cảnh dầu sôi lửa bỏng ấy, trong tâm trạng buồn rầu,
hoang mang, lo lắng ấy, chúng tôi tự đánh lừa mình với một giải pháp chính trị
chấm dứt cuộc chiến sẽ xuất hiện trong những ngày sắp tới. Tin tưởng như thế để
còn có thể gạo bài chuẩn bị cho kỳ thi cuối khoá.
Gần 8 giờ sáng thứ Hai ngày 28, chúng tôi ngồi trong lớp chờ
giáo sư Đoàn Triệu Yến, vị thày môn Kinh Tế đến phát đề tài bài thi đầu tiên
trong kỳ thi cuối học kỳ. Giáo sư đến đúng giờ với y phục chỉnh tề như thường lệ;
vừa bước vào lớp, ông tuyên bố môn thi được hoãn lại cho đến ngày sẽ được thông
báo sau. Ngay sau đó, ông ra về. Sau này, tôi nghe một bạn cùng lớp kể lúc đến
trường, ông đưa gia đình theo trên chiếc xe hơi. Sau khi ông rời trường, họ đến
phi trường Tân Sơn Nhất, lên một vận tải cơ của Hoa Kỳ đưa những người tỵ nạn
thoát khỏi Sài Gòn. Nếu chuyện thật sự xẩy ra như vậy, ông là một người đáng
ngưỡng mộ. Ít ra thì ông cũng đến trường để cho sinh viên biết họ được hoãn thi
và chào giã biệt chúng tôi. Tư cách ông hơn hẳn biết bao cấp chỉ huy quân sự đã
lén lút trốn thuộc cấp để đào tẩu trong những ngày tháng gian nan ấy.
Được hoãn thi, tôi và một số bạn trong lớp lại vào câu lạc bộ
của trường chia sẻ cho nhau những tin tức cùng tin đồn về tình hình chiến sự và
chính trị. Lúc bấy giờ có rất nhiều tin đồn đang được loan truyền. Đến quá
trưa, mọi người từ giã, hẹn mai gặp nhau cho môn thi khác.
Khoảng 5 giờ chiều cùng ngày, khi tôi đứng ở cổng nhà trong
cư xá Bắc Hải tiễn người bạn cùng khóa Đốc sự vừa đến thăm, chợt có tiếng bom nổ
rung chuyển nhà cửa vang đến từ hướng phi trường Tân Sơn Nhất. Về sau, tôi được
biết Nguyễn Thành Trung, một phi công của Không lực VNCH nhưng là gián điệp cho
Cộng Sản Việt Nam đã hướng dẫn các phi công miền Bắc lái 4 chiếc oanh tạc cơ
A-37 do Không quân bỏ lại ở phi trường Phan Rang để dội bom Tân Sơn Nhất. Trung
cũng là người lái chiếc F5 oanh tạc dinh Độc Lập sáng ngày 8 tháng Tư như đã kể.
Chừng một tiếng sau, đài truyền hình Sài Gòn trực tiếp buổi
bàn giao chức vụ tổng thống giữa cụ Trần Văn Hương và đại tướng Dương Văn Minh
tại phòng khánh tiết dinh Độc Lập. Ngày hôm trước, Quốc Hội lưỡng viện sửa đổi
hiến pháp để ông Minh thay cụ Hương trong niềm hy vọng ông đủ uy tín đàm phán với
Việt Cộng để đạt được một giải pháp hòa bình có thể chấp nhận được.
Cư xá nơi gia đình tôi cư ngụ trước kia có tên là Cư Xá Sĩ
Quan Chí Hòa, thuộc Quận 10 trước tháng Tư năm 1975. Cư xá do người Pháp khởi
công xây từ đầu thập niên 50 của thế kỷ trước, dành cho những sĩ quan trong
quân đội Pháp. Tuy nhiên, khi cư xá vừa xây xong thì người Pháp phải về nước
theo quy định của Hiệp Định Geneva chia đôi nước Việt. Năm 1957, chính quyền
VNCH cấp các hộ trong cư xá cho gia đình những sĩ quan trung cấp và cao cấp của
Quân Lực VNCH đang phục vụ ở Sài Gòn và họ có thể cư trú tại đây trong thời
gian tại ngũ. Gia đình tôi là một trong những gia đình đầu tiên dọn đến cư xá
vào mùa hè 1957 và ở đây suốt 18 năm trời. Thoạt đầu, cư xá chỉ có 16 dẫy nhà,
mỗi dẫy gồm 4 hộ ở tầng dưới và 4 hộ ở tầng trên, tức tổng cộng 128 hộ. Cổng
chính cư xá ăn thông với đường Bắc Hải dẫn ra đường Lê Văn Duyệt. Cổng sau hướng
ra cuối đường Nguyễn Tri Phương, nơi cắt ngang đường Tô Hiến Thành. Khoảng năm
1965, chính quyền cho xây thêm nhiều dẫy ở các khoảnh đất rộng gần cổng sau,
nâng số hộ trong cư xá lên đến hơn 300. Đến cuối năm 1968, chính quyền cho những
sĩ quan đứng tên chủ gia đình ở đây mua các căn hộ họ đang cư ngụ và cũng cho
phép thường dân sở hữu các căn này. Vì không còn được dành riêng cho các sĩ
quan như trước, nên cư xá được đổi tên thành Cư Xá Bắc Hải.
Kể từ những ngày đầu tiên, cư xá luôn có vị sĩ quan được
chính quyền chỉ định là người có thể đưa ra những quyết định liên quan đến sự
quản trị cư xá mà cư dân quen gọi là “trưởng trại.” Vị trưởng trại sau cùng là
trung tướng Đổng Văn Khuyên. Tuy nhiên, không hiểu vì lý do gì, trong thời gian
dầu sôi lửa bỏng vào tháng Tư năm 1975, trung tướng Khuyên giao quyền điều hành
cư xá cho đại tá Lê Kim Ngô thuộc binh chủng Công Binh. Ông đại tá này có lẽ ác
cảm với những người đang tìm cơ hội thoát khỏi Việt Nam nên ra lệnh cho trung đội
lính và đám Nhân Dân Tự Vệ canh gác chặt chẽ tại hai cổng cư xá, nội bất xuất
ngoại bất nhập từ chiều ngày 28 đến sáng 30. Trong thời gian này, tuy có lệnh
thiết quân luật nhưng dân chúng vẫn tiếp tục tất tả ngược xuôi trên các nẻo đường
thành phố, chỉ riêng cư xá chúng tôi bị ông quyền trại trưởng phong tỏa. Tôi được
biết nhiều gia đình đã không thể di tản khỏi Sài Gòn trong ngày 29 vì không ra
được cổng cư xá.
Sáng thứ Ba ngày 29, tôi lấy xe định đến nhà một người bạn.
Tuy nhiên, cổng ra vào cư xá đã đóng với những người lính cơ hữu của cư xá cùng
vài anh Nhân Dân Tự Vệ lăm lăm tay súng đang đứng gác. Những người này giải
thích với tôi rằng đại tá Lê Kim Ngô, quyền trường trại, đã ra lệnh nội bất xuất
còn ngoại bất nhập, tức là tất cả cư dân trong cư xá không được ra ngoài, ngoại
trừ những quân nhân có sự vụ lệnh di chuyển. Người từ ngoài cũng không được vào
nếu không xuất trình giấy tờ chứng minh mình đang ở cư xá. Những người lính gác
cổng nói năng khá nhã nhặn nhưng các ông Nhân Dân Tự Vệ luôn biểu diễn nét mặt
khó đăm đăm.
Tôi trở về nhà, pha tách cà phê mang ra ngồi ở bậc thềm, vừa
uống vừa nghe tin tức đài phát thanh Sài Gòn từ chiếc radio nhỏ. Có tiếng bấm
chuông, tôi ra mở cổng, trông thấy anh Tiềng, một trong số hơn 10 công nhân của
nhà in do một Hoa kiều và mẹ tôi làm chủ. Đây là một trong năm hay sáu nhà in
các bộ bài tại miền Nam thời bấy giờ; bài Tây có, bài chắn, tứ sắc, tam cúc, bất,
tổ tôm cũng có. Gọi là nhà in chứ thật ra chỉ là một cơ sở in đặt trong hai căn
phòng khá lớn mà mẹ tôi cho xây thêm ở vườn sau nhà. Các công nhân làm việc, ăn
ở tại đây.
Anh Tiềng trạc tuổi tôi nhưng không phải đi lính. Có người
thợ in đồng nghiệp nói anh được hoãn dịch gia cảnh. Lại có người bảo anh trốn
quân dịch. Anh quý tôi nên thỉnh thoảng mời tôi đi uống cà phê sáng tại một tiệm
khá gần cổng sau cư xá. Hôm ấy, khi lên nhà trên nhưng không gặp tôi nên anh đi
bộ một mình đến quán. Anh kể là khi trở về, đi ngang sân cỏ rộng mà các thanh,
thiếu niên trong cư xá dùng làm sân bóng đá, anh trông thấy một chiếc trực
thăng, có lẽ loại UH-1 khá thông dụng trong chiến tranh Việt Nam, đang bay là
là chực đáp xuống. Gần đó là một gia đình gồm hai vợ chồng và bốn hay năm con,
đứa lớn, đứa nhỏ với hành lý lỉnh kỉnh đứng chờ bên cạnh một chiếc xe hơi. Bỗng
dưng một chiếc gắn máy phóng rất nhanh đến. Hai thanh niên đeo băng tay Nhân
Dân Tự Vệ xuống xe, giơ súng carbine nhắm bắn vào trực thăng, có lẽ là bắn dọa.
Trực thăng vội bốc cao lên, đảo một vòng tròn có vẻ ngập ngừng như chưa biết
nên bay xa hay liều đáp xuống. Hai anh nhắm bắn thêm vài phát. Chiếc trực thăng
vút cao hơn rồi bay thẳng.
Nhân Dân Tự Vệ là lực lượng dân quân bán thời
gian được thành lập sau biến cố Tết Mậu Thân 1968 với mục đích bảo vệ an
ninh tại làng, xã, thôn xóm. Hầu hết nhân sự trong lực lượng là thanh, thiếu
niên chưa đến hạn tuổi quân dịch và không được huấn luyện đầy đủ, nhiều người
còn chưa được học sử dụng súng, đạn. Báo chí thời bấy giờ gần như đăng tin mỗi
ngày trong mục tin vặt “Từ Thành Đến Tỉnh“ về chuyện Nhân Dân Tự Vệ bắn lầm, bắn
lẫn nhau khi tức giận, phá phách xóm làng, hay nghịch ngợm súng đạn đến nỗi gây
thương vong cho người khác và cho chính mình. Những tin tức này nhiều đến nỗi lắm
tờ báo bắt chước báo Sóng Thần đặt tít cho bản tin thường ngày về chuyện này là
“Truyện Dài Nhân Dân Tự Vệ.” Trong hai tháng cuối của cuộc chiến, tình trạng hỗn
quan hỗn quân khiến các anh Nhân Dân Tự Vệ cảm thấy mình uy quyền hơn, quan trọng
hơn lên để thế thiên hành đạo mà đoàn Nhân Dân Tự Vệ trong cư xá chúng tôi là một
trường hợp điển hình.
Anh Tiềng kể tiếp rằng những người đứng cạnh xe hơi đứng ngẩn
ra nhìn theo bóng dáng chiếc trực thăng nhỏ dần, nhỏ dần, rồi mất hút. Họ lục tục
mang hành lý trở vào xe. Xe nổ máy rồi rời sân bóng.
Hai anh Nhân Dân Tự Vệ đứng chờ vài phút để chắc chắn trực
thăng không quay lại. Sau đó họ lên xe gắn máy, nổ máy và lao đi.
Tôi tự hỏi chiếc trực thăng ấy định đưa gia đình những người
đứng chờ cạnh chiếc xe hơi đến đâu; một tầu chiến Mỹ đang đợi sẵn ngoài khơi
Vũng Tầu hay một nơi nào họ nghĩ còn an toàn ở vùng IV? Tôi cầu xin ơn trên cho
gia đình họ rồi sẽ thoát khỏi cánh cửa địa ngục đang mở dần để nuốt trọn khối
người dân miền Nam tự do.
Trong chiều hôm ấy, hai em trai tôi, đứa lớn chín tuổi và đứa
nhỏ bẩy tuổi, đã chứng kiến một tình trạng tương tự, nhưng với kết thúc có hậu
cho người di tản.
Đang chơi đùa trước cửa, hai cậu em trông thấy một trực
thăng, có lẽ cũng là loại UH-1, đảo vòng tròn trên sân bóng tròn, cùng lúc các
thanh niên Nhân Dân Tự Vệ ngồi trên vài xe gắn máy phóng nhanh ngang nhà. Trẻ
con thì lúc nào chẳng hiếu kỳ và hiếu động, các cậu bé chạy đến sân bóng xem
chuyện gì. Khi các cậu đến nơi, đám Nhân Dân Tự Vệ đến trước đã dựng xe máy,
giơ súng bắn chỉ thiên về chiếc trực thăng nhưng trực thăng vẫn đáp xuống bãi cỏ.
Các cậu đang hăm hở xông đến thì bỗng có một tràng đạn chát chúa vọng ra từ trực
thăng. Tất cả khựng lại thì thấy ngoài viên phi công, trên máy bay có người xạ
thủ chĩa nòng súng đại liên đang bốc khói về hướng mình. Một tràng đạn nữa nổi
lên từ khẩu đại liên, chắc người xạ thủ chỉ bắn dọa. Thế là cả đám hoảng hốt chạy
lui. Ba bốn người đang đứng đợi gần đó phóng nhanh đến trực thăng, rồi được người
xạ thủ kéo lên. Chiếc trực thăng từ từ bốc cao trong khi nòng đại liên vẫn
hướng về đám Nhân Dân Tự Vệ.
Về sau, tôi nghe kể có thêm vài trực thăng khác định đáp xuống
cư xá chúng tôi trong ngày hôm ấy nhưng cũng bị đám Nhân Dân Tự Vệ bắn đuổi. Cư
xá lúc bấy giờ là nơi cư ngụ của nhiều vị sĩ quan cao cấp trong đó có cả mươi
ông tướng nên các trực thăng đến đón gia đình họ trong hai ngày cuối của cuộc
chiến là điều bình thường.
Tôi nghĩ không hẳn các anh Nhân Dân Tự Vệ của cư xá trong những
ngày tháng ấy là những kẻ xấu, thích hành hạ người khác. Không hiểu lúc ấy họ
suy nghĩ gì. Họ hành động theo lệnh cấp trên hay họ muốn thể hiện uy quyền? Khi
được giao quyền lực với khẩu súng trong tay, họ có sức mạnh của tập thể và muốn
thể hiện quyền uy với người khác, với đồng bọn, và với chính mình.
Trưa ngày 29, sau bữa cơm trưa với gia đình, bố tôi mặc quân
phục, đeo lon trung tá, lái xe ra đi. Tôi ngồi trong nhà dán tai vào chiếc
radio để theo dõi tin tức. Khoảng 3 giờ, đài phát thanh Sài Gòn phổ biến lời thủ
tướng Vũ Văn Mẫu yêu cầu người Mỹ rời khỏi Việt Nam ngay lập tức. Cuộc chiến đến
hồi kết thúc. Coi như xong! Thật khủng khiếp khi biết trước thứ tương lai tồi tệ
đang đưa cao bàn tay gớm chiếc vẫy gọi mình và mình đang bị kéo đến gần theo từng
nhịp vẫy của nó.
Đến 6 giờ chiều, bố tôi trở về gọi tôi, mẹ tôi, ông chú lớn,
và ông chú út vào một căn phòng để kể những chuyện vừa xẩy ra cho ông. Người
chú lớn, em kế bố tôi, là một thiếu tá đang phục vụ tại Phòng 2, tức phòng có
trách nhiệm tình báo, của Bộ Tổng Tham Mưu. Gia đình ông sống ở căn hộ số 3 dẫy
L trong cư xá, đấu lưng với căn hộ của chúng tôi, số 3 dẫy K. Vì vậy hai gia
đình có chung khoảng sân sau khá rộng. Như gia đình những sĩ quan phục vụ tại
Phòng 2, vợ con ông đã được người Mỹ cho di tản bằng máy bay từ hai tuần trước.
Bố tôi kể, bố tôi vừa vào được tòa Đại Sứ Hoa Kỳ, nơi có
hàng hàng lớp lớp người vây quanh cố gắng vượt qua cánh cổng sắt để có chỗ ngồi
trên những chuyến trực thăng bay ra Hạm Đội số 7 đang đợi ở hải phận quốc tế gần
Vũng Tầu. Bố tôi gặp ông đại tá quân đội Hoa Kỳ đã hứa giúp gia đình chúng tôi
di tản từ nhiều ngày trước. Ông này xin lỗi chưa giúp được và khuyên bố tôi nên
ở lại tòa đại sứ để di tản bằng trực thăng ra hạm đội cùng ông. Bố tôi bảo ông
rằng bố không thể đi một mình khi gia đình kẹt lại. Thuyết phục bố tôi không được,
ông viết một tờ thư, ghi rõ tên và cấp bậc ông để yêu cầu những quân nhân Mỹ tại
phi trường Tân Sơn Nhất có trách nhiệm giúp người Việt rời Sài Gòn chấp thuận
cho gia đình tôi lên một chuyến bay vào sáng sớm ngày 30. Sau đó, ông cùng một
người lính Thủy Quân Lục Chiến Mỹ đưa bố tôi ra cửa sau của tòa đại sứ để ra
ngoài. “Mình sẽ ra phi trường trước 7 giờ sáng mai,” bố tôi bảo chúng tôi. “Sống
thì sống hết! Chết thì chết hết!”, ông nói thêm, một cách dứt khoát.
Vấn đề đặt ra là Sài Gòn đang trong tình trạng thiết quân luật
và cư xá đang bị phong tỏa. Với chiếc lon trung tá trên cổ áo, bố tôi có thể ra
khỏi cổng cư xá dễ dàng nhưng vợ con sẽ bị chận lại. May mắn thay, khoảng nửa
tiếng sau, đài phát thanh Sài Gòn phát ra bản tin tổng thống Dương Văn Minh ra
lệnh các quân nhân, công chức phải trình diện nhiệm sở vào 8 giờ sáng hôm sau.
Chúng tôi bàn nhau sẽ khởi hành sáng sớm với xe hơi bố tôi lái, trên xe có các
em tôi, cô em kế tôi chở ông chú thiếu tá trên chiếc PC, ông chú đại úy chở mẹ
tôi trên chiếc Vespa của ông, và tôi chở một cô em trên chiếc Lambretta. Chúng
tôi sẽ bảo lính canh và các Nhân Dân Tự Vệ là đi trình diện nhiệm sở và không
yên tâm khi để phụ nữ và trẻ em ở nhà trong tình trạng bất an. Bàn bạc xong
xuôi, mọi người uể oải ăn cơm tối rồi đi nghỉ, lấy sức cho một ngày đầy cam go
sắp đến.
Khoảng 6 giờ sáng hôm sau, tức sáng sớm ngày 30 tháng
Tư, khi mẹ tôi đánh thức cả nhà thì tôi vừa đọc xong quyển truyện. Nửa tiếng
sau, mọi người lên đường. Trước khi rời nhà, tôi định mang bốn quyển album đầy
hình ảnh gia đình trong hơn 20 năm kể từ những ngày bố mẹ tôi sống ở Hà Nội trước
khi di cư vào Nam. Tuy nhiên, lúc bấy giở, tôi thật sự nghĩ gia đình không đi
thoát và sẽ trở về trong ngày nên thôi. Quyết định này khiến tôi ân hận cả đời. Chiều
hôm ấy, khi những người lính Cộng sản đầu tiên tiến vào cư xá, hai người cô
tôi, tức em ruột của bố tôi, đến nhà tôi mang tất cả quân phục của bố tôi, bốn
quyển album, các giấy tờ chúng tôi để lại mang ra sân sau đốt sạch. Đúng mười
lăm năm sau, khi mẹ tôi về Việt Nam lần đầu để thăm thân nhân, bà xin được vài
tấm ảnh đã tặng cho họ ngày trước, trong đó có tấm tôi vừa đúng ba tháng tuổi
đang nằm lẫy trong hiệu ảnh Tân Việt ở Hà Nội.
Sáng hôm ấy, khi bước ra sân trước, chúng tôi trông thấy cô
em gái thứ hai tôi đã lập gia đình cùng chồng, đứa con trai một tuổi và cả
bà mẹ chồng. Hôm trước, bố tôi dặn con gái và con rể đến đúng 6 giờ rưỡi sáng để
cùng đi. Sự hiện diện của mẹ chồng cô với chiếc va ly khá to trong khi gia đình
tôi, mỗi người chỉ một túi xách nhỏ bằng vải với hai bộ quần áo là điều không định
trước. Tuy nhiên, đã như thế thì cứ như thế. Bà có mang theo con mèo của bà chắc
chúng tôi cũng đành chịu. Chúng tôi chia nhau lên các xe như đã bàn với nhau. Cậu
em rể và bà mẹ ngồi trên xe hơi với các em tôi.
Khi chúng tôi chuẩn bị rời nhà, một người bạn bố tôi gọi điện
thoại cho biết Việt Cộng đã về đến Ngã Ba Ông Tạ, nơi nằm trên quãng đường ngắn
nhất từ nhà tôi đến phi trường, lộ trình chúng tôi chọn từ tối hôm trước. Vì vậy,
bố tôi quyết định sẽ đi qua cổng sau cư xá thay vì cổng trước, rẽ trái đường Tô
Hiến Thành, gửi xe gắn máy tại nhà một người bạn của bố tôi ở ngã ba Tô Hiến
Thành và Lê Văn Duyệt (nay là đường Cách Mạng Tháng Tám), rồi tất cả lên xe
hơi, đi đọc theo đường Lê Văn Duyệt về hướng trung tâm thủ đô, rẽ trái đường
Yên Đổ (nay là Lý Chính Thắng), rẽ trái đường Trương Minh Giảng (sau 1975 thành
Trần Quốc Thảo), vài cây số nữa Trương Minh Giảng đổi thành Trương Minh Ký (tức
Lê Văn Sĩ bây giờ) dẫn đến phi trường.
Ra đến xe, bố tôi đưa cho tôi khẩu súng lục Colt 45 còn ông
giữ khẩu Smith Wesson 38 mà chúng ta vẫn gọi là “súng sáu” để phòng thân. Ông
biết tôi bắn Colt 45 rất khá.
Đến cổng sau cư xá, nghe chúng tôi nói phải đi trình diện
nhiệm sở theo lệnh của tổng thống, những người lính gác và Nhân Dân Tự Vệ mở cổng
cho chúng tôi ra.
Sau khi chúng tôi gửi các xe gắn máy ở nhà người bạn bố tôi,
mọi người cùng lên xe hơi. Riêng chú út chúng tôi quay về để đợi đoàn tụ với vợ
và con còn ở Ban Mê Thuột. Chiếc xe Opel nhỏ của bố tôi phải chở 15 người
kể cả hành lý gồm bố mẹ tôi, ông chú thiếu tá ngành tình báo, 9 anh chị em
chúng tôi, chồng và đứa con một tuổi của em tôi, cùng bà mẹ chồng cô. Người này
ngồi trên đùi người kia sát chặt vào nhau như những khoanh cá trong một hộp
cá mòi.
Khi xe chạy trên đường Lê Văn Duyệt, tôi chứng kiến một
khung cảnh vừa hỗn loạn, vừa thê thảm. Đường phố đầy người ngược xuôi như đàn
kiến nhớn nhác túa ra khi tổ bị một đứa trẻ cầm que chọc vào. Dọc hai
bên lề đường, ngổn ngang những bộ quân phục, giầy bốt, mũ sắt, và cả súng
đạn của những người lính tan hàng vứt lại. Đâu đó có những xác người được phủ một
chiếc chăn hay chiếu trên vỉa hè. Thỉnh thoảng, chúng tôi chứng kiến cảnh
những người khuân bao gạo, bàn, ghế, tủ, và cả nồi niêu nửa đi nửa chạy trên đường.
Có lẽ họ vừa đột nhập vào những căn nhà không còn người ở để hôi của. Khi xe đi
qua Bộ Tư Lệnh Biệt Khu Thủ Đô trên đường Lê Văn Duyệt, tôi trông thấy một xe
tăng M-48, loại tăng lớn nhất và tối tân nhất mà Hoa Kỳ viện trợ cho quân lực
VNCH trong cuộc chiến, nằm giữa lòng đường với nòng đại bác chúc thẳng lên trời.
Người lính trưởng xa chiếc xe tăng này quả là người có cái tâm tốt lành.
Trước khi rời xe, anh cẩn thận ngước nòng súng lên cao để địch quân từ xa nhận
biết chiếc tăng đã bỏ cuộc chơi nên không nã đạn vào, gây thương vong cho dân
chúng gần đó.
Thất vọng, bố tôi quay xe lại, rồi ngừng xe bên đường để cởi
chiếc áo quân nhân ra thay bằng áo polo tôi mang theo. Ông bảo “thua keo này,
ta bầy keo khác,” và lái xe đến bộ tư lệnh Hải quân gần đường Cường Để (nay là
đường Tôn Đức Thắng) hy vọng gặp vài sĩ quan cao cấp ông quen biết để nhờ giúp
gia đình lên một chiến hạm di tản. Đến nơi, chúng tôi thấy đường dẫn vào bộ tư
lệnh đã bị chắn ngang bởi những hàng rào sắt với kẽm gai. Toán lính gác cho bố
tôi biết tất cả những tầu Hải quân còn sử dụng được đã ra đi trong đêm. Nhớ lại
mà tôi cảm thấy ngưỡng mộ các anh, dù biết rõ cấp chỉ huy đã ra đi, họ vẫn ở lại
thi hành trách nhiệm cho đến giây phút cuối cùng của chế độ họ đang phục vụ.
Nước đã tràn vào thuyền, chẳng lẽ buông xuôi để chìm trong
biển đỏ, thôi thì “còn nước, còn tát,” bố tôi quay đầu xe hướng đến bến Bạch
Đằng với hy vọng mong manh gặp một chiếc tầu đang đậu ở đó. Khi bố tôi lái xe dọc
theo bến, chúng tôi trông thấy xa xa có một tầu buôn lớn lố nhố đầu người trên
boong. Ông đậu xe dưới một tàng cây ven bến, cách tầu khoảng 200 mét, tức gần gấp
đôi chiều dài sân bóng, và bảo tôi lên tầu hỏi những người trên đó xem tầu có rời
bến không. Tất cả mọi người ngồi đợi trong xe, tôi chạy nhanh đến tầu. Đây là một
chiếc tầu chở hàng vượt đại dương, trên mạn có sơn tên Đông Hải, và đang cập
sát một chiếc tầu lớn khác có vẻ như đang hỏng vì sàn tầu đầy rác rưởi và không
có ai ngồi trên boong. Tôi trèo thang lên chiếc tầu hỏng, bước đến thành tầu đối
diện sát thành tầu Đông Hải để trèo qua con tầu đầy người này.
- Tầu này có đi không? Tôi hỏi người đàn ông gần tôi đang ngồi
bệt trên sàn tầu cùng những người có lẽ trong gia đình ông.
- Tôi cũng không biết! Ông ta trả lời.
- Không biết sao ngồi đây?
- Thì thấy người ta ngồi nên mình cũng ngồi.
Hỏi vài ba ngồi gần đó, cũng không ai biết tầu có đi hay
không.
Tôi trở lại xe, trình bầy những điều tai nghe mắt thấy cho mọi
người. Sau ít phút bàn thảo, tất cả rời xe đi đến tầu, ngoại trừ tôi. Trong vài
ngày qua, tại bến Bạch Đằng, có một đoàn quân hôi của, lùng sục khắp nơi để lấy
những xe gắn máy, xe hơi do những người đi tản để lại trên bến. Với những xe
hơi họ không nổ máy được hoặc không biết lái thì họ tháo bánh xe, gỡ bình điện,
và lấy đi những phụ tùng khác có thể bán được. Với khẩu súng giắt trong lưng quần,
tôi phải ở lại giữ xe để có phương tiện trở về nếu không tìm được tầu di tản.
Bước ra khỏi xe, tôi bật que diêm đốt điếu thuốc đầu ngày. Bỗng
có gã thanh niên gầy gò, áo quần luộm thuộm bước đến.
- Lương xe hả? Cho em ké cái bánh nhé! Gã nhăn nhở cười hì
hì nói (“lương” là tiếng lóng của giới giang hồ lúc bấy giờ, có nghĩa là lấy trộm).
- Lương mẹ gì? Xe tui đó cha!
Mặt tiu nghỉu, gã biến đi thật nhanh.
Hút xong điếu thuốc, tôi vào xe ngồi ở ghế tài xế để những
tên đang lùng sục các xe bỏ lại trên bến biết xe có chủ nên không đến làm phiền. Tôi
nhớ đến những bài báo thuật cảnh hàng ngàn người chen chúc nhau trên những chuyến
tầu xuôi Nam sau khi miền Trung thất thủ trong tháng trước. Trên những chuyến tầu
đó, biết bao trẻ em đã chết vì đói khát, và bị hải táng vào lòng biển. Gia đình
tôi, vì tưởng có thể đi tản bằng phi cơ nên không mang theo chút thực phẩm và
nước uống nào. Các đứa em nhỏ của tôi, đứa lên 9, đứa lên 7, đứa lên 5, đứa 21
tháng và đứa cháu đang chập chững tập đi chắc khó thế vượt qua cuộc hải trình
cam go này mà không có cái để ăn, để uống.
Hơn nửa tiếng sau, có lẽ khoảng 9 giờ, mặt trời lên
cao, nắng gắt chan hòa, trời trở nên nóng nực, tôi quyết định lên tầu gọi cả
nhà ra về. Tuy nhiên, tôi e khi mình bước đi, chỉ trong dăm bẩy phút, sẽ có kẻ
bất lương đến tháo bánh xe, lấy bình điện, hoặc tệ hơn, câu giây điện để nổ máy
rồi lái xe đi. Đang ngập ngừng tiến thoái lưỡng nan, chợt có một trung đội Nhẩy
Dù kéo đến bố trí cạnh gốc cây nơi xe chúng tôi đang đậu. Tôi bước đến hỏi han
anh chuẩn uý trung đội trưởng, một sĩ quan Thủ Đức sau tôi vài khoá. Anh cho biết
trung đội của anh vừa trải qua một đêm quần thảo với Cộng quân ở Hàng
Xanh, gần xa lộ Biên Hoà để ngăn địch tiến vào Sài Gòn. Và rồi,
vì thiếu đạn dược nên phải rút về đây. Anh cho trung đội đóng tạm nơi này để chờ
lệnh. Chỉ tay về chiếc tầu Đông Hải, tôi bảo anh rằng gia đình tôi đang ở
trên tầu. Tôi cần lên đó để gọi mọi người về và nhờ anh trông hộ chiếc xe cho
tôi, không để kẻ bất lương lấy trộm. Tôi sẽ trở lại trong khoảng 10 phút. Anh gật
đầu đồng ý và nói dứt khoát: “Anh yên tâm! Tôi giữ xe cho anh!”
Trở lại lên tầu Đông Hải, tôi nhanh chóng tìm được gia đình
trong đám đông hỗn tạp. Tôi trình bầy với mọi người nỗi lo âu của tôi. Tất cả đồng
ý trở về. Chúng tôi lần lượt, người lớn bế trẻ em, trèo qua thành tầu Đông
Hải, bước vào con tầu hỏng bên cạnh để xuống bến.
Khi tầu tách xa khoảng ba hay bốn thước, tôi trông thấy một
đứa bé trai khoảng năm tuổi đứng trên boong con tầu hỏng, hai tay khoắng loạn lên
trời vừa nhẩy tưng tưng vừa khóc gào “Ba ơi! Ba ơi!” Trên tầu Đông Hải, có
cặp vợ chồng đứng sát thành tầu nức nở thét to “Con ơi! Con ơi!” Những tiếng
gào tiếng thét chìm vào tiếng đạn pháo nổ dập dồn trên bến.
Tầu dời xa dần bến.
Tầu đi được khoảng gần hai tiếng, khi đến chỗ sông Sài Gòn đổi
tên thành sông Lòng Tảo, trời bỗng đổ cơn mưa rào, tuy không kéo dài nhưng
cũng khiến mọi người ướt sũng. Có lẽ vì cả đêm trước không ngủ, đang bần
thần, bải hoải nên tôi rét run cả người. Đứng gần tôi là một cô bé trạc 16, 17.
Trông thấy tôi đang co ro, run lên từng chập nên cô mở va ly mang
theo, lấy chiếc áo len cho tôi mượn. Dáng cô nhỏ hơn tôi khá nhiều nhưng áo đan
bằng sợi len có thể dãn ra nên tôi cài nút được. Tôi đã mặc chiếc áo này
cho đến lúc cơn mưa dứt và đợi cho áo khô mới trả lại cô. Lúc tàu khởi hành,
tôi trông thấy cô ngồi dựa vào thành tầu, tay ôm hai đứa trẻ, gái độ 10 tuổi,
trai chắc lên 5, và sùi sụt khóc. Hỏi thăm cô, tôi được biết ba chị
em được mẹ dẫn lên tầu. Ngồi trên tầu một chốc, cậu em kêu đói nên bà mẹ xuống
bến tìm mua bánh mì cho con và cho cả gia đình để dành ăn trong những ngày sắp
tới. Bà vừa xuống bến độ dăm phút thì tầu chạy. Chuyện gia đình cô và chuyện
đứa trẻ bị lạc cha mẹ ở bến tầu chỉ là hai trong hàng vạn câu chuyện “đau
lòng kẻ ở người đi; lệ rơi thấm đá, tơ chia rũ tằm?” (Truyện Kiều) trên quê
hương ta trong những ngày cuối cùng của cuộc chiến.
Khoảng hai giờ chiều, có lẽ tầu Đông Hải đã đi được quá nửa
đoạn sông Sài Gòn - Vũng Tầu, qua chiếc máy phát thanh nhỏ của người đứng
gần, chúng tôi nghe tiếng ông Dương Văn Minh tuyên bố đầu hàng. Có những tiếng
bật khóc nức nở chung quanh tôi. Thế là hết!
Tin tức ông Dương Văn Minh ra lệnh quân đội buông súng đầu
hàng vô điều kiện khiến những người trên tầu vừa bàng hoàng vừa lo lắng cho sự
an toàn của con tầu. Khoảng một tiếng sau, đài Sài Gòn phát lời nhạc sĩ Trịnh
Công Sơn đang ngồi trong phòng vi âm của đài ca ngợi thành quả thống nhất đất
nước của Cộng sản và lên án những người bỏ nước tìm tự do là những kẻ phản bội.
Sau đó, ông hát vang ca khúc Nối Vòng Tay Lớn với tiếng vỗ tay theo nhịp của những
người trong cái gọi là “Uỷ Ban Cách Mạng Lâm Thời” đang hiện diện tại đài phát
thanh.
Tôi không hiểu ông Trịnh Công Sơn có bao giờ nhận thức được
chính mảnh đất miền Nam tự do đã nuôi dưỡng, cưu mang ông và cung cấp cho ông
môi trường thuận lợi để ông sáng tác? Thử tưởng tượng nếu sống ở miền Bắc, dù
có thể tự học nhạc, chắc chắn ông chỉ được phép viết lên những ca khúc tầm thường
xưng tụng bác và đảng, như bao văn sĩ, thi sĩ, nhạc sĩ nô bộc của chế độ.
Xét ở khía cạnh này thì chính ông mới là kẻ phản bội miền Nam tự do, phản bội
những người thiết tha yêu mến nhạc của ông, đã xúm lại công kênh ông lên đỉnh
cao ngất ngưởng của âm nhạc Việt.
Về sau, tôi được biết kể từ khi miền Nam đổi chủ, ông Trịnh
Công Sơn đã viết cả trăm ca khúc thuộc loại nhạc “giác ngộ cách mạng,” nhưng những
sáng tác này của ông nhanh chóng bị rơi vào quên lãng.
Tầu tiếp tục chạy, khi đến cửa Cần Giờ, cách Vũng Tầu chỉ
khoảng 20 cây số đường sông, bỗng có những tiếng nổ vang và những cột nước
bắn lên tung toé gần tầu. “Nằm xuống! Việt Công bắn!” Tiếng người hét lên và mọi
người nằm rạp xuống sàn tầu.” Sau này tôi biết nơi đây chính là khúc sông Việt
Cộng từ bờ bắn vào tầu Việt Nam Thương Tín, con tầu khởi hành tuy sau nhưng khi
đến sông Lòng Tảo đã vượt qua tầu Đông Hải, khiến nhà văn Chu Tử bị thiệt mạng.
Có lẽ họ vừa bắn bằng súng cối vừa bằng B40 vì khúc sông khá hẹp.
Khi tầu vượt qua tầm súng Việt Cộng, mọi người lồm cồm trổi
dậy. Đứng bên thành tầu, vài phút sau, chúng tôi trông thấy ba, bốn chiếc
thuyền máy trông giống như giang tốc đỉnh của Hải quân đuổi theo. Vài người
trên thuyền cầm súng trường hướng lên trời bắn chỉ thiên như ra lệnh tầu
ngừng lại. Lại có tiếng la to “Việt Cộng đuổi! Chạy nhanh lên! Nhanh lên!” Chẳng
hiểu tiếng la hét dục tầu đi nhanh có vọng đến phòng lái hay không nhưng tôi có
cảm tưởng như tầu đang dần tăng tốc độ. Tuy nhiên, khoảng cách giữa những chiếc
thuyền máy và tầu dần dần thu hẹp theo từng phát đạn vang đến từ thuyền. Mọi
người trên tầu hoảng loạn, kẻ nằm sóng soài trên boong, người đứng sát mạn tầu
nhô đầu lên lo âu nhìn về hướng những chiếc thuyền đang xả hết tốc lực đuổi
theo.
Trong thoáng chốc, tôi tưởng tượng ra cảnh đám lính Việt Cộng
chặn tầu lại, bắt tầu tấp vào gần bờ, lùa dân trên tầu lội nước vào khu rừng
bên cạnh. Họ chia người di tản ra làm hai, đàn ông trong tuổi lính đứng một
bên, người già, phụ nữ, và trẻ con một bên, rồi nổ súng từng loạt vào những người
đàn ông. Đúng thế, họ sẽ làm như đã làm đối với những đoàn người di tản mà họ
chận lại trên Liên Tỉnh Lộ 7B và những nạn nhân của họ trong dịp Tết Mậu Thân ở
Huế như tôi được biết qua các bài báo. Ồ không đúng, ở Huế thì họ không mất
công chia ra làm hai mà lính tráng hay thường dân, đàn ông hay đàn bà, người
già hay con trẻ cùng chung số phận như nhau, tức cùng bị giết. Các hố chôn tập
thể được khai quật cho thấy rõ ràng sự công bằng, không phân biệt nam phụ lão ấu
đối với các nạn nhân của họ. Tôi chuẩn bị cách đối phó, lòng tự nhủ “chết là
cùng!”
Tuy nhiên, bố tôi bảo tôi đưa ông khẩu Colt 45. Ông lấy khẩu
súng sáu ông đang giữ thả xuống biển rồi nhét khẩu Colt 45 vào bụng. Kế
đó, ông nói tôi đưa ví cho ông. Mở ví tôi ra, ông lấy thẻ căn cước quân nhân và
thẻ sinh viên trường QGHC có in cờ vàng ba sọc đỏ của tôi ném xuống biển như đã
ném súng, rồi trao ví lại cho tôi. Ông bảo nhà còn mẹ, còn em, Việt Cộng bắt
thì đừng chống cự, cứ nói là dân thường. Lúc bấy giờ người trên tầu nghĩ những
người đang ngồi thuyền máy, bắn súng đuổi theo là Việt Cộng. Bố tôi giữ súng và
giữ cả thẻ quân nhân ghi cấp bậc trung tá là quyết chống cự địch, nhưng buộc tôi
không được liều mạng như ông.
Ra đến hải phận quốc tế, chúng tôi trông thấy rất nhiều thuyền
nhỏ chung quanh. Mặt trời xuống dần rồi chìm vào lòng biển. Tầu Đông Hải ngưng
chạy và bồng bềnh trên sóng nước suốt đêm. Thủy thủ đoàn đã neo tầu lại bằng
neo khác vì một giây neo đã bị chặt đứt khi tầu khởi hành. Trong thời gian tầu
được neo, nhiều thuyền nhỏ, trong đó có những thuyền đánh cá, cập vào để xin
phép lên tầu và họ đều được chấp thuận.
Đêm xuống, tôi đứng tựa người vào thành tầu nhìn ra ngoài.
Biển đêm thật đẹp. Ảnh trăng hạ huyền vẽ một đường lấp lánh trên mặt sóng lăn
tăn, từ hướng mặt trăng ở chốn xa xăm chạy dài đến con tầu như chia đôi mặt biển. Tôi
đã mang ơn đất và hôm nay tôi mang ơn biển. Trong một trận chiến năm xưa, khi
đang nằm bẹp dí trên mặt đất thì một quả đạn pháo rơi cách tôi chỉ dăm thước.
Tôi không hề hấn gì vì đất che chở tôi. Hôm nay biển cưu mang chúng tôi, đưa
chúng tôi thoát khỏi địa ngục của trần thế.
Biển cả bao la trước mặt tôi, bầu trời sao khuya lấp lánh
trên đầu tôi, không khí chúng ta đang thở, sinh vật dưới biển, chim chóc trên
trời, các động vật trên mặt đất, núi, rừng, ngày, đêm, cỏ, cây, hoa, lá, và
loài người là những tác phẩm tuyệt diệu chỉ có thể hoàn thành bởi bàn tay Thượng
Đế. Tôi tự hỏi tại sao với quyền uy và phép mầu như vậy, sau khi dựng nên con
người, Ngài lại để cho bao cảnh bi thảm, bao mối thương tâm xẩy ra trong lịch sử
nhân loại. Loạn lạc, thiên tai, chiến tranh, kế cả những cuộc thánh chiến mà cả
hai phe cùng nhân danh Ngài, thời nào cũng có. Có chiến tranh thì có hằng hà sa
số cảnh người giết hại người, cha mất con, vợ mất chồng, những kiếp người lầm
than, những mảnh đời khốn khổ. Phải chăng vì vậy mà Friedrich Nietzsche, triết
gia nổi tiếng người Đức trong thế kỷ 19, từng tuyên bố “Thượng Đế đã chết” để
ám chỉ (vì một lý do nào đó) Thượng Đế đã quay mặt không đếm xỉa đến loài người
sau khi tạo ra sinh vật có thể gọi là tác phẩm vĩ đại nhất của Ngài? Có lẽ vì
chịu ảnh hưởng của Nietzsche, nhạc sĩ Trịnh Công Sơn đã mở đầu ca khúc Này Em
Có Nhớ của ông với câu “Chúa đã bỏ loài người, Phật đã bỏ loài người, này em
xin cứ phụ người.”
Một gia đình Công Giáo gần chỗ tôi nằm cất tiếng đọc kinh.
Vài người chung quanh phụ họa. Khi hoang mang, lo lắng, trẻ con cậy đến cha mẹ
còn cha mẹ cậy đến Chúa, Phật. Con người, khi đã trưởng thành, thường gần Phật
hay Chúa nhất trong lúc nguy nan, gần đến nỗi có cảm tưởng mình cố vươn tay cao
thêm một chút là có thể chạm đến trái tim từ ái của các ngài. Kể từ khi con người
tin vào Thượng Đế hay Đấng Chí Tôn theo cách riêng của từng tôn giáo, họ đã cậy
đến Ngài trong cơn nguy khốn. Ngài có lắng nghe những lời cầu xin của đàn con
không, tôi không biết. Tuy nhiên tôi biết chắc một điều rằng Ngài không bị thiệt
thòi. Nếu kẻ cầu xin rốt cục được tai qua nạn khỏi, họ tin đã được Ngài phù hộ.
Trong trường hợp ngược lại, họ chép miệng thở dài “cái số mình như vậy” và vẫn
một mực yêu mến, thờ kính, tin tưởng nơi Ngài. Thôi thì cứ mơ mộng, cứ cầu xin,
đáp ứng hay không là việc riêng của Ngài. Dù sao, sự tin tưởng là điều cứu rỗi
trong lúc ấy và chẳng thiệt thòi gì khi mình có một niềm tin. Ít ra nó cũng
mang đến cho mình hy vọng.
Nhưng rồi, quá mệt mỏi, cuối cùng tôi cũng chợp mắt được khi
giấc mơ về một ngày mai tươi sáng vẫn còn dang dở.
Tờ mờ sớm hôm sau, tiếng léo nhéo của những người chung
quanh đánh thức tôi. Vừa ngồi dậy, tôi cảm thấy lưng áo mình ướt đẫm. Sờ tay
vào sàn tầu, tôi thấy râm rấp nước. Chẳng lẽ mình ngủ say đến độ mưa xuống mà
không biết. Sinh nghi, tôi đưa tay lên mũi ngửi thì rõ ràng là nước tiểu. Hàng
ngàn người chen chúc trên sàn tầu mà không có một nhà vệ sinh nào trong tầm mắt
thì tiểu tại chỗ, nhất là các em nhỏ, là chuyện thường. Đành tự an ủi trong cái
rủi có cái may, người ta không đại tiện ra sàn tầu gần chỗ mình nằm là tốt rồi.
Tôi nhặt chiếc túi đặt dưới sàn tầu đựng hai bộ quần áo
mang theo định lấy một chiếc áo ra thay thì mới hay lớp vải chiếc túi cũng đẫm
nước. Thôi thì cứ như vậy mà lạy trời mưa xuống.
Tầu Đông Hải nổ máy, chuyển minh rồi lầm lũi trôi đi trên mặt
nước biếc xanh như ngọc. Nếu gạt bỏ được những xao động trong tâm tư, chắc những
người trên tầu sẽ chứng kiến được vẻ đẹp tuyệt vời của biển Đông trong buổi
bình minh sóng lặng như sáng hôm ấy, ngày 1 tháng 5 năm 1975. Chẳng ai ngờ, chỉ
vài năm sau cũng chính biến Đông này đã nổi cơn thịnh nộ nuốt chìm hàng chục
ngàn, có lẽ đúng hơn là hàng trăm ngàn thuyền nhân phải bỏ nước ra đi như chúng
tôi ngày hôm ấy.
Xa xa, trong màn sương sớm, thấp thoáng một chiếc tầu trông
giống chiến hạm. Tiến đến gần, chúng tôi thấy đó là một chiến hạm Hoa Kỳ với những
người Việt tỵ nạn lố nhố đứng trên boong nhìn về tầu chúng tôi. Thủy thủ đoàn
trên tầu Đông Hải quyết định cập vào chiến hạm Mỹ để xin họ cho những người
trên tầu sang vì Đông Hải không có đủ thực phẩm cho số người trên tầu. Một trực
thăng từ chiến hạm bay lên để quan sát số người đứng chật kín trên boong tầu. Loa
phóng thanh trên chiến hạm phát ra những lời bằng Anh ngữ rồi ngay sau đó một
người trên chiến hạm dịch sang Việt ngữ là trên tầu họ đã đầy người, không còn
chỗ để chứa thêm; tầu chúng tôi phải tránh xa để giữ an toàn. Tuy nhiên, thủy
thủ đoàn Đông Hải vẫn lái tầu cập vào chiến hạm. Ngay lập tức một tràng đạn đại
liên từ chiến hạm nổ chát chúa và chúng tôi nghe tiếng đạn bay cao veo véo trên
tầu. Rõ ràng họ không muốn cho chúng tôi đến gần và bắn chỉ thiên cảnh cáo
chúng tôi.
Tôi không biết ai là trưởng tầu trên tầu Đông Hải, nhưng những
người đang nắm vận mạng con tầu quyết định đưa tầu đi Tân Gia Ba. Với sự trợ
giúp của một số thanh niên, các thủy thủ dựng được hai chòi vệ sinh bằng các
thanh gỗ có bạt che gắn vào mạn trước của tầu, bên trái dành cho nam, bên phải
dành cho nữ. Thế là giải quyết được nhu cầu cho những người di tản mà đến lúc ấy
tôi mới biết có cả 2.000 người. Tôi cũng nghe một người trong thủy thủ đoàn kể
rằng không có gia đình chủ tầu trong số người tỵ nạn. Sáng hôm trước, khi tầu
neo trên bến Bạch Đằng, ông chủ tầu về nhà để đón vợ con. Lúc Việt Cộng pháo
kích vào bến, một số quân nhân đã lên sẵn tầu, trong đó có nhiều người lính Hải
quân, chặt giây neo và lái tầu đi. Cuộc đời có lắm oái oăm, chủ tầu bị bỏ lại,
những người ông không hề quen biết dùng tầu ông tự do ra đi. Xin tạ ơn ông và
mong ơn Trên bù lại cho ông công lao đã làm chủ một chiếc tầu đưa 2.000 người đến
miền đất hứa.
Cũng đến lúc ấy, tôi mới biết gần giữa tầu có một chiếc
thang đứng dẫn xuống khoang dùng để chứa hàng hoá nơi đang có chắc cũng phải bẩy
hay tám trăm người la liệt đứng, ngồi, nằm. Để tránh nắng, mẹ tôi đưa các em nhỏ
vào khoang. Và rồi, chúng tôi bắt đầu những ngày đói khát. Số bếp trên tầu
chắc được thiết kế để đủ dùng cho một thủy thủ đoàn khoảng 30 người nên dĩ
nhiên quá thiếu để phục vụ cho 2.000 người. Vì vậy, mỗi người chỉ được chia khoảng
5 thìa cơm trắng và 5 thìa nước hằng ngày. Xin nói cho rõ là thìa ở đây là cái
muỗng cà phê. Điều may mắn là trên tầu có sẵn vài bao sữa bột nên các em nhỏ
còn uống sữa hay bú chai được phát vài thìa sữa bột và khoảng nửa cốc nước; dĩ
nhiên là nước lạnh chứ không phải nước nóng.
Hai ngày sau, tầu Đông Hải vào hải phận Tân Gia Ba. Một chiến
hạm hải quân của đảo quốc này hướng dẫn tầu đến bỏ neo trong vùng vịnh, xa xa
là thành phố với những tòa building chọc trời. Mọi người phải chịu đựng cơn đói
khát trong nhiều ngày nữa. Có lần trông thấy một gia đình bên cạnh lấy gói mì
mang theo ra ăn sống vì không có nước và bỏ lại những túi bột gia vị mặn chát,
cô em 12 tuổi của tôi xin họ rồi bóc những túi này ra chia cho ba em 9, 7, và 5
tuổi liếm cho đỡ thèm. Trên tầu, tôi gặp người bạn cùng khóa Đốc sự trường QGHC
là anh Nguyễn Tử Nha, một sinh viên gốc quân nhân như tôi. Anh vốn là đại úy phục
vụ tại Nha Kỹ Thuật trực thuộc Bộ Tổng Tham Mưu, đơn vị hoạt động biệt kích thu
thập tin tức tình báo để nhận biết hoạt động của địch. Anh có biệt tài châm cứu
và tôi đã nhiều lần chứng kiến anh châm cứu bệnh nhân ngay trong khuôn viên Học
Viện QGHC khi họ đến trường nhờ anh chữa bệnh. Khi di tản, anh xách theo túi
kim và dụng cụ châm cứu. Anh đề nghị tôi để anh châm cứu cho cảm thấy đỡ đói.
Tôi không tin tưởng lắm ở châm cứu nhưng đói quá hóa liều, đành nằm dài trên
sàn tầu để anh cắm kim vào người. Thế mà sau đó tôi cảm thấy đỡ đói thật.
Mọi người trên tầu tiếp tục chịu đói thêm vài ngày, cho đến
khi chúng tôi được nhà cầm quyền Tân Gia Ba tiếp tế lương thực bằng cách cho một
tầu nhỏ đến sát tầu Đông Hải, ném những ổ bánh mì lên cho đám đông trên tầu
giành giật. Những ổ bánh này có kích thước tương đương những ổ bán trong các
siêu thị ở Mỹ nhưng không xẻ sẵn ra từng lát mỏng. Tham gia vào cuộc giành giật
này cùng với các trai tráng trên tầu, tôi chụp được hai ổ. Khi bước về chỗ gia
đình đang trú ngụ, trông thấy cô gái cho mượn áo len, tôi bẻ nửa ổ tặng ba chị
em cô.
Hôm ấy, lúc chia phần bánh mì cho các em, tôi hả hê với cảm
tưởng mình như một anh hùng khi trông thấy ánh mắt mừng vui của chúng. Tuy
nhiên về sau, trưởng thành hơn, tôi thấy hỗ thẹn khi nhớ đến hành vi của mình tả
xung hữu đột, chen lấn trong đám đông, xô nhau, đẩy nhau để chộp bắt những ổ
bánh mì đang rơi xuống. Mình phải nhẩy cao hơn họ, phải vươn tay cao hơn họ.
Trong nỗi hỗ thẹn, tôi lòng trấn an lòng rằng mình hành động như vậy để mang lợi
ích cho thân nhân. Nhưng rồi tôi tự hỏi nếu chỉ có mình tôi trên chuyến tầu ấy,
sau vài ngày nhịn đói, tôi có đủ dũng khí để làm kẻ bàng quan trong khi mình đủ
sức tham gia cuộc giành giật ấy không? Rồi tôi buồn rầu vì tự hiểu chắc mình
cũng không làm khác được. Thôi thì phải cậy đến câu nói của nhà hiền triết
Plato để lòng còn thanh thản: “Trong mỗi chúng ta, ngay cả những người ôn hòa,
chừng mực nhất, đều có một thứ ham muốn tồi tệ, hoang dã, và vô luật pháp.”
Khoảng 10 ngày sau khi tầu đến Tân Gia Ba, hải quân của đảo
quốc này mang sà lan đến để chuyển hơn một nửa số người trên tầu Đông Hải sang
những tầu buôn Việt Nam khác còn trống chỗ cũng đang neo trong vịnh và chỉ đường
đến Subic Bay, một vịnh trên biển Đông thuộc lãnh thổ Phi Luật Tân và là căn cứ
của Hải Quân Hoa Kỳ, nơi đang đón tiếp người tỵ nạn Việt Nam. Gia đình chúng
tôi được chuyển lên tầu Long Hồ với số người trên tầu khoảng 700. Chính quyền
Tân Gia Ba tiếp tế gạo, bánh mì, và thực phẩm đóng hộp cho chúng tôi đủ dùng
trong hành trình. Thế là chấm dứt chuỗi ngày đói khát.
Từ lúc gia đình chúng tôi được chuyển sang tầu Long Hồ, tôi
không gặp lại cô gái cho mượn áo len. Cô và hai em còn ở tầu Đông Hải. Về sau,
tôi được biết tầu này đã từ Tân Gia Ba đến thẳng Guam, một hòn đảo thuộc Hoa Kỳ,
ở phía tây của Thái Bình Dương, nơi từng đón tiếp cả trăm ngàn người Việt tỵ nạn
trước khi họ được chuyển đến các trại tạm trú trên lục địa Hoa Kỳ.
Ba tuần sau khi rời Sài Gòn, chúng tôi đến Subic Bay vào một
buổi tối. Hải quân Hoa Kỳ đưa sà lan ra đón nửa số người trên tầu Long Hồ vào tạm
trú tại căn cứ này, trong đó có gia đình tôi. Đứng trên sà lan, bố tôi thả khẩu
Colt 45 xuống biển. Tôi được biết người Mỹ cung cấp thêm lương thực cho những
người còn lại trên tầu Long Hồ và chỉ đường cho thủy thủ đoàn lái tầu đến Guam.
Chúng tôi ở Subic Bay dễ chừng cả tháng, ngày ba buổi xếp
hàng ở nhà ăn nhận phần ăn sáng, trưa, chiều. Gia đình tôi đông người và có nhiều
trẻ em nên được tạm trú tại một phòng của khách sạn hai tầng độc nhất trên đảo,
nơi trước đây dành cho các các quân nhân Hoa Kỳ nghỉ phép ngắn hạn, trong khi
đa số người tỵ nạn ở các lều vải với ghế bố. Chỉ vài ngày sau, tôi được những
người tạm trú trong khách sạn bầu làm trưởng khu vì người tiền nhiệm lên chuyến
bay sang Guam, Nhiệm vụ chính của trưởng khu là cắt cử những người dọn dẹp vệ
sinh tại khách sạn và đặc biệt là cùng với những nhóm khác, luân phiên làm công
tác đổ thùng trong những nhà vệ sinh dã chiến do các quân nhân Hoa Kỳ dựng tạm
cho người tỵ nạn trên đảo, một công tác khá nặng nhọc chỉ dành cho những thanh
niên và trung niên phái nam. Dĩ nhiên, tôi phải có mặt cùng với những người
trong nhóm mình. Đến cuối tháng Năm, tôi lại được chỉ định làm trưởng ban văn
nghệ cho buổi tiệc cảm ơn những quân nhân Hoa Kỳ phục vụ giúp người tỵ nạn. Thật
ra, người giữ trách nhiệm trưởng ban là nghệ sĩ La Thoại Tân. Tuy nhiên, khoảng
hai tuần trước buổi tiệc, ông cùng gia đình có tên trong danh sách những người
sang Guam nên tôi được chỉ định thay thế. Buổi tiệc được tổ chức tại nhà ăn
trong một chiếc lều thật lớn có bàn ghế đủ cho khoảng 500 người với sự hiện diện
của hầu hết những người lính Hải quân Mỹ trên đảo. Điều lý thú là buổi tiệc
dành để cảm ơn họ nhưng âm thanh, ánh sáng, nhạc cụ, và cả thức ăn đều do họ
cung cấp.
Vào đầu hạ tuần tháng Sáu, chúng tôi được chuyển sang căn cứ
không quân Clark của Hoa Kỳ cách Subic Bay khoảng 80 cây số để lên một vận tải
cơ bay đến Guam. Gia đình tôi chỉ ở Guam gần ba tuần trước khi đáp chuyến bay của
hãng hàng không Pan Am do chính quyền thuê để đến thành phố Fort Smith thuộc tiểu
bang Arkansas. Từ phi trường Fort Smith, chúng tôi lên chuyến xe bus đến Fort
Chaffee, một trong năm căn cứ quân sự của Hoa Kỳ được dùng làm nơi tạm trú cho
người Việt tỵ nạn sau biến cố tháng Tư năm 1975. Fort Chaffee là một trại huấn
luyện khá lớn của Lục Quân Hoa Kỳ với vài trăm dẫy nhà gỗ (barracks) đã đón tiếp
khoảng 50.000 người Việt tỵ nạn trong năm 1975.
Chuyến di tản của gia đình tôi tuy gọi là cam go nhưng khi
ra đến hải phận quốc tế, dù phải chịu đựng vài ngày đói khát, mọi người vẫn quá
may mắn so với những đồng hương vượt biển tìm tự do vài năm sau đó. Chúng tôi ở
trên một con tầu lớn trong những tuần lễ biển lặng, sóng êm chứ không phải ngồi
chen chúc trên những tầu thuyền nhỏ bé mong manh giữa sóng to gió lớn, và không
phải lo lắng về tệ trạng hải tặc. Chuyến đi của chúng tôi cam go ở nghĩa mình
không làm chủ được vận mạng mình, những tính toán trước khi ra đi đã không
thành sự thật. Thoát đi được là cả một đất trời may mắn.
Tháng 11 năm 2013, sau hơn 38 năm định cư tại Hoa Kỳ, tôi và
nhà tôi về Việt Nam lần đầu để thăm người chị ruột nhà tôi đang bị ốm nặng. Khi
máy bay chuẩn bị đáp xuống phi trường Tân Sơn Nhất, lòng tôi vừa bồi hồi, vừa
bùi ngùi, vừa xao xuyến, lại vừa cảm động. Nước mắt tôi ứa ra, quả tim tôi đập
mạnh. Hình như có giai điệu của ca khúc Chiều do Dương Thiệu Tước phổ từ một
bài thơ của Hồ Dzếnh đang réo rắt trong tôi: “trên đường về nhớ đầy, chiều chậm
rơi chân ngày, tiếng buồn vang trong mây…”
Ấy vậy mà hơn hai tuần thăm viếng vài nơi từ Sài Gòn ra Hà Nội,
tôi không có cái cảm xúc “về với quê hương” như mình hằng tưởng tượng, ngay cả
khi đứng trước căn nhà cũ ở cư xá Bắc Hải, nơi tôi lớn lên với rất nhiều kỷ niệm,
và một chung cư nhếch nhác ở Hà Nội mà trước năm 1954 là nhà bảo sanh Hồ Thị
Mão, nơi tôi được sinh ra đời. Những người chiếm nhà chúng tôi đã chia nhà
thành hai căn và xây thêm phòng ở nơi vốn là vườn trước. Tôi không thể nhận ra
dấu tích quen thuộc nào của căn nhà yêu dấu cũ và những con đường cư xá năm
xưa.
Rốt cục, trong chuyến đi hơn 11 năm trước, tôi đã đến thăm
vài thành phố ở Việt Nam với con mắt của một khách du lịch. Lúc bấy giờ, tôi ước
ao phải chi mình mang tâm trạng của một kẻ xa quê bao năm trời vừa trở về, như
người về lại nhà sau chuyến du sơn du thủy nhiều nơi trong bài đọc “Chốn quê
hương đẹp hơn cả” của Quốc Văn Giáo Khoa Thư mà tôi đã học từ tấm bé. Tôi chợt
thấy buồn rầu trong ý nghĩ hay là tôi đã mất quê hương?
Ngày hôm ấy, tôi bần thần suy nghĩ quê hương tôi ở đâu? Ở
vùng Bắc Ninh, nơi mồ mả tổ tiên tôi đang yên nghỉ; ở Hà Nội, nơi tôi cất tiếng
khóc chào đời và là nơi chôn nhau cắt rốn của tôi; ở Sài Gòn, mảnh đất tôi khôn
lớn, lưu giữ biết bao kỷ niệm cho tôi suốt 20 năm trời; hay là ở thành phố
Houston trên xứ người, nơi bố, mẹ, vợ, và các em tôi sinh sống suốt nửa thế kỷ
qua, nơi chúng tôi đang có bốn con trai và sẽ có những đứa cháu được sinh ra đời?
Vâng, có người quả quyết rằng quê hương đích thực chính là nơi có sự hiện diện
của người thân yêu, nơi ta nhung nhớ mỗi khi đi xa, và rộn rã niềm vui trên đường
trở lại.
Ngày còn trong lứa tuổi thanh niên “mộng vói tay cao hơn trời,”
tôi nghĩ mình làm chủ vận mệnh của chính mình. Trước khi biến cố 30 tháng Tư ập
đến, tôi đã từng nhiều lần phát ngôn với lòng tự tin của tuổi trẻ rằng nếu số mệnh
cho mình một quả chanh chua, hãy vắt nó thành ly nước chanh ngon ngọt, cho mình
và cho người chung quanh. Câu này dựa trên một giả thuyết chủ quan lắm khi
không tồn tại là mình được số mệnh trao quả chanh kèm theo gói đường. Lỡ số mệnh
cho thêm gói muối chứ không phải gói đường thì làm gì có nước chanh ngon ngọt
mà thưởng thức?
Hôm nay, chân đã bước qua cột mốc “thất thập nhi tòng tâm sở
dục” như lời cụ Khổng dậy khi cụ khoảng tuổi tôi bây giờ, tôi tin rằng cuộc đời
mỗi người sinh ra đã được dành sẵn một số phận mà mình không cưỡng lại được.
Nhìn lại chuyến vượt thoát khỏi bàn tay Cộng sản vào ngày 30 tháng Tư năm ấy, với
những biến chuyển nối tiếp nhau như đã được một bàn tay vô hình sắp xếp, tôi
tin rằng định mệnh đã an bài sẵn cho chúng tôi thoát khỏi bàn tay bạo tàn của Cộng
sản, trước khi chúng tôi bàn đến chuyện ra đi.
Vâng, quả thế, nhớ đến cuộc di tản cam go cuối tháng Tư năm ấy,
thiếu một trong những chữ “nếu” nêu trên thì gia đình chúng tôi không đi thoát.
Bố tôi, chú tôi, và tôi đã bị hành hạ trong cái gọi là trại cải tạo suốt nhiều
năm ròng rã. Riêng bố tôi, với bản tính ương ngạnh “uy vũ bất năng khuất” và
lòng căm thù Cộng sản, chắc khó có thể sống sót trong hoàn cảnh bị tù đầy. Mẹ
tôi trở thành nạn nhân trong chiến dịch đánh tư sản. Gia đình tôi trắng tay sau
hai đợt đổi tiền. Các em tôi rồi lêu bêu, phải bỏ học vì lý lịch để bươn chải
kiếm miếng ăn tại những chốn rừng thiêng nước độc có tên mỹ miều là Vùng Kinh Tế
Mới. Những cái người khác gọi là “ngẫu nhiên” xẩy ra cho gia đình tôi trong buổi
sáng 30 tháng Tư như sự sắp xếp của bàn tay định mệnh để thành những mảnh
ghép của con đường dẫn gia đình tôi đến bến bờ tự do. Ắt hẳn mỗi người đã mang
sẵn một số mệnh khi vừa được sinh ra đời theo kiểu “nhất ẩm nhất trác giai do
tiền định” (một hớp uống một miếng ăn cũng là việc được định trước) như lời cụ
Mạnh Tử quả quyết?
Thời mới lớn, tôi được dậy cha đẻ của trách nhiệm là đức hạnh
và lòng tự trọng. Trách nhiệm được ca tụng và được trao phần thưởng trong
các sách giáo khoa và tiểu thuyết nhưng trên thực tế, trong nhiều hoàn cảnh,
người chu toàn trách nhiệm là những người chịu thiệt thòi. Điển hình là những
chiến sĩ VNCH tôi gặp sáng ngày 30 tháng Tư năm ấy: những người lính Hải quân đứng
gác bộ chỉ huy dù họ biết rõ rằng cấp chỉ huy và những chiến hạm đã ra đi trong
đêm, toán Biệt Cách Dù gác cầu Trương Minh Giảng để ngăn Cộng quân tiến vào
trung tâm thủ đô, và trung đội Nhẩy Dù ở bến Bạch Đằng đã thức suốt đêm chong mắt
quần thảo với địch dù đang trong hoàn cảnh thiếu thốn đạn dược. Họ và những người
lính VNCH khác đã can trường bảo vệ thành phố trong những ngày cuối của cuộc
chiến. Nhờ vậy mà hàng chục ngàn đồng bào có đủ thời giờ để vượt thoát được cái
nhà tù vĩ đại đang mở rộng cửa để nuốt trọn khối người dân miền Nam, trong đó
có gia đình tôi. Tôi suốt đời mang ơn các anh!
Khi ở trại tạm trú Fort Chaffee, tôi quen một thiếu tá binh
chủng Nhẩy Dù, chỉ hơn tôi khoảng mươi tuổi. Anh là một người lính tác chiến,
đã bao phen vào sinh ra tử trong chiến trận. Đêm 29 tháng Tư, anh đưa được gia
đình nhỏ bé của anh gồm vợ và ba con nhỏ lên một chiến hạm Hải quân rời bến Bạch
Đằng. Một buổi tối, anh rủ tôi đi uống bia ở Hitching Post, quán bia vốn dành
cho quân nhân Mỹ trong trại nay được trưng dụng làm nơi tiếp đón người tỵ nạn.
Anh bảo uống một bữa để mừng ngày sắp được hôn lên bàn chân tuyệt trần của Nữ
thần Tự Do. Đó là lần đầu trong hơn hai tháng tôi lại được thưởng thức chất men
của thứ nước mà lắm người quả quyết là phát minh vĩ đại nhất của loài người sau
lửa. Chất men, dù nhẹ như men bia, làm người ta cởi mở với nhau hơn. Trong câu
chuyện trao đổi, tôi kể anh nghe chuyện những người lính can trường đã chu toàn
trách nhiệm mà tôi gặp trong những giờ phút cuối của cuộc chiến.
- Cậu phải hiểu có nhiều thứ trách nhiệm. Anh trầm ngâm một
chốc rồi thở dài nói tiếp. “Trách nhiệm với bản thân, trách nhiệm với gia đình,
với tập thể, với xã hội, và với đất nước. Ngày 29, khi biết tình hình không thể
cứu vãn, tôi phải có trách nhiệm đối với bản thân để không bị bỏ mạng hay sa
vào tay địch. Tôi phải có trách nhiệm đối với gia đình để đưa vợ con đến bến bờ
tự do. Ông cụ của cậu cũng thế thôi. Tôi có ba đứa nhỏ còn ông cụ cậu có 9 người
con. Trách nhiệm của ông còn to lớn hơn nhiều so với tôi.”
Lời anh nói khiến tôi suy nghĩ. Quả vậy, khi trưởng thành, mỗi
người lắm phen phải phân vân, phải lưỡng lự cân nhắc khi đứng ở ngã ba hay ngã
tư đối diện với những con đường trách nhiệm. Tuy nhiên, tôi vẫn cho rằng người
dám chọn bước vào con đường đầy chông gai và có thể mất mạng như chơi mà tuổi
tên không ai biết đến là những người cao cả và đáng trọng, như những người lính
tôi đã gặp trên bước đường di tản. Mỗi lần nghĩ đến họ, tôi lại nhớ đến mấy câu
thơ của Đằng Phương, tức giáo sư Nguyễn Ngọc Huy: “Họ là những anh hùng không
tên tuổi, sống âm thầm trong bóng tối mông mênh, không bao giờ được hưởng ánh
quang vinh, nhưng can đảm và tận tình giúp nước.” Cầu mong họ vẫn lành lặn
qua ngày định mệnh năm ấy. Cầu mong họ có một cuộc sống không gọi là bi thảm suốt
nửa thế kỷ qua.
Vâng, nửa thế kỷ đã trôi qua, đến hôm nay, cũng như bố tôi,
có lẽ hầu hết những người chủ gia đình đưa được người thân yêu rời khỏi quê
hương trong tháng Tư tang thương ngày ấy đã không còn trong cuộc đời này. Nghĩ
mà thương bố tôi. Khi khởi đầu cuộc đời tỵ nạn, tôi là một thanh niên độc thân
chưa đầy 23 tuổi và với tuổi này, không khó khăn lắm để thích nghi với xã hội mới
và xây dựng tương lai. Ngày ấy, bố tôi đã 45 và từ lúc trưởng thành, ông là một
người lính chuyên nghiệp, chỉ biết đánh giặc, biết làm tham mưu, dĩ nhiên là
tham mưu trong cuộc chiến. Sang định cư tại xứ người, ông phải học một nghề lao
động, quần quật nuôi đàn con ăn học nên người. Ông đã từ giã chúng tôi về “ngôi
nhà lớn” gần ba năm trước. Những người chủ gia đình người Việt tỵ nạn năm 1975,
trong đó có bố tôi, chính là những kẻ đã khai sinh ra cộng đồng người Việt tại
Hoa Kỳ và cả tại những quốc gia Âu Mỹ khác. Cộng đồng ấy lớn mạnh đều đặn theo
thời gian và đã cống hiến cho xã hội nơi họ định cư những đóng góp quan trọng
trong mọi lãnh vực. Xin thắp một nén hương lòng để tưởng nhớ và biết ơn những
chủ gia đình thuở ấy nay đã về thế giới bên kia.
Trong cuộc đời, có lúc chúng ta phải đương đầu với những
thách đố ảnh hưởng đến vận mạng. Những thách đố chúng ta chịu khuất phục để lại
bóng tối trong hồi tưởng, nhưng những thách đố chúng ta vượt qua trở thành thứ
ánh sáng ấm áp của ký ức, có thể soi rọi vào tâm hồn khiến bản thân thay đổi
theo hướng tích cực. Hồi ức với những ngày tháng Tư năm ấy cho tôi sức mạnh để
vượt qua những chướng ngại trong nửa thế kỷ qua. Nhờ mớ ký ức của tháng Tư thuở
ấy, tôi đã có cái nhìn khoan dung hơn với người, với đời. Tôi nỗ lực hơn để cuộc
sống mình ý nghĩa hơn.
Thiện căn ở tại lòng ta,
Chữ tâm kia mới bằng ba chữ tài.
Cỗi nguồn cũng ở lòng người,
Túc nhân âu cũng có Trời ở trong.