Để mở đầu, trước tiên tôi xin giới thiệu cái “Tôi” đáng ghét
ở đây, đó là điều bất đắc dĩ, vì cái "tôi” là nhân vật chính, là một chứng
nhân kể lại những gì đã xảy ra, trong hồi ký này, và để người đọc biết được cơ
duyên nào tôi có mặt tại đó.
Sau vụ Tết Mậu Thân, Niềm Nam ban hành lệnh tổng động viên,
tôi bị gọi nhập ngũ vào trường Thủ Đức vào đầu năm 1969. Môi trường quân đội
không thích hợp với cá tính phóng khoáng bất cần của tôi. Ngay trong thời gian
thụ huấn tại quân trường, tôi đã nhiều lần vi phạm kỷ luật, trốn học bằng nhiều
hình thức, chui rào ra ngoài khi cấm trại, đã từng bị giam trong nhà kỷ luật.
Thế nhưng, tôi vẫn ra trường với hạng cuối bảng. Có lẽ vì quân đội cần sĩ quan
nên không nỡ đánh rớt. Tôi không có quyền lựa chọn đơn vị, vì là ngưới cuối
cùng, chỗ trống còn lại duy nhất là sư đoàn 22 Bộ Binh, bản doanh đóng tại Bà
Di cách thị Xã Quy Nhơn khoảng 20 cây số. Tôi là lính tác chiến ở sư đoàn này,
từ chức vụ khởi đầu là trung đội trưởng, đại đội phó, đại đội trưởng lên đến
trưởng ban ba tiểu đoàn, tham dự rất nhiều chiến trận với hai lần bị thương, thắng
cũng có và thua cũng có, lần thua lớn nhất là vào mùa hè đỏ lửa tháng Tư 1972 tại
Tân Cảnh Dakto. Tư Lệnh Sư Đoàn, Trung Đoàn Trưởng, Tiểu Đoàn Trưởng của tôi đều
tử trận, tôi trốn chạy 5 ngày trong rừng mới về được KonTum, nhập vào lực lượng
phòng thủ. Bắc quân trên đà thắng thế tiến chiếm Kontum. Tuy nhiên, nhờ sức
kháng cự mãnh liệt của các đơn vị phòng thủ mà Kontum vẫn vững vàng. Sau nhiều
đợt tấn công vũ bão, cuối cùng Bắc quân đành chào thua, rút lui. Sau Hiệp
định Paris, tôi được thuyên chuyển về Sư Đoàn 23 Bộ Binh, bản doanh đặt tại Ban
Mê Thuột. Quân Trấn Ban Mê Thuột đang cần một người có kinh nghiêm tham mưu tác
chiến để nắm chức vụ sĩ quan điều hành. Quân Trấn Trưởng lại là Tướng Tư Lệnh
sư đoàn nên may mắn thay, tôi được chỉ định nắm chức vụ đó, một phần cũng vì đã
bị thương nhiều lần, một phần vì tôi đã từng giữ chức Trưởng Ban 3 . Tôi làm việc
ở đây cho đến ngày bị bắt làm tù binh.
Mấy ngày trước khi Cộng Quân đánh vào Ban Mê Thuột, tôi có sự
vụ lệnh đi Nha Trang, theo trát đòi làm nhân chứng tại tòa án Quân sự vùng Hai
trong một vụ xử về buôn bán ma túy, do quân trấn bắt. Xin phương tiện máy bay
đi Nha Trang rất khó khăn, mà đường bộ lại bị cộng quân đánh phá không đi được,
cho nên vẫn nấn ná ở nhà chờ phương tiện di chuyển.
Trận đánh Thị Xã Ban Mê Thuột, là bước khởi đầu dẫn đến sự sụp
đổ của Việt Nam Cộng Hòa.
Tương quan lực lượng của hai bên, tôi lấy từ nhiều nguồn
đáng tin cậy như sau:
Phía Bắc Quân:
-
Sư Đoàn F10
-
Sư Đoàn 316
-
Trung Đoàn 95B
-
Trung Đoàn 968 Đặc Công
-
Trung Đoàn 273 Xe Tăng
-
2 Trung đoàn pháo binh và phòng không
Phía Việt Nam Cộng Hòa:
-
Hậu cứ Bộ Tư Lệnh Sư Đoàn 23, với hai đại đội phòng thủ.
-
Hậu cứ Bộ Chỉ Huy Liên Đoàn 21 Biệt Động Quân.
-
Hậu cứ Thiết Đoàn 8 Kỵ Binh.
-
Bộ Chỉ Huy Tiểu Khu Darlac, chỉ có Tiểu Đoàn 204 Địa Phương Quân,
-
Ty Cảnh Sát Quốc Gia, có Đại Đội Cảnh Sát Dã Chiến, cảnh sát áo trắng và Cuộc Cảnh
Sát thị xã.
-
Doanh trại của các đơn vị hành chánh, yểm trợ đóng quanh thị xã.
Diễn tiến trận đánh.
Địch làm kế nghi binh như là sắp sửa đánh Pleiku khiến Tướng
Phạm Văn Phú, Tư Lệnh Quân Đoàn Hai, đưa toàn bộ lực lượng chủ lực của Ban Mê
Thuột ở lại giữ Pleiku. Ban Mê thuột bị bỏ ngỏ nên địch đánh chiếm một cách dễ
dàng, hầu như không có sự kháng cự nào đáng kể.
2 giờ 20 sáng ngày Chủ Nhật, 10 tháng 3 năm 1975, cộng quân
bắt đầu thực hiện trận mưa pháo vào thị Xã và các đơn vị trú phòng tại Ban Mê
Thuột.
Bốn giờ sáng, đặc công VC đột nhập tấn công phi trường L19
và đài kiểm báo Pyramid, sau đó chiến xa T-54 và bộ binh chia làm nhiều mũi tấn
công kho đạn Mai Hắc Đế, Hậu cứ Thiết Đoàn 8, Trung Tâm Yểm Trợ Tiếp Vận. Tất cả
đều thất thủ sau thời gian ngắn chống cự. Riêng phi trường L19 với đài kiểm báo
cầm cự đến 6 giờ 30 sáng.
Từ 9 giờ 30 sáng ngày 10 tháng 3 năm 1975, các mũi tiến quân
của cộng quân từ hướng Bắc và hướng Tây Bắc đã tràn vào trung tâm thành phố và
tập trung nỗ lực tấn công Bộ Chỉ Huy Tiểu Khu nằm trên đại lộ Thống Nhất. Bộ đội
và chiến xa T-54 của cộng quân từ khuôn viên nhà thờ chính tòa tràn qua ngã
Năm, chiếm Câu Lạc Bộ Biên Thùy, khu cư xá sĩ quan, nằm trên Ngã Ba đại lộ Thống
Nhất và đường Lê Lợi. Lực lượng phòng vệ Bộ Chỉ Huy Tiểu Khu phản công quyết liệt.
Một chiếc T-54 của cộng quân bị bắn cháy. Tuy nhiên với hỏa lực quá mạnh của
chiến xa T54 và quân số áp đảo của địch, Bộ Chỉ Huy Tiểu Khu phải rút khỏi vị
trí lúc 14 giờ 20 bằng lối sau để bảo toàn lực lượng. Như vậy, đến cuối ngày 10
tháng 3, thị xã Ban Mê Thuột chỉ còn duy nhất Bộ Tư Lệnh Sư Đoàn 23 chưa bị địch
tấn công.
6 giờ 45 sáng ngày 11 tháng 3 năm 1975, cộng quân đã bố trí
xong lực lượng thắt chặt vòng vây hậu cứ Bộ Tư Lệnh Sư đoàn 23 Bộ Binh, và thực
hiện trận mưa pháo bằng đại bác 100 ly trang bị trên chiến xa T-54, bắn trực xạ,
đại bác 130 ly, hỏa tiễn 122 ly từ hướng Bandon dồn dập đổ xuống Bộ Tư Lệnh Sư
đoàn. 10 giờ 10 phút, một phi vụ A-37 của Không Quân thả bom nhầm vào Trung Tâm
Hành Quân của Bộ Tư Lệnh Sư Đoàn 23. Mọi liên lạc với Bộ Tư Lệnh Quân Đoàn 2 và
Bộ Tổng Tham Mưu hoàn toàn bị phá hủy.
10 giờ 30 sáng ngày 11 tháng 3 năm 1975, một đoạn hệ thống
công sự ở mặt Tây và Nam Bộ Tư Lệnh đã bị chọc thủng. Cộng quân và chiến xa
tràn vào hậu cứ Sư đoàn 23 Bộ Binh, Đại tá Vũ Thế Quang, Tư Lệnh Phó Sư đoàn, Đại
tá Nguyễn Trọng Luật, Tỉnh Trưởng kiêm Tiểu Khu Trưởng Tiểu Khu Đắc Lắc đều bị
bắt sau đó.
Thị xã Ban Mê Thuột đã hoàn toàn lọt vào tay Cộng Quân từ
trưa ngày 11 tháng 3 năm 1975. Hậu cứ Bộ Tư Lệnh Sư Đoàn 23 Bộ Binh là đơn vị
cuối cùng rút khỏi thị xã.
Câu chuyện tù binh của tôi bắt đầu từ đây.
3 giờ sáng ngày Chủ Nhật, Việt Cộng bắt đầu pháo kích đủ loại
vào thành phố. Tôi tỉnh dậy, vội vàng giục cả nhà nhanh chạy xuống lầu, nhà ở
góc đường Quang Trung và Nguyễn Tri Phương tôi thuê trên lầu, ẩn núp dưới hồ chứa
nước có 6 chân xây cao bằng bê-tông. Tiếng đạn rít trên đầu, nổ vang khắp nơi,
gần có, xa có, nhiều lắm đếm không xuể. May mắn không có trái nào rơi gần chỗ
chúng tôi đang ẩn núp.
Khoảng 5 giờ sáng, bắt đầu nghe tiếng súng nhỏ dồn dã nổ vài
nơi: hướng bắc, khu vực phi trường L19 gần trung tâm thành phố, hướng tây nam,
nơi có kho đạn Mai Hắc Đế lửa cháy sáng rực cả một góc trời. Trời còn mờ sáng,
tiếng súng tạm yên, không còn pháo kích và tiếng súng giao tranh. Gia đình cùng
những người hàng xóm rời nơi ẩn núp trở lại nhà.
Thấy đã yên, tôi vội vã rời nhà ra ngoài xem phố xá và tình
hình ra sao. Trước tiên, tôi chạy thẳng lên trụ sở xã Lạc Giao, là xã trung tâm
của Ban Mê Thuột, nơi đây có phân chi khu xã. Gặp Đại úy phân chi khu trưởng,
tôi và ông thường phối hợp làm việc với Quân Trấn nên quen biết nhau. Tôi hỏi
ông ta tình hình thế nào trong đêm, được trả lời là địch chỉ pháo kích khắp
nơi, một số rơi vào chợ gây ra đám cháy không đến nỗi nào.
Tôi lại hỏi, "Sao có tiếng súng giao tranh ở phía phi
trường L19.” (phi trường L19 cách trụ sở xã khoảng trên cây số thôi) Ông nói,
"Ôi, mấy đứa Nghĩa Quân, Nhân Dân Tự Vệ chúng nó lợi dụng lúc pháo kích, bắn
loạn xạ chứ tôi không thấy có báo cáo gì, tình hình vẫn yên ổn."
Phân chi khu là một ban ngành của xã trông coi về quân sự,
trực thuộc chi khu, tức là quận Ban Mê Thuột. Quận cách thị xã cỡ 7 cây số nên
phân chi khu chỉ ngồi chơi, chẳng có việc gì làm ngoài trông coi đám Nhân Dân Tự
Vệ. Không yên tâm, tôi rẽ qua Cuộc Cảnh Sát thị xã, cũng nằm gần đó, chỉ cách mấy
block đường. Tới nơi, tôi gặp một số anh em Cảnh Sát đang nhốn nháo ở cổng phía
trước, có người bị thương. Thấy tôi, họ hỏi, “Trời đất ơi, giờ này ông còn mặc
‘sơ-vin’ đi đâu đây? Việt Cộng vào đến ngã năm rồi, chúng tôi chưa biết phải
rút ra đường nào.”
Tôi hỏi lại, “Đại Úy Trưởng Cuộc đâu?”
“Đại úy được lệnh dẫn một số anh em về Bộ Chỉ Huy Ty Cảnh
Sát rồi, chúng tôi chỉ còn một số ít ở lại để giữ đồn, đồn bị trúng quả đạn
pháo kích làm một số anh em bị thương,” họ trả lời.
Nhìn vào đồn, xe gắn máy của nhân viên Cảnh Sát nằm ngổn
ngang, đạn pháo kích đào một lỗ trong sân, lỗ chỗ vết mảnh đạn trên tường phía
trước.
Tôi hỏi, “Thế mấy phòng tạm giam còn có ai không?”
Họ nói, “Sau khi đồn bị trúng đạn pháo kích, nên thả ra hết
rồi, cũng chỉ có vài người.”
Tôi chỉ họ tạm thời dìu mấy anh em bị thương vào tá túc
trong nhà thờ Tin Lành trên đường Tôn Thất Thuyết gần đó, nơi có người chăm sóc
vết thương, rồi vội vàng rời Cuộc Cảnh Sát về nhà.
Về gần đến nhà, tôi lại gặp ông Đại Úy Phân Chi Khu, dẫn mấy
người lính của ông ta đang loay hoay tìm đường rút. Tôi hỏi “kháy” ông ta,
“Sao, bảo tình hình không có gì lại chạy ra đây?”
“Khổ quá, Việt Cộng pháo kích đứt đường dây điện thoại nên
có ai liên lạc với mình đâu,” ông ta trả lời.
Tôi cũng ngán ngẩm kiểu làm việc của mấy ông quan, con ông
cháu cha này. Tôi bước vội vào nhà, mấy đứa em bu lại hỏi, tôi nói là tình hình
không ổn, Việt Cộng vào tới nơi rồi, bảo chúng ở nhà lo nấu cơm, ăn cho chắc bụng.
Nếu phải chạy vì hai bên giao tranh, trước mắt là không bị đói để tôi tìm đường
vào đơn vị xem sao.
Tôi đang loay hoay suy nghĩ đi đường nào vào đơn vị, chợt
nghe tiếng xích sắt bánh xe tăng, nhìn qua cửa sổ, trời đã sáng rõ, lù lù một
chiếc tăng T54, treo cờ xanh đỏ của Mặt Trận Giả Phóng đang tiến đến ngã tư gần
nhà tôi, kèm theo rất đông lính bộ binh, chạy lúp xúp, tỏa ra chiếm giữ dãy phố
hai bên đường. VC đã vào thị xã từ hướng chùa Khải Đoan và hướng đường Hoàng Diệu.
Rõ ràng, Việt Cộng đã chiếm đến rìa thị xã mà không gặp phải sự kháng cự nào. Một
lúc sau, thấy một vài người lính phe mình, mặc quân phục không mang vũ khí,
dáng vẻ mệt mỏi, quần áo lấm lem, không rõ từ đâu tới, đi qua khu vực tôi ở mà
không gặp cản trở nào từ bọn Việt Cộng.
Thấy vậy, tôi mạnh dạn rời nhà kiếm đường vào đơn vị. Với quần
áo thường phục, tôi đi ngang qua nhóm lính Việt Cộng đang ẩn nấp bên bờ tường đối
diện đường. Họ chỉ quan sát mà không có hành động gì.
Tôi tiếp tục dọc đường Quang Trung đi về phía chợ, đến ngã
tư nơi trụ sở Cuộc Cảnh Sát. Việt Cộng đã chiếm hết khu vực này. Trong sân Cuộc
Cảnh Sát, đám lính Việt Cộng đang tập cưỡi xe gắn máy của nhân viên Cảnh Sát bỏ
lại. Mấy tên bị té xe đổ nhào mà máy xe vẫn còn nổ. Thấy tôi đi ngang qua, đám
Việt Cộng nói rặc giọng Bắc, nhờ tôi chỉ cách xử dụng. Tôi đến một anh đang ngồi
trên chiếc xe Honda Dame, chỉ anh ta cách chạy. Còn mấy chiếc Honda loại 67,68,
tôi nói họ không thể chạy được, phải cần qua một khóa huấn luyện, tôi không hiểu
tại sao xe vẫn còn chìa khóa? Cưỡi được xe, họ trông có vẻ thích thú, vỗ
tay tán thưởng lẫn nhau. Họ vui vẻ cười đùa cứ như ở nơi yên bình, không thấy
gì là chiến tranh cả. Có lẽ họ lạc quan vì chiếm được thị xã quá dễ dàng.
Tôi vội vàng rời đám Việt Cộng sau khi chỉ một vài anh chạy
xe. Tôi nghĩ dây dưa với bọn này, nó cắc cớ hỏi mình thì dễ bị tóm lắm. Đi thêm
một lúc nữa, hướng về phía chợ, lác đác đã thấy dân chúng ra đường xem tình
hình. Tụi Việt Cộng vẫn qua lại, có vẻ bình thản.
Đang loay hoay kiếm đường, bất chợt nghe tiếng tu huýt. Một
tên mặc thường phục, với băng đỏ trên cánh tay trái, vai đeo súng M16, đang thổi
còi, chỉ chỏ đuổi người dân về nhà. Thấy hắn quen quen, đúng rồi, tên này là
lính Quân Sản Tạo Tác (thuộc công binh), thỉnh thoảng được biệt phái qua quân
trấn trong đội tuần tiễu an ninh, bọn nằm vùng đây! May mà nó không thấy tôi,
tôi vội quay lại đi đường khác.
Đi một đoạn nữa lại gặp một tên đeo băng đỏ khác, hắn hỏi
tôi đi đâu và đuổi tôi trở về nhà. Hắn nói, “Vì tình hình chưa ổn định, địch
tuy rút chạy nhưng có thể trà trộn đánh trả quân giải phóng, mọi người phải trở
về nhà.” Tôi muốn văng tục vào cái quân Giải Phóng nhưng e khẩu súng trong tay
nó nên lặng lẽ quay trở về nhà.
Giờ đây, tôi thật sự lo sợ, kiếm đường nào cũng bị xua đuổi
về, loanh quanh rồi thế nào cũng bị Việt Cộng bắt. Về gần tới nhà, tụi lính Bắc
Quân tôi gặp trước đây lúc tôi ra khỏi nhà, nay cũng tham gia vào việc xua đuổi
dân chúng.
Tôi nghe tiếng loa phát thanh, tự nhận là ban Quân Quản, kêu
gọi dân chúng không nên ra đường. Đó là lời cảnh báo cho chính bản thân tôi rằng,
họ sẽ truy lùng tìm bắt những lính “Ngụy” như tôi.
Không đi được, tôi suy nghĩ tìm cách khác để trốn khỏi nơi
đây. Hay là đợi đến tối mình có thể dùng lối hẻm đằng sau những dãy nhà, thoát
ra suối Đốc Học, len lỏi ra vùng ngoại ô tới vườn cà phê Thái Quang Hoàng, lẩn
trốn trong đó tìm thời cơ.
Đến khoảng 11 giờ, có tiếng máy bay. Hai chiếc phản lực A-37
đang nhào lộn trên bầu trời. Phòng không đủ loại bắn lên như mưa. Tôi và mấy đứa
em chạy xuống nhà, lại chui dưới gầm bể nước, nơi đó đã có một số người hàng
xóm đang ẩn núp.
Hai chiếc A-37 bay lượn rất cao, đang tìm chỗ thả bom. Một
lát sau, không còn tiếng súng phòng không, máy bay trút hết bom vội vàng bay
đi, trả lại bầu trời yên tĩnh.
Bên kia đường, lính Việt Cộng ra khỏi chỗ ẩn núp, tiếp tục
xua đuổi dân chúng.
Khoảng 12 giờ, có tiếng loa phát thanh của Ban Quân Quản,
kêu gọi nhân dân rời khỏi nhà đi theo sự hướng dẫn của bộ đội giải phóng, ra khỏi
thị xã tránh máy bay ném bom.
Giờ tôi mới biết họ dùng “Bộ Đội” dành cho lính Việt Cộng Miền
Bắc, còn “Quân Giải Phóng” dùng cho bọn Việt Cộng Miền Nam.
Bọn Bộ Đội vào từng nhà lùa hết dân đi. Tôi bảo mấy đứa em bỏ
quần áo và ít đồ đạc cần thiết vào các túi sách, mỗi đứa lớn mang một túi, chuẩn
bị di tản khỏi thị xã để tránh bom như theo lời yêu cầu của Ban Quân Quản.
Nghe lệnh di tản, tôi lại nhớ đến Tết Mậu Thân. Chiều 30 Tết,
gia đình tôi về nhà bà ngoại ở Tam Hà, Thủ Đức. Sáng mùng một Tết phải chạy loạn
vì bom đạn hai bên giao tranh nổ khắp nơi. Trước khi rời khỏi nhà, bên Ngoại có
nấu hai nồi cơm to, đổ cơm còn nóng vào các khuôn vải nhồi nén thành những nắm
cơm to hơn hai vốc tay, gọi là cơm nắm, người miền Nam gọi là cơm vắt. Làm như
thế để cơm giữ gọn và lâu thiu hơn.
Đây là kinh nghiệm nhiều lần tản cư ngoài Bắc của thế hệ cha
mẹ ông bà tôi.
Loa phong thanh của Ủy Ban Quân Quản tiếp tục phát vang, yêu
cầu mọi người gấp rút di tản khỏi thị xã.
Nhớ lại chuyện cũ, định làm cơm nắm mang theo nhưng không kịp
nữa rồi vì loa phóng thanh liên hồi hối thúc. Nhìn quanh chỉ còn rổ khoai lang
mua mấy hôm trước để anh em tôi ăn sáng mỗi ngày, vội vàng bỏ vào túi sách mang
theo.
Nghèo quá, tiền của vàng bạc không có, chẳng có gì quý giá để
mang theo. Rồi đây hai bên vẫn còn tiếp tục giao tranh, gia đình và các em tôi
không biết sống thế nào trong những ngày di tản? Tôi nghĩ đến rơi nước mắt.
Thôi thì nhắm mắt đưa chân, “Trời sinh voi sinh cỏ.”
Bộ đội Cộng Sản vào từng nhà đuổi tất cả ra, đi theo sự hướng
dẫn của chúng và mấy tên đeo băng đỏ.
Anh em chúng tôi vai đeo tay sách đi theo đoàn người bị
chúng lùa ra. Đoàn người mỗi lúc một đông, già trẻ lớn bé đủ cả. Hai bên tụi bộ
đội, đám băng đỏ súng lăm lăm xua đuổi, lớn tiếng với những người không đi theo
hướng dẫn của chúng.
Họ dẫn chúng tôi ra khỏi thị xã về hướng tây. Lâu lâu lại có
thêm một số người dân được chúng lùa ra, nhập vào đoàn. Đoàn người thêm đông và
lộn xộn hơn. Tôi gặp thêm một số người quen, một số anh em người thì mặc nửa
lính nửa dân, quần áo không vừa cỡ. Nhiều anh mặc cả quần áo của phụ nữ, chân
mang dép, quần đen áo bông trông thật buồn cười. Chẳng cần khai, ai cũng biết
những anh em này là lính. Họ cởi bỏ quân phục, thay bằng bất cứ thứ quần áo nào
kiếm được.
Đang đi lẫn lộn trong đám người di tản này, tôi bất chợt bị
một tên đeo băng đỏ đến chĩa súng âm thầm dẫn tôi ra, bảo đi theo hắn. Đám người
lúc đó rất lộn xộn, nên không ai để ý đến tôi khi bị bắt, ngay cả mấy đứa em
tôi. Họ biết tôi là ai là do chỉ điểm của đám “Nằm Vùng.”
Hai tên đeo băng đỏ đưa tôi đến một căn nhà nằm trên đường
Tôn Thất Thuyết. Nay mới biết là cơ sở kinh tài của Việt Cộng. Vào bên trong,
tôi thấy có một số người bị bắt trước ngồi trên băng ghế đặt ở góc một phòng lớn
rộng rãi. Họ ngước mắt nhìn tôi có vẻ ái ngại. Tôi biết những người ngồi đó là
thành phần đặc biệt nằm trong danh sách tìm bắt của chúng. Nhìn họ, tôi thấy mấy
người quen quen. Hình như họ là viên chức Chính Phủ trong tỉnh. Tôi được đưa đến
ngồi cạnh họ. Tất cả đều im lặng, không ai nói với ai lời nào ngay cả khi bất
chợt nhìn thấy tôi. Có lẽ im lặng để che đậy cái lý lịch của mình, làm như
không quen biết nhau, nếu có khai láo cũng không liên lụy đến người khác.
Phòng nhỏ bên cạnh, tôi đoán bọn cán bộ nằm vùng đang bàn thảo
về những người bị bắt.
Chợt tôi nghe có tiếng ở trong nói ra “Chuyển giao anh ấy
cho Bộ Đội.”
Ngay sau đó, có một tên băng đỏ đi ra và dẫn mình tôi đi.
Qua cái lệnh giải giao, họ gọi tôi là “anh” khi nói với nhau, đó đã là tử tế lắm
rồi. Thường họ gọi chúng tôi là thằng này thằng nọ. Tôi đoán số cán bộ nằm
vùng này, có người biết tôi, không liệt tôi là thành phần “ác ôn” phải giữ
riêng, chuyển tôi qua bộ đội như là tù binh.
Quả đúng như thế, chúng dẫn tôi ra tới một trạm lính Bắc
Quân, đang phân loại những người họ cho là lính trà trộn trong dân. Giao tôi
cho đám bộ đội này, tôi được nhập vào đám người họ đã lựa ra.
Đám người này chắc chắn là quân nhân, dễ nhận diện quá mà,
là những người mặc quần áo nửa lính nửa dân, nhưng chân còn đi giày “bốt,” quần
hoặc áo lính, những người quần áo không vừa với kích cỡ, hoặc giới tính, vân
vân...
Tôi ngồi cạnh một anh với cái quần ống rộng của phụ nữ và
chiếc áo thun xanh nhà binh, hỏi về tình trạng của anh ta. Anh nói, anh thuộc
đơn vị hậu cứ Thiết Đoàn 8, khi xe tăng địch tấn công vì lực lượng quá yếu nên
phải rút chạy ra khỏi hậu cứ. Anh chạy ra ngoài vào nhà dân thay đổi quần áo
lính, nhưng họ chỉ có quần áo phụ nữ, cho cái quần để thay. Bộ binh địch đuổi
theo truy lùng khắp nơi, khám xét từng nhà. Anh bị bắt nửa tiếng sau đó rồi đưa
tới đây. Người bị bắt một lúc một đông, ngồi trong khoảng đất rộng phía ngoài một
căn nhà trống bằng gỗ. Chủ nhân căn nhà và miếng vườn trồng đủ loại cây ăn trái
chung quanh, không biết đã đi đâu.
Tụi bộ đội quan sát đám tù nhân, họ chỉ tay vào những người
có mang đồng hồ, bắt tháo ra đưa cho chúng. Tôi ngồi khuất phía sau nên chúng
chưa kịp thấy. Vội vàng tháo cái đồng hồ Seiko bỏ vào túi quần. Tôi biết đây chỉ
là lòng tham của các tên bộ đội canh gác, chứ không phải lệnh cấp trên của
chúng.
Đến khoảng 3 giờ chiều, tình hình chiến sự vẫn yên tĩnh. Nhiều
đơn vị bộ đội từ phía tây đi chuyển vào trung tâm thị xã, dân chúng bị lùa hướng
ngược lại. Chúng tôi, những người vừa bị bắt, được lệnh đứng lên, bị áp tải đi
theo đoàn người, bỏ lại dưới đất, ngổn ngang nhiều quả lựu đạn đủ loại. Đây là
thứ vũ khí anh em giấu trong người trên đường trốn chạy. Tôi bị dẫn đi theo
đoàn người ra vùng ngoại ô, nhà hai bên đường thưa thớt, cửa đóng im lìm vì người
dân đã bị lùa đi hết rồi. Họ dẫn chúng tôi, khoảng vài chục người, đi sâu vào
vườn cà phê Thái Quang Hoàng thì trời đã về chiều. Đến một bãi đất trống, chúng
tôi nhập vào đám người bị bắt đưa đến đây từ trước. Tất cả đều ngồi dưới đất.
Tôi gặp một ít người quen của các đơn vị đồn trú ở phía tây và tây nam thị xã,
trong đó có vài sĩ quan, họ còn mặc quân phục. Tôi chọn một chỗ trống cạnh một
anh lính tôi quen.
Anh ta đưa mắt nhìn tôi ái ngại hỏi nhỏ “Họ có biết ông là
sĩ quan không?”
Tôi trả lời “Chắc là họ biết, vì tôi bị mấy đứa nằm vùng bắt.
Nó biết tôi nên mới lôi tôi ra khi đang trên đường di tản cùng với dân chúng.”
Tôi hỏi lại anh ta, được biết địch pháo kích cháy kho đạn rồi
tấn công vào lúc trời còn tối, cầm cự được nửa tiếng rồi rút chạy, anh bị chúng
bắt dẫn đến đây.
Đám bị bắt, ngồi tụm quanh bãi cỏ khô vàng khoảng năm sáu chục
người. Có bộ đội canh gác xung quanh. Trông họ không có vẻ hận thù gì, thỉnh
thoảng nhắc nhở chúng tôi, “Ngồi yên lặng tại chỗ, không được đứng lên thay đổi
chỗ ngồi, cần gì phải gọi chúng tôi là bộ đội, không được gọi là đồng chí, vì
chúng tôi không phải đồng chí với các anh.”
Nhiều anh em lính gọi họ là đồng chí, chắc có lẽ anh em
không hiểu nghĩa đồng chí là gì, nghe Việt Cộng gọi nhau là đồng chí nên bắt
chước gọi họ như thế.
Phần tôi, giờ này đã tạm yên ổn, cái lo cũng qua vì chấp nhận
số phận như mọi người bị bắt ngồi quanh đây. Tôi bắt đầu mệt mỏi ngồi bó gối, mới
nhớ mình từ lúc bị bắt đến giờ không ăn uống gì cả. Tôi hỏi anh bạn ngồi bên cạnh
bị bắt trước tôi, xem họ có cho ăn uống gì không. Anh ta nói, “Chỉ có nước
thôi, không cho cái gì ăn cả.” Tôi than khát nước. Anh ta xin nước dùm tôi, bằng
cách đưa tay lên xin một tên lính bộ đội đứng gác. Một lúc sau có người mang nước
đến, đựng trong cái ca inox của lính mình. Tôi uống gần nửa ca, nhân tiện tôi hỏi,
“Từ sáng đến giờ không có gì ăn, các anh có cho chúng tôi ăn không?” Nhiều người
nhao nhao, giơ tay ủng hộ câu hỏi của tôi. Một tên bộ đội quát to, “Các anh ngồi
yên, không được ăn nói linh tinh. Chúng tôi sẽ lo cái ăn cho các anh, khi nào
có sẽ báo.”
Tôi hơi ngờ ngợ với cái từ linh tinh. Chữ “linh tinh” thường
dùng trong giấy tờ, có cột để là linh tinh, dùng để bỏ những thứ không thể bỏ
vào các cột có tên. Còn ở đây họ dùng chữ linh tinh, là tiếng Hán Việt thay cho
chữ lung tung thuần Việt. Đến chiều, mặt trời đã khuất lấp dưới hàng cây cà
phê, chúng tôi được lệnh đứng dậy, xếp hàng một, thứ tự mỗi người được phát hai
miếng lương khô lấy trong một gói 4 miếng có bao bì bằng giấy nhựa ngoài in tiếng
Tàu. Mỗi miếng to bằng ba ngón tay chụm lại, màu nâu nhạt, hình như bằng bột
ngũ cốc được ép lại thành bánh, có lẽ nhiều nhất là bột đậu phụng vì sặc mùi
này. Từ sáng đến giờ chưa có gì bỏ bụng, nhưng tâm trí đầy lo âu nên ăn không
ngon lành gì.
Ăn xong, có hai thùng nước đặt bên bãi cỏ với cái ca để sẵn.
Mọi người tự động đến uống rồi trở lại chỗ cũ, bộ đội gờm súng AK đứng chung
quanh. Trời nhá nhem tối, chúng tôi ngủ tại chỗ trên bãi đất trống này. Không
được đi lại, nói chuyện, giữ yên lặng, nếu buồn tiểu tiện phải giơ tay lên hô lớn,
“Báo cáo bộ đội xin đi giải, hoặc đi xí, rồi từng người các anh sẽ được dẫn ra
ngoài.” Lệnh vừa phát ra, có lẽ phải nín nhịn, hoặc vì lo âu nên không nhớ, cả
bọn nhao nhao giơ tay xin đi.
Đám người bị bắt, ngủ qua đêm trên bãi đất trống, không mền
chiếu gì cả dưới sự canh gác cẩn mật của bộ đội. Trời mờ sáng, mọi người
đã dậy, quần áo lấm lem bụi đỏ và cỏ khô, thì thầm bàn tán không biết họ đưa
mình đi đâu. Nhìn quanh không có nước để xúc miệng hay rửa mặt gì cả. Có thùng
nước và cái ca sắt còn đó nhưng lệnh chỉ được uống, cấm rửa mặt, súc miệng. Thấy
miệng khô, tôi đứng lên xếp hàng lấy nước, xúc miệng rồi nuốt vào. Đó là cách
xúc miệng không trái lệnh.
Trở về chỗ ngồi trên mặt đất đỏ, nghe bụng cồn cào vì đói,
tôi hỏi nhỏ mấy anh em ngồi cạnh như tự hỏi mình, “Liệu họ có cho mình ăn
không, rồi dẫn đi đâu?” Tôi định hỏi mấy tên bộ đội đứng gác nhưng họ cấm
không được tiếp xúc với bộ đội và phải cách xa người gác 15 mét.
Thấy có người hút thuốc, họ không cấm. Từ lúc bị bắt tới giờ
vì lu bu nên không cảm thấy thèm, giờ ngửi thấy mùi thuốc nhắc cơn nghiện trỗi
dậy. Tôi mò hai túi quần, thấy gói ruby quân tiếp vụ bẹp dúm và cái đồng hồ giấu
ngày hôm qua còn đó. Nhìn quanh, ở đây cũng có nhiều người đeo đồng hồ mà không
bị tịch thu. Tôi lấy đồng hồ đeo vào cổ tay, sợ bỏ túi sẽ rơi mất. Lấy gói thuốc,
tôi mời anh ngồi bên cạnh, anh này từ chối vì không biết hút. Hút hết điếu thuốc,
tôi thấy choáng váng như bị say.
Trời đã sáng hẳn, chúng tôi được lệnh xếp hàng một. Họ lấy
dây điện thoại cột vào cổ tay phải mỗi người thành một chuỗi dài khoảng hai chục
người một dây. Chúng tôi qua hết đồn điền cà phê đi về hướng tây. Đi một lúc chợt
nghe tiếng phản lực A-37, hai chiếc nhào lượn tít trên trời cao, phòng không bắn
lên tua tủa từ dưới đất. Dù máy bay lượn trên đầu, họ vẫn đi khơi khơi xem như
không. Chúng tôi chỉ sợ máy bay ném bom vào chỗ mình mà tụi bộ đội không ra lệnh
cho ẩn núp gì cả, nên cũng mặc kệ. Hai chiếc máy bay nhào lượn một hồi, trút
bom về hướng thị xã rồi biến mất.
Tiếp tục, họ dắt chúng tôi vào khu rừng thưa, dẫn đi loanh
quanh, đổi hướng liên tục, mục đích làm chúng tôi mất phương hướng, nếu trốn chạy
cũng không biết hướng nào mà đi. Đôi khi hối thúc "khẩn trương
lên!!!." Ban đầu tưởng là có chuyện gì nghiêm trọng lắm, dần dà mới biết
chữ "khẩn trương" ở đây chỉ là đi nhanh lên.
Lúc này, cổ tay tôi bị rộp đỏ vì cái vòng dây điện thoại cọ
vào làm rát và khó chịu. Tôi thử lấy tay còn lại nới rộng ra một ít, thấy rút
tay ra được, hóa ra họ chỉ muốn chúng tôi nối nhau đi theo hàng cho dễ kiểm
soát. Thoát tay ra khỏi cái vòng, tôi cho bàn tay vào trong còn ngón cái ở
ngoài nắm giữ cái vòng để che mắt tụi bộ đội áp tải. Đi khoảng quá trưa, có một
đoàn tù binh khác toàn mặc đồ lính, chắc là đơn vị nào của ta trên đường rút chạy
bị chúng bắt. Đoàn này cũng bị cột dây nhập vào đoàn chúng tôi tổng cộng chừng
hơn trăm người.
Quá trưa, đến một trảng rừng thưa ngang qua bãi đất trống dưới
những tán cây to. Đây là khu tiền trạm hậu cần của một đơn vị nào đó của chúng,
có đồ đạc và mấy cái bàn làm bằng gỗ thùng đạn Trung Cộng. Tất cả phải ngồi xuống
bãi đất, xếp theo hàng để họ đếm số người, giữ trật tự, không được nói chuyện
gây ồn ào. Sau đó, họ phát một phong lương khô Trung Cộng, trong đó có bốn miếng
cho mỗi người. Từ hôm qua chỉ được phát hai miếng lương khô, sáng đến giờ đi mệt
lả vì đói. Bốn miếng lương khô này thì thấm vào đâu?
Tôi hỏi một tên bộ đội, xin thêm một phong nữa vì quá đói. Hắn
trả lời cụt ngủn, “Chỉ thế thôi.” Tôi ăn hai miếng, cất số còn lại để dành đến
tối. Bánh khô ăn vào uống nước nó nở ra, tạo cảm giác bớt đói. Xong việc ăn uống,
họ thông báo từng người sẽ được gọi lên khai báo lý lịch để thanh lọc thành phần.
“Các anh phải thành thật khai báo. Nếu chúng tôi phát hiện
khai gian, sẽ bị trừng phạt đích đáng,” một tên bộ đội đeo súng ngắn, vắt chéo
qua vai cái túi "dết" (musette) vuông bằng vải, có vẻ là cấp chỉ
huy, hăm dọa cả bọn.
Từng người được gọi lên chỗ hai cái bàn làm bằng gỗ thùng đạn.
Có hai tên bộ đội nón cối, mỗi người một quyển sổ to bản, giấy có kẻ hàng, bút
máy Trung Cộng, có ống cao su chứa mực bên trong, viết hết mực lại tháo ra bơm.
Mực được hút từ cái bình để bên cạnh.
Những người còn mặc quân phục, hoặc một nửa quần áo lính, là
tự tố cáo mình là lính. Chúng chỉ khai tên tuổi, đơn vị, cấp bậc, số quân, nếu
là sĩ quan thì khai thêm chức vụ và bị bắt ở đâu.
Những người mặc thường phục, nếu không khai là lính hay là
viên chức chính quyền, sẽ được dẫn đứng trước đám người bị bắt. Chúng đọc to
tên tuổi, nghề nghiệp theo lời khai và hỏi có ai biết người này có điều gì gian
dối, buộc phải tố cáo.
Kiểu này giống như nhà thờ rao hôn phối, “Ai biết đôi này có
trắc trở, buộc phải trình.”
Có một người mặc thường phục được dẫn ra. Tôi biết anh này
là Trung sĩ, vài lần được biệt phái cho Quân Trấn trong trung đội ứng chiến hằng
đêm.
Người bộ đội dẫn anh ra nói lớn cho chúng tôi nghe, “Anh này
khai là giáo viên tiểu học, có đúng không? Có ai biết anh này không?”
Mọi người vẫn yên lặng. Hỏi hai ba lần, vẫn không ai trả lời.
Anh ta được dẫn ra riêng một chỗ. Về sau không thấy anh ta trong đám chúng tôi
nữa.
Rồi cũng đến lượt tôi bị gọi lên. Tôi biết là tôi bị tụi nằm
vùng bắt. Chắc chắn chúng biết tôi là ai nên mới giải giao cho đám bộ đội. Vả lại,
thị xã này rất nhiều người biết tôi nên không thể giấu được.
Tôi được mời ngồi vào cái ghế thấp, như ghế đẩu, đặt trước
người bộ đội ngồi ở bàn. Anh ta nói, “Anh thành thật khai báo, với chính sách
khoan hồng của Đảng và Nhà nước dù anh là ai, cũng được đối xử nhân đạo.”
Anh ta hỏi tiếp, “Tên họ đầy đủ của anh, là Ngụy Quân hay Ngụy
Quyền, đơn vị của anh?”
Tôi thừa biết, nhưng cũng hỏi lại anh ta, “Xin anh cho biết
Ngụy Quân, Ngụy Quyền là gì ạ?”
“Anh thật sự không biết? Là những người đi lính, làm việc
cho chính quyền tay sai Sài Gòn,” hắn trả lời tôi.
“Tên họ Nguyễn Sỹ. Cấp bậc Trung Úy, đơn vị Quân Trấn Ban Mê
Thuột,” tôi khai.
Hắn đánh số, viết những lời khai của tôi vào sổ, nét chữ
ngay ngắn gọn gàng, tương đối đẹp.
“Chức vụ của anh?”
“Sĩ Quan Điều Hành.”
“Thế đơn vị Quân Trấn của anh làm gì?”
“Giám sát việc phòng thủ các đơn vị trấn đóng trong thị xã.”
Thật ra tôi chỉ khai cái việc ít hại nhất trong nhiều công việc mà Quân Trấn đảm
nhiệm. Hắn ghi chép xong rồi cho tôi về ngồi vào đám người được phân loại là sĩ
quan.
Đến xế chiều ngày 11 tháng 3, việc khai báo đã xong. Một số
người mặc quần áo dân sự bị áp tải dẫn đi, có lẽ họ giao cho ban quân quản để
tiếp tục thanh lọc. Số người còn lại được chúng gọi là tù hàng binh.
Họ tăng cường thêm bộ đội canh giữ đám tù hàng binh, ngủ qua
đêm tại đây, nằm sắp lớp trên bãi cỏ. May mà trời mùa này không lạnh lắm, thỉnh
thoảng có ánh đèn pin quét qua quét lại để kiểm soát.
Trời gần sáng, có một số anh em giơ tay xin đi tiểu tiện. Họ
bảo phải chờ trời sáng hẳn.
Đến tám giờ sáng ngày 12 tháng 3, chúng tôi được phát mỗi
người hai bánh lương khô, ăn để chuẩn bị “hành quân.” Đám chúng tôi, khoảng 6,7
chục người, bị dẫn đi theo hàng một, bộ đội súng ống đi kè hai bên, xuyên qua rừng
về hướng tây, tây bắc.
Quá trưa, đến một khu vực hậu cần khác, có vẻ lớn hơn khu
trước. Thấy có chiếc xe bốn bánh nhỏ hơn xe Dodge của quân đội mình, có để chữ
Tàu, “中华人民共和国” (Trung Hoa Nhân Dân Cộng
Hòa Quốc), đậu cạnh cái lều vải nhỏ cùng một số đồ đạc quân dụng.
Thế mới biết, Tàu Cộng cung cấp cho Bắc Việt tất cả lương thực
và quân dụng.
Chúng tôi được dẫn vào khu vực có nhiều người bị bắt đưa đến
đây trước, quây quanh bởi những cành tre gai làm ranh giới. Chúng tôi được bàn
giao cho đơn vị mới, thông báo những nội quy đại loại như:
Không được đi ra khỏi vòng rào, nếu tiểu tiện phải giơ tay
xin phép từng toán 10 người sẽ được vệ binh dẫn ra ngoài, cấm không được giao
tiếp, giữ cự ly ít nhất là 10 mét với vệ binh, im lặng không được đi lại mất trật
tự, tất cả tuyệt đối tuân thủ lênh của vệ binh và cán bộ vân vân…
Vào bên trong khu vực giữ sĩ quan, cái đầu tiên đập vào mắt
tôi là ba cái chòi vuông dựng cách nhau ở giữa bãi trống. Mỗi cái được dựng bằng
bốn cây tre làm cột, mái tranh lưa thưa chỉ đủ che nắng. Vật liệu làm còn tươi
nguyên, cả tre lẫn mái tranh. Không có vách ngăn, nhìn trống trơn.
Trong mỗi chòi có băng ghế bằng tre được buộc bằng dây rừng
đặt chung quanh, chừa một lối cửa ra vào. Dù các chòi tre nằm trong rào, nhưng
mỗi chòi đều được quây riêng bằng dây thừng để tách biệt những tù binh ở ngoài,
và có vệ binh đứng gác riêng. Nhìn vào trong, một chòi dành cho hai người nước
ngoài mặc quân phục, là nhân viên ủy ban quốc tế bốn bên kiểm soát ngưng bắn.
Hai người này mặc quân phục Indonesia, họ đi qua đi lại, có vẻ bực tức. (Sau
đó, đến chiều, họ được đưa lên xe, chở đi nơi khác, có lẽ được thả.)
Một chòi nữa là mấy người nước ngoài, khoảng 7, 8 người,
trong đó có đứa bé gái độ 5 hay 6 tuổi. Chòi thứ ba còn lại là ba ông đại tá, gồm
Đại Tá Tỉnh Trưởng Đác Lắc Nguyễn Trọng Luật, Đại Tá Tư Lệnh Phó Sư Đoàn 23 Vũ
Thế Quang, và một ông Đại Tá của tổ chức người Thượng Fulro (viết tắt của tiếng
Pháp: Front Uni de Lutte des Races Opprimées).
Tôi đi quanh, kiếm một chỗ gần hàng rào có bóng của bụi tre
gai rất to, gốc nằm ngoài rào. Chỗ này hơi trống, có lẽ vì có tên vệ binh đứng
gác ở cạnh gốc tre nên ít ai muốn gần.
Tôi dọn sạch cành, lá tre làm chỗ nằm cho mình. Tên vệ binh
đứng ngoài rào, lầm lì quan sát mọi cử chỉ của tôi, mặc kệ nó, tôi chẳng quan
tâm.
Sau khi ổn định chỗ, tôi lần mò kiếm mấy người quen, họ đã
vào trước tôi, để hỏi tình hình bên ngoài và sinh hoạt nơi đây. Loanh quanh
không thấy ai ở đơn vị mình bị bắt, cả những đơn vị đồn trú gần tôi như đại đội
quân cảnh, biệt đội Nha Kỹ Thuật, Ty An Ninh Quân Đội, Tiểu Khu, Ty Cảnh Sát,
vân vân…
Nói chung là các đơn vị đóng ở phía đông bắc thị xã. Sau
này, tên trung tá chính ủy cho chúng tôi biết là họ rút kinh nghiệm đánh Kontum
năm 1972, khi bao vây chặt, cắt đường quốc lộ 14 từ Kontum về Pleiku, lối thoát
duy nhất, các đơn vị Việt Nam Cộng Hòa như bị dồn vào chân tường, không lối
thoát nên chống cự quyết liệt. Họ đã thất bại, không chiếm được Kontum. Lần
này, họ bỏ trống đường từ Ban Mê Thuột về Nha Trang, để các đơn vị mình có đường
rút chạy. Nên họ chiếm Ban Mê Thuột dễ dàng, hầu như không có kháng cự đáng kể.
Trở lại, tôi nhớ tới Đại Tá Luật, nên đến cái chòi ba ông đại
tá, vào hỏi thăm ông Tỉnh Trưởng là xếp lớn của tôi. Ông là Quân Trấn ủy nhiệm,
nên thường phải gặp ông để báo cáo tình hình an ninh trong thị xã.
Tôi chào và hỏi, “Đại Tá có khỏe không?”
Ông chưa kịp trả lời thì bị một tiếng quát của tên vệ binh,
có lẽ lúc tôi bước vào nó không thấy, “Bây giờ còn đại tá cái gì, ai cho phép
anh vào đây? Đi ra ngay.”
Hắn hất mũi súng AK về phía tôi, ra dấu ra ngoài. Tôi vội vã
bước ra, dưới sự ái ngại của các ông Đại Tá.
Tôi về lại chỗ lúc nãy đã dọn chỗ nằm cho mình, nghĩ miên
man về Đại Tá Luật. Ông từng là Tư Lệnh Thiết Giáp của Quân Đoàn 1, là người
hùng trong trận Hạ Lào, Tỉnh Trưởng Đắc Lắc, Quân Trấn Ủy Nhiệm. Trông ông oai
phong lẫm liệt trong bộ quân phục mỗi khi tôi gặp, nay ngồi lặng lẽ, buồn rầu
trong căn chòi như cái chuồng được vây bởi sợi dây thừng.
Ôi, đời vô thường, nay lưng trời lẫm liệt, mai vực thẳm tù đầy!
Chúng tôi được cho ăn ngày hai bữa, mỗi bữa hai miếng lương
khô, chịu đựng cái đói triền miên. Bụng lúc nào cũng cồn cào réo gọi, đầu thì
mơ tưởng cái ăn. Có lẽ họ cố cho ăn đói để chúng tôi không còn sức chạy trốn,
và làm nhụt khí đấu tranh với họ. Tôi lại liên tưởng đến người Thượng, thuần
hóa voi rừng, bằng cách kè nó xuống cái hố to để nó không lên được, hàng ngày
cho ăn đói, huấn luyện dần dà là khuất phục được nó.
Ngày thứ hai, cũng buổi sáng ồn ào giơ tay xin đi tiểu tiện,
xếp hàng, một vệ binh dẫn chúng tôi, 10 người, ra bãi trống phía xa ngoài rào.
Mùi hôi thối của phân và nước tiểu xông lên nồng nặc. Loáng thoáng những lùm
cây thấp, nên vệ binh vẫn nhìn thấy chúng tôi khi ngồi đi vệ sinh hoặc đứng đi
tiểu tiện. Không có giấy, lấy lá hoặc tiền để chùi. Đây là lần đầu tiên tôi đi
đại tiện sau ba ngày bị bắt, vì có ăn được mấy đâu mà thải ra.
Đến chiều, sau khi nhận hai miếng lương khô như thường lệ,
đi loanh quanh rồi trở về chỗ của mình. Tên bộ đội vệ binh, mặt còn non choẹt,
chắc chừng 17, 18 tuổi, vẫn đứng gác dưới gốc tre gần chỗ tôi. Thấy hắn hút thuốc.
Đánh động cơn thèm, tôi lân la lại gần sát hàng rào định hỏi xin thuốc hút thì
bị hắn quát, “Anh kia, lùi xa ra, không được lại gần tôi.”
Hàng rào tạm bợ, chỉ là những cành tre gai vất chồng lên
nhau đến thắt lưng làm giới hạn. Thấy nét mặt hắn không tỏ thái độ nghiêm trọng
lắm, tôi lùi ra một chút để chứng tỏ nghe theo lệnh rồi hỏi hắn xin điếu thuốc.
Chần chừ một lúc, chắc để suy nghĩ, hắn lấy trong túi áo gói thuốc quân tiếp vụ,
chắc lấy ở cửa hàng nào đó khi chiếm thị xã. Nhìn quanh xem có ai không rồi
quăng cho tôi một điếu.
Thấy không ai để ý về việc tôi xin thuốc, tôi cũng làm bộ
nhìn quanh rồi tiến tới cúi nhặt điếu thuốc hắn vừa quăng nằm trên đám lá tre
khô. Có lẽ hắn cố tình vất vào đây để có đống lá khô ngụy trang cho điếu thuốc.
Tôi khẽ cảm ơn, vừa đủ để hắn nghe rồi lùi về chỗ nằm. Đặt lưng xuống, tôi nghĩ
về tên vệ binh cho điếu thuốc. Hắn trông có vẻ hiền lành, không thấy nét hận
thù trên khuôn mặt. Tôi nghĩ, nếu mình kín đáo, chắc có thể xin hắn được nhiều
lần.
Ngày qua ngày. Lâu lâu lại có thêm toán tù binh mới được dẫn
vào, bãi trống ngày càng đông, có lẽ lên tới cả mấy trăm. Sinh hoạt vẫn như thế,
hai lần phát lương khô, hai miếng mỗi lần. Đói vẫn hoàn đói, loanh quanh trong
cái vòng rào.
Tôi cố xua đi lo âu vì cũng chẳng giải quyết được gì. Mấy lần
bàn bạc với đám bạn quen để kiếm đường trốn nhưng thấy khó, vì chung quanh chỗ
này là trảng trống, bộ đội canh gác rất đông. Ban đêm, cảnh vệ có đèn pin thỉnh
thoảng quét qua quét lại canh chừng. Phần nữa đói quá, không có sức đi xa được.
Ở đây chỉ là chỗ tạm, điểm tập trung chính tù binh bắt được từ mọi nơi. Không
có đếm, điểm danh hàng ngày, tên tuổi tù binh đã được ghi chép lúc bị bắt trước
khi dẫn vào đây. Chiều xuống, sau khi xếp hàng nhận hai miếng lương khô, tôi trở
lại chỗ nghỉ. Tên vệ binh cho tôi điếu thuốc vẫn đứng gác dưới gốc tre như thường
lệ. Tôi định lân la lại gần để xin thuốc thì bị hắn ra dấu đuổi tôi.
Một lúc sau, thấy chung quanh vắng vẻ, hắn ném viên đất, tay
ra dấu bảo tôi lại gần hàng rào rồi ngồi xuống. Quăng cho tôi điếu thuốc, hỏi:
- Anh
là người Bắc Bộ?
- Sao
anh biết?
- Tôi
nghe giọng nói của anh, đoán thế.
-
Đúng, tôi sinh đẻ ngoài ấy, di cư vào Nam lúc còn bé.
- Anh
biết quê ở đâu không?
- Thái
Bình.
- Thái
Bình, ở chỗ nào?
Tôi mơ màng thời thơ ấu, thường theo người nhà ra bến đò
ngang bên bờ đê ngoài (gọi là đê quai), đón mẹ tôi đi chợ Nam Định trở về, nên
trả lời:
- Tôi
chỉ biết, quê tôi bên này bờ sông Hồng bên kia là Thành Phố Nam Định.
- À,
thế là anh đồng hương Thái Bình với tôi đấy, nhưng quê tôi ở chỗ khác.
Từ khi bị bắt tới nay, qua nhiều lần tiếp xúc, tôi biết phần
lớn bộ đội là dân nhà quê, hình như chỉ quanh quẩn trong lũy tre làng, nên ngây
ngô nhiều thứ. Tên vệ binh này cũng thế. Lâu ngày ở trong rừng, bất chấp lệnh cấm,
lén lút bắt chuyện để tìm hiểu người ở trong Nam ra sao thôi. Tôi với hắn hai bờ
chiến tuyến thì đồng hương có nghĩa lý gì.
Tôi không lạ gì đám bộ đội Bắc Việt. Trước đây, còn ở đơn vị
tác chiến, tôi làm trưởng ban Ba tiểu đoàn. Đầu năm 1973, khi hiệp định Paris bắt
đầu có hiệu lực, đơn vị tôi giáp mặt với một đơn vị Việt Cộng. Tôi là người được
chỉ định thay mặt tiểu đoàn ra thương lượng với địch để phân định ranh giới chiếm
giữ mỗi bên. Tôi cũng được đám bộ đội hỏi thăm như thế, những giọng điệu rập
khuôn, mang tính tuyên truyền hơn là tình cảm thông thường. Cũng là, “Miền Bắc
anh quê ở đâu? Anh có gia đình riêng chưa? Bố mẹ anh còn sống không? Cho tôi gửi
lời hỏi thăm,” vân vân... Mới đầu, tôi tưởng họ hỏi thăm thật nên cảm động,
nhưng về sau thấy tên bộ đội nào cũng hỏi tôi những câu tương tự, nên biết họ
được dạy như thế với ý đồ phản bác tuyên truyền của mình, nói Cộng Sản tam vô.
Hắn lại hỏi tiếp:
- Anh
có đói không? Tôi nghĩ chắc tên này hỏi thật nên trả lời ngay:
- Một
ngày 4 miếng lương khô nhỏ xíu, đói quá!
Hắn ngần ngừ một chút rồi nhỏ giọng:
- Mai
tôi không còn ở đây, trước khi đi, tôi sẽ kiếm cho anh một ít gì đó. Anh còn tiền
Saigòn không cho tôi, tiền này vẫn tiêu được.
- Tôi
lấy chùi đít hết rồi, ở ngoài bãi xí thấy bay nhiều lắm, anh ra đấy tìm chắc có
nhiều.
- Chẳng
còn, hắn trả lời.
Hắn quăng cho tôi gói thuốc hút dở, rồi vội vàng lui lại bụi
tre. Tôi nghĩ tên này chắc có tình “đồng hương” thật, nên mới quăng cho tôi cả
gói thuốc dở trong khi tôi không hỏi xin. Tôi vơ vội gói thuốc, lấm lét lui về
sau chỗ mấy người bạn. Hẳn là họ đã biết tôi có gói thuốc nên nhao nhao hỏi
xin. Tôi xé gói thuốc, cất cái vỏ vào túi để dùng cho việc đại tiện, hào phóng
chia cho mỗi người một điếu, chỉ giữ cho mình hai điếu. Mấy thằng bạn tỏ ra
thán phục cái tài “ngoại giao” kiếm thuốc của tôi.
Rồi lại một ngày như mọi ngày. Ban đêm, chúng tôi phải nằm tập
trung gọn lại, nằm sát bên nhau, chia làm hai nhóm: sĩ quan riêng một bên và hạ
sĩ quan trở xuống thành nhóm khác. Mấy người nước ngoài và ba ông đại tá, vẫn ở
hai cái chòi, được đối đãi tốt hơn chúng tôi, hai bữa cơm với chút thịt hộp mỗi
ngày.
Sáng hôm sau, trời chưa sáng hẳn, có ánh đèn pin quét qua
quét lại, một tên bộ đội tiến lại gần chỗ tôi nằm, đá nhẹ vào chân, khom người
nhẹ nhàng móc trong bụng áo ra mấy phong lương khô và gói thuốc, đổ ngay vào chỗ
tôi nằm rồi vội vàng bước nhanh trong sự ngỡ ngàng của mấy thằng bạn nằm bên cạnh,
một thằng nói đùa,” Mẹ, mấy thằng Bắc Kỳ đít rau muống nên đi đâu chúng nó cũng
nhận ra nhau.” Tôi cười, ngầm chia cho mỗi đứa một miếng lương khô và điếu thuốc,
tôi chỉ giữ lại hai miếng và vài điếu thuốc, tuy đói nhưng tôi cũng “hào phóng”
vì là của trời cho. Tôi thầm cám ơn tên bộ đội cảnh vệ, cử chỉ của hắn đã gây
cho tôi ít thiện cảm, một miếng khi đói bằng gói khi no mà.
Ngày hôm đó, một số sĩ quan tù binh không quân, bị gọi lên
tra khảo, bắt vẽ bản đồ về phòng thủ của phi trường Nha Trang. Như thế cũng
đoán biết là họ sẽ tiến đánh Nha Trang, trước hết là chiếm phi trường, khống chế
không quân. Cũng như ở Ban Mê Thuột, họ đánh chiếm phi trường L19 trước tiên. Đến
chiều, thấy bộ đội lăng xăng dọn dẹp gọn gàng đồ đạc hậu cần, mang đi đâu một số,
nên tôi đoán là sẽ bị di chuyển đi nay mai thôi.
Thế là sáng hôm sau, hơn ba ngày bị giữ ở đây, chúng tôi mỗi
người được phát một phong lương khô gồm bốn miếng, giầy dép bị cắt bỏ phía bọc
gót, hoặc quai sau, thành đôi dép để không chạy nhanh được. Bắt đầu di chuyển
theo thứ tự hàng một, bộ đội đi kèm hai bên, có một số người có túi sách đồ đạc
cá nhân, còn lại đa số tay không. Riêng các vị đại tá, và tất cả người nước
ngoài được chở bằng xe. Những người nước ngoài này, tôi biết duy nhất có ông đại
diện lãnh sự quán Mỹ tại Nha Trang kiêm trưởng phái bộ cơ quan USAID là Paul
Struharick, tôi thường gặp mỗi khi qua tiểu khu họp tham mưu. Ông ta đóng vai
trò cố vấn và giám sát hoạt động của chính quyền tỉnh. Những người khác là (sau
này tôi mới biết) vợ chồng nhà truyền giáo Miller và đứa con gái của họ là
Luanne khoảng 6 tuổi, bà Betty J. Mitchell, nhà truyền giáo Tin Lành, vợ chồng
nhà truyền giáo Richard Phillips, dịch kinh thánh Tin Lành ra tiếng thượng Bru,
Peter Whitlock phóng viên người Úc. Một người nữa là Jay Scraborough nhà nghiên
cứu về văn hóa Chàm. Hầu hết những người ngoại quốc đó đều nói được tiếng Việt
(trừ Paul), đặc biệt là Jay. Sở dĩ tôi biết rõ họ là vì sau này có thời gian
tôi ở chung lán, nằm gần họ trong trại giam. Sau hơn hai tháng bị giữ với chúng
tôi, họ bị dẫn ra Hà Nội và được thả vào ngày 30 tháng 10 năm 1975.
Đoàn tù binh bị dẫn đi dưới sự canh chừng của đám bộ đội áp
tải. “Khẩn trương, khẩn trương lên,” chúng la mắng, xô đẩy những người đi chậm,
chúng tôi dần dà cũng quen và hiểu những từ ngữ của tụi bộ đội như: Linh tinh,
đảm bảo, thu dung, quán triệt, cự ly, tiếp thu, quản lý, vân vân… Tôi cố gắng
theo bước chân người đi trước để tránh bị đứt quãng, vừa đi vừa tự hỏi và tự trả
lời về đám Cộng Sản Bắc Việt, cho quên đi thời gian. Tại sao họ hay dùng tiếng
Hán Việt, thay vì tiếng thuần Việt? Có lẽ vì Bắc Việt lệ thuộc vào Tầu rất nhiều
thứ, từ tư tưởng đến vật chất, hầu hết những thực phẩm, thùng đạn, xe tải quân
dụng họ dùng đều đề chữ Tầu. Quân đội chúng nó chỉ đi dép lốp xe, không nón sắt,
áo giáp như mình, sao nó vẫn đánh được mình? vân vân... Tôi cứ tự hỏi tại
sao rồi lại tại sao, rôi lại tự trả lời cho thời gian trôi nhanh.
Đoàn người vượt rừng băng suối vừa đi vừa nghỉ, với cái bụng
đói meo, chỉ có bốn miếng lương khô, uống nước suối, lê lết từ sáng sớm đến chiều
cũng tới nơi. Theo kinh nghiệm hành quân của tôi, chắc đi được khoảng 15 cây số.
Đây là một lán trại năm bên bờ một con suối lớn với nhiều dãy nhà dài lợp
tranh, nằm ẩn mình dưới những tàn cây to, vây chung quanh một lớp rào đan bằng
tre, trong khu đất chừng nửa mẫu tây. Chúng tôi bị lùa vào trong, xếp hàng năm,
họ đếm đi đếm lại xem có mất người nào không, rất may không có ai trốn nên thủ
tục “nhập trại” mau chóng. Sau khi đọc 10 điều nội quy, dặn dò tuyệt đối tuân
thủ mệnh lệnh của cán bộ, và vệ binh, trốn trại sẽ bị tử hình, chỉ được xưng hô
với nhau bằng anh và tôi, kể cả đối với cán bộ trại và vệ binh, vân vân…Chúng
tôi được phân chia, sĩ quan từ chuẩn úy đến trung úy vào một khối, từ đại úy đến
trung tá vào một khối ở chung một dãy nhà, còn lại hạ sĩ quan đến binh sĩ số
đông nhất ở hai dãy nhà riêng. Nhà lán là một căn nhà dài, khoảng vài chục mét,
mái tranh vách đan bằng thanh tre, lỗ hình mắt cáo để dễ dàng nhìn xuyên qua
vách từ ngoài vào trong và ngược lại. Giường nằm được kê cao 6 tấc, vạt giường
làm bằng thân tre bổ đôi đập dẹp dài chừng 1 mét 8 xếp liền nhau chạy dài hai
bên dọc theo vách, chừa một lối đi ở giữa rộng khoảng một mét. Lán trại này
trông còn rất mới, có lẽ nó được hoàn tất trước đây vài ngày, được xây dựng bởi
tụi bộ đội trông coi đám tù binh vài chục người bị bắt từ trước không biết tự
bao giờ mà lúc mới vào tôi thấy họ sinh hoạt ngoài hàng rào khu của chúng tôi.
Đội tù được chia thành từng tổ 10 người, cũng là tổ ăn cơm, chia nhau chỗ nằm
trong căn lán được chỉ định cho sĩ quan tổng cộng hơn 80 người. Vì đơn vị của
tôi không có ai bị bắt vào đây, nên tôi nhập vào nhóm của đám không quân, đài
kiểm báo ra đa và vài anh em nữa thuộc đơn vị yểm trợ mà tôi đã biết họ từ trước
thành một tổ 10 người.
Sau khi ổn định chỗ nằm, họ đánh kẻng bằng vỏ đạn 105 ly, tập
trung chúng tôi phát mỗi người một cái chén (bát) bằng sắt tráng men trắng bên
trong, bên ngoài chén sơn mầu xanh cứt ngựa, chén này cũng do Tầu Cộng làm và một
đôi đũa tre. Chúng tôi, tổ 10 người được đánh số thứ tự, mỗi tổ cử một người
vào nhà bếp lãnh cơm, cơm này được nấu bởi nhóm tù binh, bọn bộ đội gọi là ”anh
nuôi”, bị bắt trước chúng tôi. Cơm lãnh về đựng trong một cái rá đan bằng tre,
và cái gọi là canh đựng trong tô sắt tráng men to (hai vật dụng này của nhà bếp),
tổ trưởng phân chia cơm bằng đôi đũa tre có bản lớn bằng hai ngón tay, người miền
bắc gọi là đũa cả. Cơm mầu vàng nhạt lẫn mùi mốc được chia cẩn thận, đồng đều,
mỗi người chỉ được một bát đầy vun lên, cán bộ nói là tiêu chuẩn mỗi người được
ba lạng (300 gram) cơm mỗi ngày. Ngày hai bữa, canh chỉ là nước muối, nấu
với quả sung rừng, cộng hai hộp thịt Trung Cộng, mỗi hộp 500 gram cho cả ngàn
người mỗi bữa. Đây là bữa cơm đầu tiên từ ngày bị bắt, bốc mùi gạo mốc. 10 thằng
tù dùng đũa xêu cẩn trọng từng miếng, nhai chậm rãi, cố gắng tận hưởng từng hạt
cơm, không màng đến vị chua mốc của nó. Một chén cơm đầy chẳng thấm thía gì với
cái dạ dầy đói góp mấy ngày nay, nhưng bữa cơm đầu tiên này để lại cho tôi một ấn
tượng đậm sâu cho mãi đến ngày nay. Đến chiều tối, được phát mỗi người một cái
võng không giây, đây là miếng vải nylon dầy chiều dài 2 mét rộng 6 tấc để trải
nằm hoặc đắp, võng này có lẽ họ lấy trong các kho của quân đội mình ở Ban Mê
Thuột. Đêm xuống sau tiếng kẻng báo hiệu, tất cả vào nhà, tuyệt đối không ai được
ra ngoài, ban đêm nếu đi tiểu có hai ống thuốc bồi đạn 105 ly đặt ở hai góc
nhà, còn đại tiện phải cố nhịn chờ đến sáng, nếu ai không nhịn được phải ra trước
cửa nhà lán, hô to, “Báo cáo bộ đội tôi xin đi xí.” Hô đến khi nào có bộ đội đến
dẫn đi.
Tối nay, ai cũng mệt nhừ vì chuyến đi xuyên rừng vừa rồi,
hai người nằm bên đã chìm sâu vào giấc ngủ, nhưng tôi không ngủ được, suy nghĩ
lung tung, mỏi mệt nhìn ngọn đèn dầu treo lơ lửng trên xà ngang giữa nhà, chiếu
cái ánh sáng lờ mờ chỉ đủ xua đi một ít bóng tối chung quanh, trông như ngọn hải
đăng soi cho lối đi giữa hai hàng sạp ngủ. Ngọn đèn dầu này là một sáng tạo được
làm bằng lon hộp thịt, đục lỗ giữa đặt cái tim đèn, bóng đèn bằng chai thủy
tinh tròn 75 centi lít, cắt ngang cụt phần đầu và đít chai, úp vừa vặn lên mặt
hộp, nó được giữ chặt bởi mấy sợi giây kẽm chạy dọc từ miệng chai đến chân hộp,
một cái quai vòng phía trên để treo.
Tôi thiếp đi lúc nào cũng không hay cho đến khi tiếng kẻng
đánh thức dậy tập thể dục lúc 6 giờ sáng. Mọi người được lệnh ngồi yên tại
chỗ, bắt đầu hô to đếm số theo thứ tự cho đến hết, căn cứ vào số đếm cuối cùng
họ biết đám tù binh còn đủ hay thiếu. Sau khi điểm danh, lán sĩ quan chúng tôi
được “lùa” ra sân trước, xếp thành năm hàng ngang có một cán bộ trại hướng dẫn
tập thể dục. Đây là buổi tập thể dục đầu tiên, nên ngỡ ngàng và hơi lộn xộn lúc
đầu, thời gian tập khoảng nửa tiếng, cũng chỉ là vung chân vung tay, đứng lên
ngồi xuống cho dãn gân cốt. Sau đó họ đọc lại mười điều nội quy, cảnh cáo những
ai có tư tưởng bỏ trốn hoặc chống lại họ, sẽ bị hình phạt nghiêm khắc, và nhắc
lại chúng tôi không được xưng hô với nhau bằng cấp bậc, bằng ông, bằng cha, con
đối với mấy người tuyên úy (trong chúng tôi có một linh mục tuyên úy) và chỉ có
anh và tôi. Tôi đoán lệnh này là để ngăn ngừa chúng tôi giữ lại tổ chức quân đội,
gây nguy hiểm cho họ. Sau đó, mỗi lán cử hai người mang hai thùng sắt xuống suối
lấy nước về cho lán mình làm vệ sinh cá nhân. Dùng tay để rửa mặt, ngón tay để
đánh răng.
Ngày đầu tiên, không làm gì, để thời gian cho chúng tôi dọn
dẹp, vệ sinh lán trại và chỗ ngủ của mình. Xong việc, tôi đi loanh quanh quan
sát trại tù, xem có “lỗ hổng” khi nào có dịp để trốn. Hàng rào trông không chắc
chắn lắm, chỉ là những thanh tre đan chéo mắt cáo đóng xuống đất, có thể nhìn
xuyên qua, bên ngoài có mấy chòi canh đơn sơ
, ban đêm không biết họ canh gác ra sao, nếu như thế này việc
trốn trại không khó lắm. Tôi ghi nhận để chờ cơ hội thích hợp. Tôi lại vòng ra
phía trước nơi có cái cổng chính, thấy mấy người nước ngoài và một gia đình người
Việt có hai đứa con nhỏ sống ở ngoài rào trại (sau này được biết gia đình của một
ông đại úy, họ gọi là hàng binh, ông ta đã chạy xuống được Nha Trang, nhưng vì
nhớ vợ con nên trở lại Ban Mê Thuột, dẫn vợ con ra trình diện ban quân quản),
không thấy ba vị đại tá đâu (sau này tôi mới biết họ bị đưa thẳng ra Bắc, riêng
gia đình ông hàng bình, khi chuyển qua trại khác, vợ con họ đuổi về, còn lại
ông ta cũng vào trại làm tù binh như chúng tôi, rồi hối hận vì nghe theo lời
tuyên truyền của họ là “đánh kẻ chạy đi, không đánh người chạy lại”). Vòng trở
lại chỗ nhà bếp, nơi được cách ngăn bởi lớp hàng rào tre thấp. Nhà bếp là một
căn nhà dài, mái lợp tranh, bên trong có ba cái lò tròn to, trên đặt ba cái chảo
quân dụng đường kính cỡ 1 mét 2, hơi khói tỏa mùi cơm đang lôi cuốn bao nhiêu
cái dạ dày rỗng đứng sát hàng rào bếp, đưa mắt ngóng nhìn vào trong. Tới đây,
tôi muốn nói sự sáng tạo của cái lò, họ gọi là Hoàng Cầm, lò là một lỗ tròn to
bằng cái chảo, đào sâu xuống đất khoảng 8 tấc phía dưới khoét lỗ để nhét củi đốt,
lỗ thoát khói được đào thành những đường rãnh dài khoảng vài mét, chỉa ra hình
nan quạt, trên đặt vỉ tre được lấp lá lên, mục đích tản khói để máy bay không
không phát hiện được. Dù lửa cháy hừng hực, đang nấu cơm cho cả ngàn người
nhưng tuyệt nhiên không có cụm khói nào bay lên.
Hôm nay, đám tù sĩ quan lại được cấp phát mỗi người một bộ
quần áo tù, sọc dọc bằng ba ngón tay chụm lại, màu đỏ lợt và trắng giống như đồ
tù binh Mỹ trước đây tôi đã từng thấy trên màn ảnh TV, qua việc trao trả tù
binh Mỹ sau Hiệp Định Paris. Họ nói là, vì số lượng tù binh bị bắt quá đông,
ngoài dự trù của họ, nên mỗi người chỉ được một bộ quần áo tù để thay đổi, còn
tù binh hạ sĩ quan trở xuống được cấp phát một bộ đồ lính lấy từ các kho ở Ban
Mê Thuột.
Những ngày kế tiếp, vẫn sinh hoạt như thường lệ, sáng điểm
danh, tập thể dục, đọc nội quy, cơm hai bữa, đói triền miên rồi cũng quen dần.
Tù binh từ hạ sĩ quan trở xuống được vệ binh dẫn ra ngoài trại, dọn dẹp chặt
cây kiếm củi cho nhà bếp. Đám sĩ quan chỉ được quanh quẩn trong vòng rào, quét
lá, vệ sinh lán trại, họ không cho ra ngoài lao động, có lẽ sợ chúng tôi bỏ trốn.
Buổi chiều, cán bộ chính trị tổ chức các lớp tuyền truyền nói về cái cái lý tưởng
Cộng Sản, chủ nghĩa Mác-Lê làm theo năng lực hưởng theo nhu cầu, xóa bỏ tư hữu,
giai cấp mọi người đều bình đẳng, vân vân… Ôi, họ nói như vẹt, thao thao bất
tuyệt như đã được học thuộc lòng, chắc họ cũng biết Nga Tầu cũng “tư hữu”, quyền
lợi riêng mà đánh nhau chí chóe thì bao giờ tiến tới thế giới đại đồng? Sau đây
lầ những mẫu đối thoại điển hình giữa tù nhân và chính trị viên trong những buổi
thuyết giảng đầu tiên:
- Các
anh cứ mạnh dạn đặt câu hỏi bất cứ về vấn đề gì, chúng tôi hứa sẽ trả lời đầy đủ
cho đến khi các anh thông suốt, nếu câu hỏi ngoài sự hiểu biết của chúng tôi,
chúng tôi sẽ chuyển lên cấp trên để trả lời các anh, và nhắc lại chúng tôi
không hề để ý, trù dập vì câu hỏi của các anh.
- Cho
chúng tôi hỏi, xin anh cho biết Miền Bắc đã đạt được Xã Hội Cộng Sản chưa? Nếu
chưa thì bao giờ tiến tới được?
- Để
tiến tới xã hội cộng sản, phải xây dựng xã hội chủ nghĩa. cách mạng nước ta đồng
thời thực hiện hai nhiệm vụ: Đánh đuổi đế quốc Mỹ xâm lươc, giải phóng miền
Nam và xây dựng Xã Hội Chủ Nghĩa ở miền Bắc. Dưới mái nhà Xã Hội Chủ Nghĩa,
nhân dân được hưởng giáo dục, y tế miễn phí, không có người ăn xin, không có tệ
nạn xã hội như trộm cắp, đĩ điếm, thuốc phiện và chất gây nghiện vân vân. Mọi
người hăng hái lao động thể hiện nếp sống văn minh, vân vân...
(còn tiếp một kỳ)
Nguyễn
Trường Sỹ