– Ông có con
không?
– Có.
– Ông có con
trai không?
– Chúng tôi có
một đứa con trai và chúng tôi có đứa một con gái.
– Chú bé bao
nhiêu tuổi?
– Cỡ bằng tuổi
cháu. Có lẽ lớn hơn một ít.
– Mà ông không
ăn thịt chúng?
– Không.
– Ông không ăn thịt người.
– Không, chúng
tôi không ăn thịt người.
– Vậy cháu đi
theo ông được chứ?
– Được. Cháu
đi theo ta.
(Cormac
McCarthy, tiểu thuyết Con đường)
Người Việt Nam
giã từ vũ khí nhưng không vĩnh biệt chiến tranh.
Có hai lý do: cuộc
xung đột hai mươi năm chưa bao giờ được các bên tham dự giải quyết xong về mặt
lý thuyết. Những tranh cãi không nguội đi, các khác biệt chưa giảm bớt, nguyên
nhân là tồn tại những quan điểm khác nhau về ý nghĩa của chiến tranh. Căn nhà của
dân tộc như bị ma ám. Thứ hai, cuộc chiến tàn khốc và kéo dài, vinh quang và nhục
nhã, quá cay đắng và hào hùng, quá mất mát, hiểu lầm, hối tiếc. Vết thương ấy
đã sống quá lâu. Nó không cam lòng chết đi.
Người Việt chúng
ta, từ Bắc vào Nam, từ trong nước ra hải ngoại, từ Đông Âu qua Bắc Mỹ, đã trở
nên khác nhau. Giả thiết một khi sự xung đột không còn gay gắt, câu hỏi về hóa
giải quá khứ được đặt ra nghiêm cẩn hơn và giải quyết đúng đắn hơn, thì dân tộc
vẫn cần cùng nhau nhớ lại. Nhà thơ và người đọc vẫn sẽ còn đi lại con đường cũ
của chiến tranh nhiều lần, bằng trí nhớ, trí tưởng tượng, soi chiếu những góc
khuất tối, giúp suy nghĩ và đánh giá các thương tổn, mở những thu xếp tương
lai. Đi dọc con đường mòn trở lại chiến trường cũ, tất họ sẽ gặp:
Một người lính miền
Bắc.
Đứng lại!…
Hắn vẫn chạy
trước tôi vài buớc
cái thằng lính
bảo an non choẹt
chính cái thằng
bắn sượt thái dương tôi
ngón tay tôi
căng thẳng trên nấc cò
băng đạn AK va
vào tôi tấm tức
chỉ cần nửa
tích tắc
không, một phần
mười tích tắc thôi
ngón tay tôi
khẽ nhích nửa ly
thì hắn không
được làm người nữa
– Đứng lại!…
Hắn vẫn cắm cổ
chạy
tôi vẫn lăm
lăm khẩu súng rượt theo
đuổi bắt
thật vất vả
hơn nhiều
so với ấn nấc
cò một phần mười tích tắc
Đó là Nguyễn Duy,
đang đuổi theo rất gấp một “kẻ thù của dân tộc”.
Và một người lính
miền Nam.
Thương cho em
mười lăm
Em cũng quê Hà
Nội
Em gọi ta bằng
ông
Ờ, ta đã có
cháu
Đó là Cao Tiêu,
đang đối diện một tù binh, từ Hà Nội, cùng quê với ông.
Một người chạy gấp
gáp, băng đạn đập cả vào mình, còn một người có lẽ đang đứng trò chuyện thong
thả hơn, một người mô tả sắc sảo chi tiết, dài hơi, hồi hộp, chạy tháo cả mồ
hôi mà vẫn triết lý tới nơi tới chốn, còn một người nhẹ nhàng, chừng mực, thơ vẫn
nhiều dung tích, nhưng xét giọng điệu, cả hai đều giống nhau ít nhất ở ba điểm.
Thứ nhất, họ đều ở
trong tư thế người chiến thắng, khi câu chuyện xảy ra.
Thứ hai, kẻ thù của
họ rất khốn khổ tội nghiệp, hoặc non choẹt hoặc trẻ hơn một hai thế hệ.
Thứ ba, cả hai đều
ngậm ngùi.
Và có lương tâm.
Và đây là đầu mối của bi kịch. Về nghệ thuật, tác giả cả hai bài thơ đều có bút
pháp cao cường, nói cái này để chỉ cái kia. Nhưng tôi không muốn bàn thêm về
nghệ thuật, vì câu chuyện được kể lại trong thơ choán hết tâm trí tôi. Người Việt
có thể khác nhau rất nhiều thứ nhưng họ giống nhau hai thứ: tính xúc cảm và
lòng yêu nước.
phải thú nhận
đã bao lần anh khóc
lệ không rơi
nhưng đủ ướt làn mi
khi được nói,
được viết về Tổ Quốc
dù đôi giòng
ngờ nghệch chẳng ra chi
(Luân Hoán)
Khả năng phản ảnh
hiện thực thể hiện trước hết ở độ gần của tác giả và chiến trường. Nhà thơ
không có khoảng cách xa hay độ lùi thời gian an toàn trước sự hủy hoại và vì vậy
có thể bị tổn thương tâm lý. Trong tình huống nghiệt ngã, văn chương không thể
được đọc và được viết như cũ, chúng phải được đọc như những lời kêu thét của nạn
nhân, như lời khai của kẻ bị lăng nhục, như hiện thực bị bóc trần.
“Khi chiến tranh
xảy ra, kẻ bị bắn hạ đầu tiên chính là sự thật”, Hiram Johnson, báo cáo trước
quốc hội Hoa Kỳ. Thơ chống lại điều ấy, bằng cách đi ngược dòng thời gian. Nói
đến thơ chiến tranh sau năm 1975 không thể không tìm hiểu cội nguồn của nó, đề
tài ấy, từ cả hai phía, nhiều phía, trước 1975. Mặt khác, xét về kỹ thuật, có
hai cách xử lý thời gian: tái hiện chiến tranh và nhớ lại chiến tranh.
Tái hiện chiến
tranh:
Tiếng gà sang
canh mùi xôi không ngủ
Đêm cuối cùng
bên con mắt mẹ dệt những gì
Làm sao con hiểu
hết
Cả đời mẹ chưa
từng viết một bức thư
Dù chỉ dăm ba
chữ
Ngày mai con
đi
Chiếc áo lính
thức tròn đêm có mẹ
Chiếc áo bọc
hình hài mẹ cho
Bọc trái tim
dòng máu mẹ cho
Không bao giờ
đổi khác
(Thanh Thảo, Những
người đi tới biển, trường ca, 1977)
Tác giả cũng
chính là nhân vật người lính. Tuy nhiên một nhà thơ cần phân biệt các dữ kiện
có thật và các yếu tố tưởng tượng, xếp đặt các chi tiết trong mối quan hệ tương
hợp, tìm cách mô tả chính xác một chi tiết cá nhân và lịch sử, nếu muốn thuyết
phục người đọc một cách lâu dài. Ai cũng biết một chiến sĩ dũng cảm có thể viết
một đoạn văn dở về chiến tranh, và kẻ trốn lính có thể viết những câu thơ yêu
nước rung động lòng người. Lý do của điều ấy là: văn chương không phải là một
quá trình luân lý. Bản chất của thơ trước hết là gây niềm hứng thú ở người đọc,
nói giản dị là làm hài lòng, phấn chấn, như một trò chơi. Văn học có thể là trò
chơi, nhưng nó lại được truyền thêm một ước vọng vượt quá sức mình là làm người
kể lại chiến tranh.
Suốt hai mươi năm
sôi động, tươi trẻ, đầy những kế truyền, những cách tân, những đập phá, những nổi
loạn, những dằn vặt triết học và siêu hình, những buồn nôn và nôn mửa, những đạp
vào mặt xã hội và chính quyền, sự khinh bỉ các thể chế nửa dân chủ nửa độc tài,
sau tất cả những thứ ấy, nền thơ miền Nam thức tỉnh khi ra đến hải ngoại. Nó
quay lại nhìn chính mình, và nhận ra điều nó không làm được trong suốt hai mươi
năm: phản ảnh cuộc chiến tranh ấy mà nó đã quay lưng lại, ca ngợi nền tự do ấy
mà nó đã chỉ trích, tiếc thương ngôi nhà ấy mà nó đã hờ hững ra đi.
Nhớ lại chiến
tranh:
Trường Sơn giờ
đây ra sao nhỉ
đất nước còn
đó cỏ hoa tươi
An Lộc liền
tên cùng Quảng Trị
hỡi anh em
vinh hiển đời đời
nhờ mi An Lộc
thành bất tử
nhờ mi tên Quảng
Trị vang rền
bút thép, mực
máu, trái tim lửa
còn ghi tên lịch
sử anh em
đất nước không
sợ thiếu anh hùng
nhưng mày đúng
là thân bảy thước
vòng tay yêu
bè bạn anh em
thương cả kẻ
thù chết tan tác
Nam ơi nửa đời
cõi binh lửa
nửa đời trong
đầy đọa ngục tù
núi sông lẫm
liệt vẫn còn đó
sẽ có ngày anh
em chúng ta
(Đỗ Quý Toàn,
Ngày mưa đọc lại Dấu binh lửa)
Bút pháp là hình
thức. Ai làm chủ được hình thức thì làm chủ được thời gian. Tuy vậy, thơ viết về
chiến tranh kiểu truyền thống vẫn dựa vào một số nguyên tắc nội dung: ta tốt địch
xấu; ta mạnh địch yếu; ta đứng về nhân dân và sự thật, địch đứng về phe phản động,
ta đứng về dân tộc và văn hóa, địch đứng về phản dân tộc, phản văn hóa. Gọi là
nguyên tắc tất nhiên có thể có vài biến chuyển, ví dụ có lúc phe địch có kẻ tốt,
nhưng chỉ là thiểu số, có lúc phe ta có kẻ xấu, nhưng cũng chỉ là thiểu số.
Nguyên tắc thiểu số còn được đẩy xa hơn: khi trong phe ta có một kẻ xấu, thế
nào nhà văn hay nhà thơ cũng phải tìm ra được cách lý giải, hoặc nó thuộc thành
phần đáng lên án, hoặc là kẻ trước sau gì cũng đi hết con đường “xấu xa” của
nó. Ví dụ, trong tiểu thuyết “Ba người khác” của Tô Hoài, nhân vật xấu nhất là
một anh đội cải cách, quả nhiên cuối cùng hắn ta hồi chánh. Thật là một màn
hoán đổi melodrama, kịch sến. Nguyên tắc ấy ngày nay đang bị vượt qua.
Thế Dũng:
Kẻ thù ở đâu
chưa rõ
Chỉ thấy máu đẫm
mặt nhau
Chỉ thấy lương
tâm tan nát
Chỉ thấy vòng
tròn Thiện- Ác
Từng giọt máu
viễn chinh
Trung đội chỉ
còn một mình tôi
Kịp đến Berlin
ngồi nấc
Bao nhiêu
trung đội tan rồi
Cần phân biệt tâm
thức chống chiến tranh như một hình thái ý thức của nhân loại văn minh và phong
trào phản chiến như các cuộc vận động xã hội trước một số cuộc chiến tranh cụ
thể. Cần chú ý rằng khái niệm phản chiến ở phương Tây và Bắc Mỹ không trùng hợp
với khái niệm ấy ở Việt Nam. Trước năm 1975 ý thức phản chiến rất phổ biến ở miền
Nam, và xuất hiện lẻ tẻ hơn trên miền Bắc ở những cá nhân xuất sắc của cộng đồng
lúc ấy. Phong trào phản chiến ở miền Nam được tạo thành bởi nhiều yếu tố: lòng
yêu hòa bình, khát vọng chính đáng của người dân nhất là nạn nhân chiến tranh
và gia đình người lính; ý thức về cuộc chiến như một tai họa dân tộc, một sự kiện
vô nghĩa; thái độ chính trị ủng hộ miền Bắc và Mặt trận giải phóng miền Nam hay
ủng hộ chủ nghĩa xã hội thường có gốc rễ từ thời kháng chiến chống Pháp hoặc
trước đó; các yếu tố thuần tình cảm như quan hệ ràng buộc gia đình với bên này
bên kia. Trong khi đó, phong trào phản chiến ở Mỹ và châu Âu có nội dung chính
trị rõ ràng: không những người phản chiến yêu hòa bình chống chiến tranh mà họ
thường chống lại các chính sách về chiến tranh của Mỹ nói chung và ủng hộ các
phong trào xã hội chủ nghĩa hoặc phong trào thế giới thứ ba ở châu Á châu Phi
thời ấy. Có thể tìm thấy rất nhiều thí dụ ở các nhà thơ và nhà văn như Pablo
Neruda, Yannis Ritsos. Chúng ta có thể thấy điều ấy trong thơ của một nhà thơ
phản chiến Mỹ khá nổi tiếng ở Việt Nam, vốn là một cựu chiến binh. Bruce Weigl
trong bài “Cách ăn tết” viết về sự kiện tết Mậu Thân 1968:
Tomorrow blood would run in every province
Tomorrow people would rise from tunnels everywhere
Ngày mai máu sẽ chảy khắp các ngả đường
Ngày mai người người sẽ đứng lên từ địa đạo quê hương (1)
Rõ ràng đây là thơ của một kẻ kêu gọi đổ máu, một kẻ hô hào
chiến tranh, có điều đây là chiến tranh chống Mỹ, của một người lính Mỹ.
Đó là thơ phản chiến trá hình.
Trong không khí ấy, một người lính miền Bắc đã phản đối chiến
tranh thực sự, chọn phương pháp bỏ ra về, một nhà thơ.
Khi con người giết nhau
Những lá thư không biết gởi về đâu
Những hải cảng không có tàu cập bến
Đáng kính trọng hơn nhiều. Đó là Lưu Quang Vũ, tấm lòng yêu
quê hương, yêu hòa bình bát ngát. Anh thường làm tôi nghĩ đến trường hợp nhà
thơ Hoa Kỳ William Stafford, người chống chiến tranh vì lương tâm (2) nổi tiếng.
Thơ viết về đề tài chiến tranh không phải là một truyền thống
mạnh trong thơ miền Nam, và nếu so sánh với thơ miền Bắc cùng thời kỳ, nó kém
hơn hẳn, ít nhất là về số lượng tác phẩm. Thơ hải ngoại cũng không phải ngoại lệ.
Tuy vậy chúng ta có thể tìm thấy ở đó những dòng chữ lấp lánh mô tả những hy
sinh của người lính, nỗi đau khổ, cái chết và thương tật. Chiến tranh là đỉnh
cao của các xung đột. Dù đó là chiến tranh ý thức hệ hay giải phóng dân tộc thì
nó cũng đã kết thúc, nhưng đó là kết thúc của đỉnh cao, không phải của toàn bộ
các xung đột. Thơ viết về chiến tranh vì vậy thực chất phải là thơ viết về các
xung đột gốc rễ. Thơ hải ngoại, ngay cả sau khi đã vượt qua những hạn chế lịch
sử, vẫn tiếp tục quay lại để giải quyết những câu hỏi về văn hóa và tâm linh
sau chiến tranh. Hiểu sâu thêm ý nghĩa của nhiều sự kiện thời chiến, thấy di chứng
của chúng trong những hư hoại của đời sống xã hội, những tan vỡ của quê hương
ngàn năm thanh bình. Tính chất anh hùng ca, tính chất chính trị của thơ chiến
tranh không thể hoàn toàn áp đảo tính chất cá nhân và riêng tư.
Nghiêm trang, kính cẩn trước sự mất mát:
Cùng đứng lại hai chân nghiêm cúi mặt
Đây hàng quân đọc lại thiếu tên em
Người lính trẻ chưa đầy hai mươi tuổi
Nhớ thì về cốc rượu để phần em
(Trần Hoài Thư)
Trong các tình huống xung đột, sự chắc chắn, tính quả quyết
được nâng cao, vì có ích cho cuộc chiến đấu. Khi hòa bình, tính chắc chắn bị đặt
thành vấn đề. Không phải là quan điểm chính trị mà là phương pháp nghệ thuật.
Chúng ta có thể tin tưởng vào giác quan của chúng ta, mắt thấy tai nghe, một phần
nào, nhưng chúng ta tin bao nhiêu vào ký ức? Hồi tưởng của người khác? Suy luận?
Khi ngôn ngữ là công cụ nhận thức, công cụ ấy đáng tin đến mức nào?
Miền Nam đi vào cuộc chiến tranh một cách không chuẩn bị, đối
với họ chiến tranh là tai nạn, vượt ra ngoài kiểm soát của con người, và vì vậy
không thể lý giải được. Chiến tranh là đau đớn, chết chóc, thù hận và sợ hãi,
và không có vinh quang nào dành cho người thắng trận hay thua trận trở về. Hà
Thúc Sinh, rất thật, rất người:
Giao thừa sao mà vội
Hãy khoan đã chú mày
Cứ đóng xa vài dặm
Mà ăn uống no say.
Ta cũng người như chú
Cũng nhỏ bé trong đời
Có núi sông trong bụng
Mà bất lực hôm nay.
Những người lính thực sự cầm súng băng rừng lội suối, không
phải bọn lính kiểng ở thành phố hay bọn tướng tá hèn nhát chưa đánh đã chạy,
cùng một lúc đối diện với hai trận tuyến, trận tuyến phía trước của đối phương,
và trận tuyến phía sau gồm có một hậu phương không vững chắc, không có niềm
tin, ngày càng tan rã, một đồng minh Hoa Kỳ bị lung lay tận gốc rễ vì các phong
trào phản chiến, và một chính phủ và lãnh đạo quân đội kém cỏi, tham nhũng.
Trong niềm cay đắng, Trần Hoài Thư vẫn tỏ ra hài hước:
Khi ra trận ta là thằng chết trước
Tổ quốc ghi ơn, lãnh tụ đẹp lòng
Khi tìm vợ, ta là thằng chạy chót
Khát vọng chiến thắng kẻ thù xâm lược là ưu tiên của thế hệ
thơ chống Mỹ ở miền Bắc. Khát vọng hòa bình là ưu tiên của thơ miền Nam. Sau
tháng Tư năm 1975, tất nhiên không một người Việt nào còn muốn sống một ngày
trong chiến tranh, nhưng người ta vẫn phải sống lại, nhà thơ và người đọc thơ
càng phải trở về tìm kiếm ở nơi đồng đội mất tích, đi tìm nguyên ủy cái chết của
người thân, cắt nghĩa vết chém trên cây, sự sụp đổ của buổi rạng đông, sợi dây
trên bậc đình làng.
Ngày mai, ngày mai hoàn toàn chiến thắng
Anh dắt tay em trời chi chít sao giăng
Thắp đèn ta sẽ chơi trăng ngoài thềm
(Phạm Tiến Duật)
Đó là niềm khao khát hòa bình được lồng trong một câu thơ
xung trận, nhưng chắc chắn không phải, chưa phải là một câu thơ kêu gọi hòa
bình. Hòa bình chưa được nghĩ tới vào lúc ấy, và nếu có thì cũng không phải là
ưu tiên, nếu đặt nó bên cạnh ưu tiên chiến thắng quân xâm lược, và đó là điều
có thể hiểu. Đối với miền Bắc lúc ấy, tổn thất và hy sinh vì miền Nam có thể rất
lớn, đau thương, nhưng đó là những tổn thất có thể lý giải được. (3)
Nhân vật thời trước có đặc tính ngoại hạng, sống trong hoàn
cảnh dị thường. Chiến tranh càng tô đậm đặc điểm ấy. Ngày nay người đọc than
phiền về sự lu mờ của nhân vật, sự nhạt nhoà của cấu trúc chuyện kể trong văn
chương hiện đại hay hậu hiện đại, nhưng họ bỏ qua sự thay đổi bút pháp của văn
xuôi; trong khi ấy đối với thơ, tình hình ngược lại, người ta than phiền về sự
thay đổi bút pháp mà ít chú ý rằng các nhân vật và câu chuyện trong thơ cũng
thay đổi.
Muốn vượt ra khỏi hai nguồn cội thơ ca nói trên, hay đúng
hơn cái bóng của chúng, thơ hiện nay viết về chiến tranh phải đứng từ một điểm
nhìn khác. Đó là từ góc độ của người dân thường, của nạn nhân chiến tranh.
Nhưng nạn nhân của cuộc chiến tranh vừa qua không chỉ có người, mà còn là thú vật,
chim muông, đất đá, cây cỏ, lũy tre, con đê, làng xóm, tình người. Trong ngôi
làng cũ của tôi, thời những năm 60, mỗi mùa xuân về bướm bay rợp đường làng. Bốn
mươi năm sau chiến tranh, vắng ngắt.
Tháng Tư đi vào trong núi
Tìm con ngựa trận năm nào
Yên cương bây giờ mục nát
Hỏi chàng chàng bặt tăm hao
(Trần Mộng Tú)
Những bài thơ xưa nhất của nhân loại cũng là thơ viết về chiến
tranh, nhưng đó là về các trận chiến, nhân vật nổi tiếng, sự tích anh hùng và sự
kiện lịch sử. Ngày nay văn học chiến tranh trở nên phức tạp hơn nhiều, cá nhân
hơn, cũng như bản thân các cuộc chiến: ngày càng khốc liệt hơn, chớp nhoáng
hơn, sát thương hơn, vô hình hơn, với nhiều nguyên cớ đan xen vào nhau, hậu quả
khôn lường hơn, sự tàn hại đối với môi trường và văn hoá lớn hơn.
Và nhất là, chiến tranh ngày nay mang nhiều khuôn mặt lừa đảo.
Cần ngược dòng rất xa về phía thượng nguồn nếu muốn giải thích chúng. Trong trường
ca Mẹ về biển Đông, viết ở hải ngoại, Du Tử Lê đã nhắc đến, dù một cách riêng
tư, như thơ ông vốn thế, những tội ác của quân đội viễn chinh Pháp, trong kháng
chiến 1945-1954.
Trí nhớ tôi là ngôi nhà nằm ven sông Đáy
Ngôi nhà có rất nhiều cửa sổ
Có cánh cửa ngó xuống nỗi lầm than của mấy đời chạy giặc
những ngôi mộ xới nhanh
giấu đi những xác người chết trẻ
xác chị, xác anh
Nho Quan, mồng ba Tết
những viên đạn lửa không hận thù
những viên đạn lửa rất khoái trá
tôi chắc người xạ thủ Tây đen hay Tây trắng nào đó
đã sằng sặc cười
lúc thấy những viên đạn lửa xuyên suốt qua thân thể anh
tôi
lồ lộ bên bờ ruộng
nửa đêm
người đem tin
đập gấp rút hai cánh cửa gỗ lim
tiếng nện thình thịch dội trên những bộ ngực thoi thóp
vùng tề
mẹ tôi xé vội chiếc áo dài trắng
quấn lên đầu chúng tôi (4)
Đó là thí dụ về sự giải thích của thơ ca đối với tội ác chiến
tranh, tất nhiên chỉ từ một góc nhìn của tuổi thơ. Chiến tranh không những chỉ
là sự hủy hoại trong hai mươi năm ở cả hai miền Nam Bắc mà di chứng của chúng
còn kéo dài, không những kéo dài mà hình như mỗi ngày một lan rộng không giảm
đi. Sẽ có người ngạc nhiên về điều này khi họ nhìn thấy những tiến bộ kỹ thuật
và công nghệ, xảy ra vì sự tiến bộ chung của thế giới, trong thực tế là sự hủy
hoại môi trường thiên nhiên, vốn là sự kế thừa truyền thống hủy hoại trong chiến
tranh.
Tháng Tư vợ ngóng chồng đầu ngõ
Nón sắt giày sô vất bỏ dọc đường
Mưa sớm khai mùa tuôn xối xả
Đất trời xúc động nỗi tai ương
Thương binh lê lết ra y viện
(Diên Nghị) (5)
Nỗi khao khát hòa bình cháy bỏng trong cổ họng tất cả người
dân Việt Nam nhưng nhiều nhất là ở những người cảm thấy cuộc chiến tranh là vô
nghĩa. Không phải những người tin cuộc chiến tranh là để chống xâm lược của Mỹ
thì không biết đến đau khổ và không mong cầu hòa bình. Nhưng họ mong cầu hòa
bình với điều kiện, đó là một nền hòa bình sau khi đã đuổi xong quân thù. Mặc
dù có những thành tựu, thơ về đề tài chiến tranh trong thơ miền Nam và hải ngoại
cho đến nay vẫn còn là sự thất vọng. Chúng ta có rất ít những bài thơ hay về một
cuộc chiến tranh tàn khốc đến thế, đau thương đến thế, buồn rầu đến thế.
Trung đội những thằng trai tứ chiếng.
Những thằng bỏ lại tuổi thanh xuân.
Diều hâu bôi mặt hù ma quỉ.
Thuở đất trời bày đặt nhiễu nhương.
Đêm của âm binh về xứ khổ.
Poncho phơ phất gió hờn oan.
Trên vai cấp số hai lần đạn.
Không một vì sao để chỉ đường.
(Trần Hoài Thư)
Không một vì sao để chỉ đường là một ẩn dụ lớn. Nhưng chúng
ta cũng còn có quá nhiều những bài thơ sáo rỗng, những bài thơ chiến tranh hời
hợt như phim Hollywood về chiến tranh Việt Nam, kiểu Rambo, Việt Nam lịch sử
truyền hình. Tôi tin rằng những người lính và nạn nhân cần nhiều hơn tác phẩm xứng
đáng với máu, nước mắt của họ.
Người đọc hôm nay cần những bài thơ làm họ xúc động, suy
nghĩ. Người đọc cần những bài thơ làm họ thức dậy lúc nửa đêm, tung chăn ngồi
lên, giật mình hối hận. Hãy còn quá ít những người cầm súng viết về chiến
tranh, hãy còn quá ít những nhà thơ đã sống trong thời kỳ ấy viết về nó, hãy
còn quá ít những nhà thơ sinh sau năm 1975 đọc về nó, sống lại, viết về nó.
Chúng ta muốn nhìn thấy trong thơ tác động của các lực đẩy lịch sử, sức đi của
các cuộc xung đột, chúng ta muốn nhìn thấy những khả năng, tức là điều con người
có thể làm được cho nhau, không phải chỉ sự bất lực, bất khả, khôn kham. Chúng
ta muốn cái chết của cha ông chúng ta, dù ở bên này hay ở bên kia của chiến tuyến,
không trở thành vô nghĩa.
chúng tiến
chúng tiến đến mục tiêu
anh dũng
chẳng phải một người bỏ mạng
cả bọn anh rồi sẽ hy sinh
ôi mục tiêu
mày là cái gì hỡi?
có phải là miếng ăn
có phải là lá cờ tự do nào treo đó?
anh đã biết nó là gì
em hỡi em, làm
sao anh nói
Luân Hoán hài hước
nhưng buồn rầu. Bạn có thể bảo: chiến tranh nào mà không kết thúc buồn rầu?
Nhưng Đệ nhị Thế chiến và nội chiến Mỹ đã kết thúc một cách bi thảm và hào
hùng. Bi thảm không phải là buồn rầu, bi thảm là tình trạng đầy năng lượng.
Trong mỗi cá
nhân, các xung lực hủy hoại và tự hủy hoại chỉ có thể được điều chỉnh nếu con
người đạt tới sự thấu hiểu đối với các động cơ, tỉnh thức nhận ra hậu quả của hủy
hoại đối với người khác và đối với bản thân. Chống lại sự thấu hiểu này là các
cơ chế tự vệ tâm lý. Trong đời sống cá nhân và cộng đồng có những cơ chế rất mạnh
chống lại sự thấu hiểu có thể gọi là các phương tiện vô minh.
Ý nghĩa của chiến
tranh là một khái niệm gắn bó với thời gian. Thời gian không phải là yếu tố
khách quan, ý nghĩa càng không phải thế. Ý nghĩa không tồn tại ngoài các tương
tác của con người, mà là những phép đo về mối quan hệ giữa các phe trong cuộc
chiến, tác động của chúng lên đời sống dân sự, lên sinh thái vật chất và tinh
thần, và cuối cùng, lên thời gian. Có thể nhận xét rằng suy nghĩ và xúc cảm của
người Việt Nam đối với cuộc chiến tranh vừa qua, trong nước hoặc hải ngoại, đều
đã thay đổi trong mấy mươi năm qua và sẽ còn thay đổi.
Như vậy ý nghĩa
là một hàm số của thời gian. Chúng ta chỉ có thể nhận diện sự thật, phân biệt
chúng với sự lừa dối, nhờ vào sự chuyển dịch. Chúng ta, người quan sát, đến lượt
cũng dịch chuyển. Bạn lớn lên, tham gia vào cuộc chiến, hay trở thành nạn nhân
của nó, trực tiếp hoặc gián tiếp, bạn hồi tưởng về những vết thương của nó, và
vì vậy bạn thay đổi.
Rừng sương trắng
bủa vây
Nuốt mặt trời
buổi sáng
Toán tù binh đốn
cây
Lạnh lùng như
chiếc bóng
Trong khu vườn
mùa xuân
Người lính xưa
lặng lẽ
Hái một đóa
mai vàng
Lòng nghe sầu
xa vắng
(Thái Tú Hạp)
Cái tôi trong thơ
hải ngoại sau chiến tranh là một cái tôi đau xót nhưng nhận thức sáng rõ hơn,
và vẫn có nhu cầu giao tiếp. Những thuận lợi mới đang chờ trước mặt, đang đến,
cho dòng thơ hải ngoại về chiến tranh là cuộc sống trên đất lạ bắt đầu ổn định,
các phương tiện thông tin mới, các hồ sơ lịch sử được lật ra, sự liên lạc trong
ngoài và Nam Bắc ngày một cởi mở.Trong khi người Việt cần có nhận thức lại về
cuộc chiến tranh vừa qua, hiểu đúng hơn về các khái niệm chiến tranh chính
nghĩa và chiến tranh phi nghĩa, chiến tranh xâm lược, thì thơ ca không những cần
phải bám gót nhận thức mà còn đôi lúc vượt lên và chỉ đường cho nó. Bằng cách
nào? Bằng những rung cảm nghệ thuật, sức phản chiếu của tâm hồn, bằng sức mạnh
của ý thức thơ ca. Tăng cường nhận thức và tự nhận thức vì vậy trở thành một
trong những công việc của bài thơ. Trong khi chống lại chủ nghĩa hiện đại và
tinh thần duy lý, chống lại các đại tự sự, có công trong việc xóa nhòa ranh giới
giữa cái trung tâm và cái ngoại vi, thì chủ nghĩa hậu hiện đại cũng đem lại những
hậu quả tai hại riêng của nó: sự giễu cợt và phá phách gần như là tinh thần chủ
đạo của dòng thơ này đã loại trừ khả năng của nó như một người xây dựng diện mạo
của dòng chảy lịch sử, từ chối trở thành người diễn dịch của xung đột dân tộc.
Chủ nghĩa hậu hiện đại quan niệm rằng phương tiện truyền thông như truyền hình
và báo chí đã ảnh hưởng quá nhiều đến quần chúng, làm xô lệch hẳn cái nhìn về
hiện thực, nhưng chính nó thực ra cũng góp phần vào việc thay đổi khả năng làm
chứng của thơ ca.
Mặt khác, những
thông tin khuất lấp, không được hiển lộ trong bài thơ, có thể xem là đặc trưng
của thơ hiện đại hay hậu hiện đại. Sự giao tiếp, tương thông bao giờ cũng xảy
ra trên hai bình diện, hoặc kinh nghiệm của người đọc khi đọc thơ dưới ảnh hưởng
của chữ, tiết tấu, âm nhạc, hình ảnh, chúng được lập tức cảm nhận, hoặc giao tiếp
trực tiếp giữa nhà thơ và người đọc. Trường hợp thứ hai xảy ra nhiều hơn đối với
một bài thơ đương đại (6). Thơ Thường Quán, nói về hòa bình và chiến tranh,
không trực tiếp mà vẫn ám khói thuốc súng, gây khó thở:
đất vỡ ngực,
những con se sẻ không bao giờ quay lại đầu chái nhà anh, kể từ
cuộc xử bắn
ngôi sao tự
treo nó lên xanh, không dây
như một khúc dạo
đầu
thú: một thân
lẽo đẽo
trật trịa lưng
đèo
Một trong những
khuynh hướng của thơ sau 1975 là nghĩ lại về chiến tranh. Chế Lan Viên:
Mậu Thân 2.000
người xuống đồng bằng
Chỉ một đêm,
còn sống có 30
Ai chịu trách
nhiệm về cái chết 2.000 người đó?
Tôi!
Như thế là tự nhận
thức, và cũng chỉ mô tả người lính trực tiếp chiến đấu, chưa nói về người dân
thường trong sự kiện ấy. Hoàng Vũ Thuật đi xa hơn, ra khỏi cái tôi nhận thức,
khi anh từ Lệ Thủy đi tìm người anh ruột hy sinh ở miền Nam:
Qua trảng bom
lại trảng bom
Diết da màu trắng
không mòn người ơi
Cái màu trắng
tựa mây trôi
Bồng bềnh trên
đất cuối thời chiến tranh.
Hay Trần Nhuận
Minh, hoán đổi vị trí chủ thể và chọn cách nói thế sự:
Hai em trai chết
trận
Chiến tranh ở
hai đầu
Ảnh thờ mờ
sương khói
Vẫn không nhìn
mặt nhau
Trong dư luận xã
hội, bao giờ cũng có một sự miễn cưỡng khi đề cập đến các hậu quả của chiến
tranh. Tâm lý do dự này vẫn khởi động bộ máy vận hành của nó chống lại quá
trình phân tích và lý giải. Khi một nhà văn đi xuyên qua được các biên giới và
mô tả đối phương như những con người, các nhân vật bằng xương bằng thịt, thì
tác phẩm của họ đạt được tầm kích lớn hơn. Nguyễn Bắc Sơn, lính miền Nam, sau
năm 1975 gặp bố là đại tá quân đội nhân dân, đã than phiền.
Bố tôi ước mơ
làm cho loài người sung sướng
Và thế là ông
từ tuổi thanh xuân
Cùng bạn bè đi
làm cách mạng
Ông càng làm
cách mạng chừng nào
Thì loài người
càng thêm sặc máu
Tôi ước mơ cõi
đời tốt đẹp
Và thế là tôi
làm thơ ca tụng loài người
Tôi càng ca tụng
chừng nào
Thì loài người
càng xấu xa chừng nấy.
Vì văn chương
không phải là một quá trình luân lý.
Các lý thuyết vật
lý hiện đại quan niệm rằng vũ trụ, trong đó có nhân loại, được cấu thành bởi
các rung động như kiểu các sợi dây đàn vĩ cầm rung lên. Khi khả năng ấy bị giảm
thiểu, trong tình trạng chiến tranh hoặc thù địch, con người mất thăng bằng, trở
nên rối loạn. Khi chúng ta không thấy người khác là những con người, mà nhìn thấy
họ như là những vật thể đại diện cho thế lực đen tối, chúng ta dễ dàng tuân lệnh,
hoặc tự cho phép mình quyền, dẫm đạp lên như gỗ đá. Khi khả năng rung động trước
người khác, giao hòa với người khác được phát triển, cá nhân sống trong sự hòa
hợp với sinh thái. Ngược lại, sự chia cắt từng mảnh (fragmentation) và thiếu
trách nhiệm cá nhân là bầu khí quyển tinh thần của chiến tranh.
Trong thơ trữ
tình, cái riêng tư vẫn có tính chính trị. Khái niệm ấy càng đúng đối với thơ về
chiến tranh, một khi tác giả có một độ lùi thích hợp cho các biểu hiện cá nhân
thay thế tình cảm sử thi. Đỗ Quyên:
Ta trong chiều
hôm những tin hồng
Ranh giới
không phân biệt
Chữ, bút có thể
đứng ngồi vô lối
Tranh trên trần
nhà
Gương phủ lối
đi
Bạn khỏi băn
khoăn về cây viết của mình
chỉ quen hát
quốc ca
Khỏi băn khoăn
về một người em không quên mình từng đau đớn
xà tới cười với
những song sắt lằn gân
Khỏi hỏi về một
sắc dân bao giờ thay giống
về tuyệt vọng-niềm
tin và những cặp chữ cuối bài
Bạn có thể bỏ
màu trắng đi chơi
những chuyến tốc
hành xuyên giấy mực
Lòng kính trọng sự
thật và quyền tự do biểu đạt là căn bản đầu tiên của hóa giải hận thù dân tộc.
Làm thơ về chiến tranh là trò chuyện về những mất mát, về những bất công lịch sử
và với người đã chết. Những người nghe bạn có thể không thể trả lời, không ai
biết chắc bạn nói đúng hay không về một sự kiện, sự thắng bại của một trận
đánh, mức độ tổn thương, bạn chỉ có thể tự biết lấy mình. Vì vậy bạn có nhiều tự
do, và một nhà thơ càng có nhiều tự do càng có trách nhiệm và phải sống với nhiều
khó khăn để tìm kiếm thứ tiếng nói vừa phản ảnh sự thật trong quá khứ vừa hướng
về sự hóa giải hận thù trong tương lai. Tất cả những nước xảy ra nội chiến đều
phải trải qua một quá trình tương tự lâu dài. Quá trình ấy ở Việt Nam chậm chạp,
thậm chí chưa chưa hề đạt được tiến bộ nào, vì bản chất của cuộc chiến tranh
không phải chỉ là nội chiến mà còn là chiến tranh ý thức hệ.
Tôi là con cá
sinh ra trong dòng sông Bến Hải
Buổi sáng bơi
qua bờ bắc tìm ăn tránh bộ đội lưỡi câu
Buổi chiều về
ngủ bờ nam trốn lính rình giăng lưới
Ngày ngày lính
bờ bắc đói khổ chán chường chửi lính bờ nam
Lính bờ nam mệt
mỏi nản lòng chửi lính bờ bắc
Nhiều đêm nhìn
sao trời thao thức
Tôi tự hỏi
lòng họ làm người có vui sướng hay không?
(Ngu Yên)
Bất kỳ một thành
tựu thơ ca nào, không dựa trên những tiền đề tương thích của dân tộc, mà chỉ dựa
trên các quan điểm chủ quan sai lầm về chiến tranh, dù có thể có giá trị thẩm mỹ
nhất định, được nhắc đến một thời, sẽ không tồn tại lâu dài. Nếu dòng thơ hoài
niệm trong bốn mươi năm qua đạt được nhiều thành tựu, thì thơ hải ngoại viết về
chiến tranh còn chưa nhiều, ít có bài thơ hay. Thế hệ tiếp nối không có nhiều
kinh nghiệm và sự tiếp xúc của họ đối với lịch sử gần như không có. Đó là một
vài lý do làm cho dòng thơ về chiến tranh tuy chưa bao giờ ngừng tìm kiếm những
cách tân, vẫn để lại nhiều vết trắng.
Người đọc thơ
không chủ ý đi tìm các sự thật như mục đích chính yếu của việc đọc và không nên
có ảo tưởng rằng các đoạn trích dẫn thơ hay văn trên đây là ảnh chụp chân dung
không bao giờ thay đổi về những chuyện thực sự xảy ra. Người đọc thơ tìm kiếm
giữa các chữ, đằng sau các chữ, một dòng sóng sôi động mà người viết trực tiếp
tham dự hoặc chia sẻ gánh nặng. Đó là sự thật của hận thù và thấu hiểu, của hèn
mọn và cao cả, của tội ác chiến tranh và lòng khoan dung dân tộc. (7)
Đối với nhiều nhà
thơ, ý thức dân tộc chỉ có thể là ý thức của thơ ca, của ngôn ngữ, bởi vì đó là
góc nhìn duy nhất, là đường lối duy nhất để họ đi từ hiện tại đến quá khứ và
ngược lại, để họ vượt qua những khuất lấp, kể lại sự thật với người đọc không
phải chỉ bằng sự chứng kiến có tính cách lịch sử mà bằng cả tâm hồn và thể xác,
đôi khi chính sinh mệnh của mình.
Về dòng văn học
chính thống trong nước, số lượng xuất bản của thơ về chiến tranh là áp đảo so với
các dòng khác và có xu hướng tiếp tục như thế vì hai lý do. Sự hỗ trợ của các
thiết chế nhà nước, báo chí, tài chánh và tinh thần, những khuyến khích như các
giải thưởng và sự nổi tiếng. Nhưng lý do quan trọng hơn, những thế hệ tương lai
viết về chiến tranh được nuôi dưỡng kỹ trong một bầu không khí thuận lợi cho lối
cảm xúc và suy nghĩ của người thắng trận. Ngược lại, những nhà thơ hải ngoại, với
những quá khứ khác, những đau khổ khác, và tất nhiên niềm tin khác, gặp khó
khăn hơn nhiều khi viết về đề tài này. Như trong thơ Cao Đông Khánh:
Thời tiết chật
hơn chiều sâu trí nhớ
vượt ngục vượt
biên vượt biển xuyên bang
khuya hôm đó
có người bị xử tử
để cho người sống
sót, chết không yên
Chữ nghĩa là
ánh sáng của mặt trăng ngoại quốc
nàng trắng như
giá băng, nàng ấm như trái chín cây
con ngựa của
thế kỷ trước chở tình vào lịch sử
chở công nương
đi dạ vũ trá hình
Áp lực cộng đồng,
mặt khác, là có thật đối với các nhà thơ hải ngoại lớp trẻ hơn viết về nội chiến
hai mươi năm, mặc dù tất nhiên không thể nào sánh được với tình trạng lo âu mà
đồng nghiệp của họ có thể phải chịu đựng trong nước. Tình yêu nước đã từng xô đẩy
người Việt bắn giết nhau thì chính nó có thể hóa giải hận thù do nội chiến gây
ra. Một bài thơ được cho là vô danh, viết ở miền Bắc trước đây nhân việc mất
Hoàng Sa năm 1974, nói lên niềm tin: dân tộc Việt Nam là một.
Em ơi, trên từng
trang sử nhỏ
Xin kể thêm
tôi, thành 19 triệu một người
Thành viên gạch
hồng tươi
Làm bức tường
thành, ngăn triền sóng dữ
Giữ không cho
rơi một giọt mật nào
Mỗi giọt ra đi
chính mỗi giọt máu đào, bao đời cha ông nhỏ xuống
Người bạn hải
quân miền Nam ơi
Trên đảo mù
sương hôm đó có tay anh cầm súng
Từ những hạm
tàu rẽ sóng đại dương
Nhờ những điều kiện
đặc biệt của mình, thơ hải ngoại có khả năng ghi lại và lưu giữ ký ức của đất
nước, một giai đoạn đau thương của dân tộc. Đó là người thư ký với nhiều công
lao và nhiều khiếm khuyết. Mối quan hệ giữa hoài niệm và suy tưởng chiến tranh,
giữa quê hương cũ và xứ sở mới, giữa xã hội bên ngoài và đời sống bên trong, là
mối quan hệ biến động, tương tác, thay đổi mỗi ngày. Trong ý nghĩa ấy, thơ về
chiến tranh không phải chỉ là thơ về nỗi mất mát mà còn về sự tìm kiếm, khôi phục.
Đôi khi chính người ra đi đã giữ lại cái tan vỡ, chính người thua cuộc mang
trong hành trang của họ những gìn vàng giữ ngọc quê hương, cái chết bị xem là
vô nghĩa của người lính vô danh, tức là vô danh đến hai lần, những huyền thoại
bị xóa sạch ở nơi khác. Truyền thống thơ trữ tình về chiến tranh tích hợp vào
nó yếu tố tự sự. Xuất phát từ một nền văn học non trẻ, chết ngay trong lúc trưởng
thành, dưới hoàn cảnh lưu vong ngặt nghèo, thơ vẫn tiếp tục đi con đường riêng
của nó, và bảo vệ được tính chất đặc thù của miền Nam và của hải ngoại trong việc
nhận thức chiến tranh, tìm kiếm, đánh giá lại, nghi ngờ, tháo gỡ, giải thích,
xác định, tra vấn. Sự tìm kiếm tiếp tục về một cuộc chiến tranh đã mất tạo nên
chính năng lượng của thơ.
Rất mới:
bệnh chiến
tranh dày vò sâu xương tủy
nắng thời bình
không xuyên nổi nắp hầm
kinh nghiệm giết
nhau có đéo gì là dinh hạnh
mà lải nhải
quààài thời năm mươi sáu mươi sáu mươi bẩy mươi
tôi quạt con đạm
tiên một tràng ak nát mặt
những đời sau
không cần biết tới mày
Bài thơ của Nguyễn
Hoàng Nam, với trích đoạn trên đây, đòi hỏi sự giao tiếp trực tiếp giữa tác giả
và người đọc. Đúng là thơ ca không thể thay đổi được lịch sử nhưng có thể làm
cho một người hiểu biết hơn, thận trọng hơn, tinh tế hơn, và do đó tiến gần hơn
đến sự giao hòa với thiên nhiên và người khác, có thể cư trú lâu dài trong trạng
thái cân bằng giữa quá khứ và hiện tại, giữa hiện tại và tương lai, bước tới
cánh cửa của sự tha thứ và bao dung. Bốn mươi năm sau, nhà thơ Uyên Nguyên thăm
lại một trong những địa danh nổi tiếng khi cuộc chiến sắp tàn. Bút pháp mới,
thao thức.
Chiều qua cầu
Cỏ may
chân giẵm tà
dương xa lỡ
mấy độ đường
nhàu đỏ gót ngày
lửa mắt khát
quê nhà rơi tuột từng tờ lịch máu
tháng tư
nhớ khúc sông
Mường
cồn cỏ sau
lưng con trăng cốc vũ không bờ trôi giạt
một lần qua
chiều đứng lại
khói quấn tiếng
kêu
cuống cổ đặc cảm
giác không nơi chốn
khoảng lạ dòng
Cỏ May kinh động màu nước
bức xám vẽ
trôi trời mây
loang/ vết cắt
gió loạn phơi xác
những con lộ
cháy
đen /thịt người
/nắng/ khét
đêm nằm trên
khoang cá nhìn trăng 16
(26/04/15)
(10)
Khi con người, mặc
dù có thể đầy đủ tiện nghi, chỉ quan tâm đến mình, không có khả năng cảm nhận
tinh tế về người khác, họ sẽ sống trong lo âu và sợ hãi. Ngôi thứ nhất, cái
tôi, là nhân vật trung tâm của thơ, nhất là thơ trữ tình, dĩ nhiên không đồng
nhất với nhà thơ và cuộc đời riêng của nhà thơ ấy, nhưng chúng cũng không hoàn
toàn tách rời biệt lập. Tuy nhiên trong thơ chiến tranh, cái tôi chủ thể thường
khi cũng chính là người lính. Đó là điểm mạnh mà cũng là điểm yếu ở cả hai miền
Nam Bắc trước đây. Khuynh hướng tự sự trong thơ đương đại, với giọng điệu ngày
một văn xuôi hóa, trong chừng mực mà người đọc thơ Việt, vốn bảo thủ, chấp nhận
được, mở ra khả năng tồn tại nhiều điểm nhìn, nhiều giọng nói trong thơ, phá vỡ
tính giới hạn của chủ thể thơ trữ tình, ý thức giới hạn của nhân vật.
Chàng đứng giữa
nhà giới thiệu cùng em
Những ai xưa
đã có lúc sum vầy
(Tô Thùy Yên,
1997)
Khoảng cách hiện
nay giữa các chiến tuyến vẫn là số đo bất tận. Văn học không thể rút ngắn khoảng
cách ấy. Nó chỉ có thể chiếu ánh sáng vào chân của người đi tìm đường cho những
cơ hội hóa giải hận thù. Thơ ngày nay cần phải thay đổi, vì chỉ có đi con đường
riêng, mới mong tìm ra được dấu tích của kẻ đã đi mất, mang theo hắn những câu
chuyện bí mật, không phải phần kết thúc đầy kịch tính của chúng, mà phần mở đầu,
chương Một, phần giới thiệu nhân vật và căn nhà của họ, cha mẹ, tuổi thơ của họ,
những kẻ về sau có thể lớn lên thành kẻ giết người.
Tôi đã từng có dịp
nhìn thấy một người phụ nữ từ Hà Nội lang thang đi tìm dấu tích của chồng chết ở
mặt trận thành cổ Quảng Trị, và đã từng có dịp nhìn thấy một người đàn bà khác
lặng lẽ đến bên cầu Tràng Tiền thắp hương cho đứa con trai mất tích trong tết Mậu
Thân. Thơ có thể làm được gì cho họ? Thơ có thể bắt thời gian dừng lại, khắc
sâu một ngày vào trăm năm, đóng đinh một tờ lịch mỏng vào bức tường ký ức trắng
xóa, một tình yêu tan vỡ vào một câu thơ ngắn. Tại sao thơ ca có thể làm được
điều ấy, quyền năng của nó là ở đâu?
Ở nhu cầu muốn được
lắng nghe của con người. Mỗi cá nhân không thể chống được thời gian, chống lại
cái chết, nhưng dân tộc và nhân loại, như một tập thể, có khả năng làm được điều
ấy hay mơ ước làm được điều ấy.
Trước mỗi ngọn
nến hồng
Sau ngày thua
trận
Im lặng sâu
hơn
Vì chờ tiếng
nói
Mưa rả rích
ngoài trời
Vẫn không một
lời
Giã từ nhau lặng
lẽ.
Chiếc cầu sắt
đen
Những thanh tà
vẹt rỉ
Tàu qua mỗi buổi
chiều
(Lữ Quỳnh, bài
Người lính buồn, 2011) (10)
Có những nơi chốn
sâu hơn ngôn ngữ. Nơi bạn rơi vào cõi đen tối. Khi ấy, bạn không cần đến ngôn
ngữ và thơ ca. Nhưng cũng có những lúc khác, ngôn ngữ giúp bạn thu xếp lại đời
mình, giữa những bộn bề của lịch sử mà bạn bước qua, ngọn nến chiếu trên tay, tỉnh
thức. Chiến tranh bao giờ cũng là một tai họa, nhưng cuộc chiến tranh của người
Việt chúng ta là một bi kịch. Bi kịch được hiểu là tai họa, mất mát, đau đớn
sinh ra từ tương tác lịch sử, những xung đột khách quan, không hóa giải được.
Bi kịch là một tai họa tuy do con người gây ra nhưng con người không cưỡng lại
được, một tình huống không thể vượt thoát.
Thơ viết về chiến
tranh đã qua thời kỳ nhìn từ góc độ của người tham dự trực tiếp, chiến tuyến
này hay chiến tuyến khác, dù nhà thơ ấy đã thực sự cầm súng, đã qua thời kỳ kêu
gọi lên đường chiến đấu hay kêu gọi chống chiến tranh, đã qua thời kỳ thương cảm
và bi lụy. Nhà thơ viết về chiến tranh hôm nay cần rời bỏ chiếc ghế trên đó anh
ta đã ngồi quá lâu, dù đó chỉ là chiếc ghế xếp bên vỉa hè, bước về phía bên kia
đường, len lỏi qua dòng xe cộ, về phía nhân dân, nạn nhân, hay ngay cả đối
phương nếu đó là phía có thể nhìn thấy sự thật, vượt qua xúc cảm, bước tới nhận
thức và mô tả khách quan. Nhà thơ sẽ giúp người đọc và các thế hệ mai sau nhìn
được khía cạnh hào hùng và bi thảm của một dân tộc bị xua vào tai ương, bị dẫn
dụ, bóc tách những vỉa đá thời gian, những lớp bụi của lừa dối và tự lừa dối,
làm hiển lộ khuôn mặt kẻ bị gõ cửa trong đêm, dẫn đi giữa tiếng khóc gào, mất
tích trong bóng tối hay bị dẫm nát.
Khi khuôn mặt ấy
hiện ra dưới ngón tay đào bới của thơ ca, giữa đất đá bụi bặm, người đọc nhận
ra nó quá quen thuộc.
Vì đó là khuôn mặt
của anh ta.
Nguyễn Đức
Tùng
Chú
thích:
(*) Mc Carthy, Cormac, The Road, Vintage International,
2006, p.284.
Do you have any kids?
We do.
Do you have a little boy?
We have a little boy and we have a little girl.
How old is he?
He’s about your age. Maybe a little older.
And you dind’t eat them.
No.
You don’t eat people.
No, we don’t eat people.
And I can go with you?
Yes. You can.
(1) Carolyn Forché, Against Forgetting, NXB Norton, 1993, p.
705
(2) Conscientious objector: những người từ chối nhập ngũ vì
lý do niềm tin, đạo đức, tôn giáo. Một khái niệm thường dùng ở Hoa Kỳ.
(3) Cho đến khi họ gặp phải sự thật sau đây.
Mưa đã tẩy hết dấu vết. Hoàn toàn do tình cờ mà bọn anh đã
chạm trán với chúng ở dưới chân quả đồi độc lập. Bảy tên lính viễn thám. Ba tên
bị hạ khi đọ súng. Bốn tên bị bắt sống. Thịnh “con” hy sinh trong trận chiến, đạn
trúng tim, không kịp một tiếng kêu, ngã sấp.
– Đâu rồi? Họ đâu, ba cô gái ấy? – Kiên hỏi, giọng cực kỳ ôn
tồn. Bốn tên tù binh không phải trói, bị đánh nhừ tử, áo quần rách bươm, be bét
bùn và máu, đứng lặng, làm thinh. Chúng uể oải đổi chân.
– Nào, họ đâu rồi? Họ còn thì chúng mày còn. Tên nom to con
nhất bọn, mắt trái bị báng súng dộng lòi ra, máu hòa nước mưa nhuộm đỏ nửa mặt,
đưa con mắt nhìn Kiên, cười khẩy, và khàn khàn nói, nhe hàm răng trắng ớn.
– Ba nhỏ đó trình quí anh, tụi này làm thịt cúng hà bá rồi,
mấy nhỏ la khóc quá trời.
Cả tốp trinh sát soạt soạt rút dao găm. Kiên vội ngăn:
– Đừng! ấy chớ. Bọn này chắc cũng muốn được la khóc đã rồi mới
chết. Chết ngay thì chúng không thích đâu.
(Bảo Ninh, Nỗi buồn chiến tranh) (http://kenhsinhvien.net/…/dang-doc-noi-buon-chien…/)
Tiếng chửi mắng chen lẫn tiếng nổ khô và gọn. Chúng chửi mắng
hoặc bắn chết thương binh. Chưa bao giờ tôi căm thù và ghê tởm bọn chúng đến ngần
này. Chiến tranh là luật của sống chết, nhưng khi người đối địch với mình ngã
xuống thì ai nỡ lòng nào để hành hạ và giết chết. Lũ chúng nó, loài không có
linh hồn. Đã bao lần chúng tôi bắt được tù binh, kẻ cho thuốc lá, người cho cơm
ăn, những người lính Nhảy dù xưa nay vẫn có tiếng là cứng rắn nhưng chưa một lần
nào chúng tôi hành hạ tù binh, huống gì tù bị thương. Nhưng ở đây, bọn Việt cộng
như một kẻ vô linh hồn, chúng quên mất tình người. Người nằm đấy, những người
Việt Nam chung với chúng một dòng máu, chiến tranh đã biến đổi họ thành thù địch
trong trận đánh, nhưng bây giờ còn gì để tạo nên thù hận! Nhưng rõ ràng tôi
nghe trong bóng đêm những tiếng chửi mắng tục tĩu, và những tiếng nấc cuối cùng
của người chết khi nhận những lát dao tàn bạo hoặc những viên đạn cuối cùng thật
chính xác nổ vào đầu… Tôi bò nhanh về phía tay phải theo triền dốc, đâu đâu
cũng có người chết, có xác đã lạnh cóng, có xác còn nóng của những kẻ vừa chết.
Tôi đụng vào một người.
– Ai đó? Tôi, Cấm đây, cứu dùm tôi với…
Có tiếng chân người chạy đến, một tên Việt cộng…
– Mẹ mày, để tao cứu cho.
Nó cười hềnh hệch man dã, một viên đạn nổ chát chúa, nó bắn
vào đầu anh Cấm… Tôi nằm im không nhúc nhích, mặt úp xuống lá cao su.
(Phan Nhật Nam, Dấu binh lửa) http://buonvuidoilinh.wordpress.com/…/phan-nhat-nam…/)
Khả năng phản ảnh sự thật của văn học mở rộng đến đâu? Người
đọc bình dân thưởng thức văn học bằng nội dung, người đọc chuyên nghiệp chú ý đến
hình thức nghệ thuật, nhưng cả hai, dưới tác động thẩm mỹ, thường hình dung văn
học là sự thật, trong khi thật ra, ngay ở thành tựu cao nhất, nó chỉ là tấm
gương phản chiếu sự thật. Vậy thì, có bao nhiêu sự thật trong hai đoạn văn
trên, một của Bảo Ninh có thể xem là tiểu thuyết có tính tự truyện, một của
Phan Nhật Nam có thể xem là tiểu thuyết có tính bút ký, hoặc ngược lại?
(4) Du Tử Lê, Ở Chỗ Nhân Gian Không Thể Hiểu, NXB Văn học
nhân chứng, 1989, p181.
(5) Phan Bá Thụy Dương, Talawas. http://www.talawas.org/talaDB/showFile.php?res=3708&rb=0101
(6) Adam Kirsch, the modern Element, Norton, 2008, p.
25
(7) Tôi ít thấy nhà thơ thế giới nào viết giản dị và thuyết
phục như nhà thơ Ba Lan Wislawa Szymborska trong bài thơ nhan đề “Việt
Nam”:
“Chị ơi, tên chị là gì?” “Tôi không biết.”
“Chị bao nhiêu tuổi? Quê quán nơi đâu?” “Tôi không biết.”
“Tại sao chị đào cái hang này?” “Tôi không biết.”
“Chị trốn ở đây bao lâu rồi?” “Tôi không biết.”
“Tại sao chị cắn tay của tôi?” “Tôi không biết.”
“Chị có biết chúng tôi không làm hại chị không?” “Tôi không
biết.”
“Chị đứng về phe nào?” “Tôi không biết.”
“Đây là chiến tranh, chị phải chọn một phe chứ.” “Tôi không
biết.”
“Làng cũ của chị còn không?” “Tôi không biết.”
“Những đứa trẻ này có phải con chị không?” “Dạ phải.”
Vietnam
“Woman, what’s your name?” “I don’t know.”
“How old are you? Where are you from?” “I don’t know.”
“Why did you dig that burrow?” “I don’t know.”
“How long have you been hiding?” “I don’t know.”
“Why did you bite my finger?” “I don’t know.”
“Don’t you know that we won’t hurt you?” “I don’t know.”
“Whose side are you on?” “I don’t know.”
“This is war, you’ve got to choose.” “I don’t know.”
“Does your village still exist?” “I don’t know.”
“Are those your children?” “Yes.”
(Wislawa Szymsborska, Poems new and selected, translated by
Stanislaw Baranczak and Clare Cavanagh, Hartcourt Inc, 1998, p.90.)
(Inra Sara, “Thơ Việt từ hiện đại đến hậu hiện đại”.
http://inrasara.com/…/t%e1%bb%ab-ch%e1%bb%91i-li%e1%ba…/
(9) https://trangchunhat.wordpress.com/…/giac-mo-trang-tho…/
(10) Nguyễn Lệ Uyên. http://t-van.net/?p=17451
Các tài liệu tham khảo:
Những bài thơ do một số nhà thơ cung cấp. Nhân đây xin được
bày tỏ lòng biết ơn của tác giả đến tất cả.
Gaston Bachelard, The poetics of space, Beacon, 1969
Mieke Bal, Narratology, Introduction, University of
Toronton, 1985
Thi Vũ, Bốn mươi năm thơ Việt nam 1945- 1985, Quê Mẹ,
1993
Caroly Forché, Against Forgetting, Norton, 1993
J.D. Mc Clatchy, The vintage book of contemporary world
poetry, Vintage, 1996
Hà Minh Đức, Thơ và mấy vấn đề trong thơ Việt Nam hiện đại,
Giáo dục, 1998
Nhóm Việt Thường, Tuyển tập thơ văn hải ngoại năm 2000, Văn
Mới, 2000
26 Nhà thơ Việt Nam đương đại, Tân Thư, 2002
Nguyễn Bùi Vợi, Quang Huy, Vũ Quần Phương, Thơ Việt Nam thế
kỷ XX, Thơ trữ tình, Giáo Dục, 2005
Jennifer Ashton, From modernism to postmodernism, Cambridge
Press, 2005
Nguyễn Hưng Quốc, Thơ con cóc và những vấn đề khác, Văn Mới,
2006,
Agnieska Gutthy, Exile and the narrative/ poetic
imagination, Cambridge Scholars, 2010
Võ Phiến, Văn học miền Nam tổng quan, Người Việt Books,
2014