Cận Giáng Sinh năm 1977 anh Nhân ghé qua nhà tìm chị Hai tôi
đề nghị chị vào làm thư ký cho nông trường trồng khóm (thơm) ở xã Lình Huỳnh
thuộc quận Hòn Đất, Kiên Giang do anh đồng giám đốc với một người nữa, cách nhà
tôi 45 km.
Nguyên anh Nhân là nhân viên văn phòng trong ty Thông Tin tỉnh do ba tôi đảm trách trước tháng tư năm 75, chị hai tôi cũng là thư ký ở đây. Sau ngày 30 tháng Tư đen tối, ba bị đưa vô rừng U Minh Thượng “học tập cải tạo tư tưởng” mà thực chất là tù đày khổ sai. Chị tôi bị triệu tập học lý thuyết mấy ngày rồi về nhà nấu cơm giặt quần áo, đã là may mắn lắm.
Anh Nhân đến thăm bất ngờ. Thật ra anh rất quí mến ba má tôi
và xem chị Hai như em gái nên không giấu diếm kể rằng bên họ hàng nhà vợ có nhiều
người theo “phía bên kia” chức vụ khá cao nên khi thời cuộc đổi thay anh không
bị ảnh hưởng gì –có khi anh đã lén lút hoạt động ngầm cho họ một thời gian rồi
cũng không chừng–. Gió xoay chiều, anh phải tìm việc nuôi gia đình và bản thân,
hợp tác với người quen mở nông trường trồng khóm, mía được vài tháng nay. Đã
thu nhận hai cô thư ký nhưng cần thêm người tin cậy có kinh nghiệm về kế toán.
Thế là anh nhớ đến chị Hai.
Chúng tôi sống chung với ông bà ngoại, nay đã hơn 70 tuổi.
Chị Hai là con đầu gánh nặng áo cơm chia sớt đỡ đần tiếp má lo cho gia đình
không thể rời nhà đi làm xa với đồng lương thư ký ít ỏi nên đề nghị anh Nhân
cho tôi làm thay chị. Có lẽ anh không muốn nhưng bất đắc dĩ phải nhận lời.
Thế là hôm sau tôi thu xếp ít bộ quần áo, chọn những kiểu
may đơn giản cho vào túi xách nho nhỏ, má kêu cậu em thứ sáu chở tôi đến nông
trường bằng chiếc xe Honda dame 50.
Ra khỏi tỉnh, con đường bắt đầu gồ ghề toàn đá cục to nhỏ, ổ
gà ổ voi hoà với bụi đỏ bay mù mịt dằn xóc liên tu bất tận. Đã vậy không hiểu
chiếc xe bị gì mà cứ chao nghiêng về một phía, em tôi phải kềm tay lái chặt
không thì nó cứ lủi vào lề. Em tưởng là tôi ngồi không đúng cách quay lại nhắc
nhở mấy lần:
–Chị ngồi ngay ngắn bình thường đừng có gồng một bên em chạy
không được đây nầy. Đường thì hư hỏng rất khó đi.
Tôi bị la oan, thanh minh mà cậu ấy vẫn không tin. Đưa tôi đến
nơi, lúc quay trở về một mình thì chiếc xe vẫn ngoẹo đầu một bên, về nhà kể lại
với gia đình là ân hận đã nói oan cho tôi.
Trên đường, ngẫu nhiên chúng tôi thấy chú Năm ngồi trên chiếc
xe jeep cùng với vài người chạy từ hướng ngược lại. Chú là em cô cậu ruột với
ba tôi, làm lính địa phương quân nên không bị đi tù cải tạo. Đường xấu xe chạy
chậm chúng tôi có thời giờ trao đổi vài câu chào hỏi. Ánh mắt chú nhìn chị em
tôi như định nói gì nhưng không thốt thành lời, xe dần dần xa tôi quay đầu lại
còn thấy chú cũng ngoảnh mặt nhìn chúng tôi đến hút tầm mắt mới thôi (Thời gian
sau tôi còn dịp gặp chú lần nữa trước khi chú vượt thoát sang Úc. Chú đinh ninh
hôm ấy hai chị em tôi chạy xe lên Hà Tiên tìm đường vượt biên.)
Nơi đến là một căn nhà vừa dùng làm văn phòng vừa là nơi ăn
ngủ cho các thư ký.
Mặt trước nhà nằm cạnh con đường liên tỉnh bụi bay mù trời mỗi
khi có xe chạy ngang, mặt sau hướng ra sông. Đó là một căn nhà khá rộng, lợp bằng
lá dừa nước còn mới, nền chưa được nện chặt còn những cục đất lồi lõm. Một phần
căn nhà đặt ba chiếc giường đôi, mỗi chiếc cách nhau khoảng một mét, hai cô đến
trước chiếm hai chiếc từ trong góc vách được che lại bằng tấm rideau vải riêng
biệt. Chiếc còn lại nằm tênh hênh giữa nhà tất nhiên là dành cho tôi. Có cái tủ
nhỏ đặt ở mỗi đầu giường đựng quần áo vật dụng cá nhân.
Phần còn lại của gian nhà đặt thêm cái bàn đủ lớn dùng làm
bàn viết lẫn ăn uống. Xa hơn về phía cửa sau có hai cái lò bằng đất nung đỏ,
bên cạnh chất đống thanh củi tràm cho việc nấu nướng.
Tôi nghe nói đây là nhà mới dựng tạm lúc thành lập nông trường
trên khoảng đất vốn trước đây mọc cỏ dại, nó nằm trơ trọi cách nhà dân vài trăm
mét.
Hai cô gái nhỏ hơn tôi hai tuổi, cùng tên Xuân quê Long
Xuyên là bạn thân học cùng lớp. Các cô đã được anh Nhân thông báo trước, nên
không ngạc nhiên khi tôi đến mà tiếp đón với sự vui vẻ ân cần. Một người dáng
nhỏ nhắn, nhanh nhẹn tự động quán xuyến việc nấu ăn. Cô còn lại thân hình hơi
tròn trịa, rất xinh với mái tóc dài đen nhánh xoã tận eo, đôi mắt to tròn long
lanh. Cô hay cười, giọng cười giòn tan, có lúm đồng tiền duyên. Nhưng thỉnh thoảng
giữa khoảnh khắc hồn nhiên vô tư đang chuyện trò vui vẻ cùng nhau, thái độ cô
thay đổi đột ngột. Cô bỗng im lặng thả hồn đi đâu mất, đôi mắt hướng ra sông buồn
da diết. Trạng thái ấy xảy ra nhiều lần trong ngày khiến tôi e ngại với người
tâm tánh khó đoán, nên chỉ gần gũi với cô Xuân-nhỏ-nhắn.
Đến đây được hai ngày, ngoài 3 chúng tôi thì không thấy bất
cứ một bóng dáng nào lai vãng, ngay cả anh Nhân lẫn các công nhân. Tôi thắc mắc
hỏi thì được hai cô giải thích rằng nông trường được anh Nhân cùng một người bạn
thành lập. Hiện giờ cả hai đang về tỉnh mua vật liệu hay tìm thêm đối tác gì
đó. Còn nông trường trồng khóm, mía cách đây 3 km, đa số công nhân là người địa
phương nên tối họ về nhà. Những người từ nơi khác đến thì ăn ở luôn trong lều dựng
cạnh nông trường cho tiện. Chỉ kỳ lãnh lương mỗi hai tuần thì mới tụ họp về văn
phòng thôi.
Thì ra thế. Lúc chưa đến tôi hình dung cảnh tượng đông đúc kẻ
tới người lui, và chúng tôi với nhiệm vụ thư ký hẳn phải ghi chép sổ sách rất bận
rộn, nào ngờ hoàn toàn trơ trọi giống như kẻ bị cách ly. Cho nên tiếng là làm
thư ký nhưng tôi chưa hề được giao việc sổ sách mà cũng chả thấy bất cứ tờ giấy
hoá đơn chứng từ nào trên bàn hết.
Nơi đây ban ngày vốn đã lặng lẽ năm thì mười thuở mới có 1
chiếc xe cà rịt cà tang hì hụt chạy qua, động cơ rú lên ầm ĩ rồi dần xa để lại
một màn bụi đỏ mù mịt bay tứ tán trong không gian, tràn vào nhà nên cửa trước
lúc nào cũng khép. Dòng sông sau nhà có màu xanh trong vắt, nước biển pha trộn
nên có vị lờ lợ không uống lẫn tắm được, chỉ rửa chén hoặc giặt quần áo (!). Nước
uống, nấu ăn phải mua từ ghe nước từ Long Xuyên thỉnh thoảng chở tới nên phải
xài dè xẻn. Dân ở đây tắm nước lợ mặn hèn chi màu da ai cũng đen sậm. Tôi không
tắm nước sông nhưng hứng nắng gió nên chỉ chưa đầy chục ngày mà khi trở về nhà
mọi người đã nhận xét da tôi sao đổi màu.
Mặt nước sông phẳng lặng gần như mặt hồ. Lâu lâu mới có chiếc
đò gọi là tắc ráng với động cơ nhỏ, hoặc chiếc xuồng ba lá chèo ngang nên không
gian vô cùng yên ắng, ngưng đọng. Có bắc một chiếc cầu bằng cây bề ngang 5,6 tấc
de ra ngoài sông dài 3 mét cho chúng tôi rửa cá, giặt quần áo. Thực phẩm cá thịt
rửa cho ra bớt chất dơ rồi đổ nước ngọt rửa lại. Hàng đàn cá chốt, cá lòng tong
quanh quẩn nghe tiếng chân người động đậy bước xuống cầu là quẩy đuôi bơi lại gần.
Chỉ cần chúng tôi nhúng tay xuống nước là chúng bu lại cắn vào bàn tay rất dạn
dĩ. Chúng tôi thử dùng thau hay rổ lùa chúng ngoan ngoãn để yên cho bắt dễ
dàng. Mà lạ lùng là không ai nghĩ đến chuyện đem kho nấu, thời gian ấy các loại
cá tôm, rau muống bông súng sống trong môi trường thiên nhiên quá dư thừa, người
ta chưa ăn đến loài cá tí hon nầy.
Tôi thường nghe nói lương công nhân viên chức Cộng Sản rất
thấp (sau 2 lần đổi tiền thì giá trị càng xuống thấp) phải dè xẻn từng đồng mới
đủ trang trải cho sinh hoạt thường nhật. Nhưng các bữa ăn của ba chúng tôi do
cô Xuân-nhỏ-nhắn lãnh phần nấu nướng lại khá tươm tất so với tình trạng “bần-cùng-hoá-nhân-dân”
thời ấy. Mỗi ngày cô đón chiếc xuồng chở thực phẩm trái cây bán dọc theo sông
mua hôm thì thịt heo, hôm thì cá lóc cá rô to nhảy soi sói trong thau nước, bữa
ăn nào cũng đủ ba món canh, thịt kho hay cá chiên, kèm rau cải, dưa leo.
Cô giải thích đó là tiền của “hai ông xếp” cấp cho chúng tôi
ăn uống mà không bị trừ vào lương. Cô thường kho một nồi thịt heo nước dừa tươi
trứng vịt thật ngon ăn được vài ba buổi, quả là đế vương ở thời buổi cả nước ăn
bo bo, cơm độn khoai sắn rau muống cầm hơi- thậm chí còn không có-.
Tôi khá ngạc nhiên về sự hào phóng của anh Nhân và người hợp
tác của anh, cho rằng chắc các anh xem chúng tôi như người thân thuộc, tội nghiệp
hoàn cảnh gia đình nên bao biện như vậy. Hai cô Xuân kể ba của họ đều là sĩ
quan VNCH đang ở tù trong trại khổ sai nào đó. (Mãi sau này tôi mới hiểu vì sao
hai ông xếp lại hào phóng như thế, và vì sao cô Xuân-má-lúm-đồng-tiền tâm tánh
vui buồn bất chợt)
Nơi đây ban ngày đã vắng lặng đìu hiu thế thì ban đêm còn tịch
mịch u trầm thế nào. Hễ chiều vừa tắt nắng hàng đàn muỗi đã vo ve ùa đến. Chúng
tôi ăn cơm sớm, đóng hai cửa trước cửa sau kín mít, 7 giờ ba đứa đã chun vô
mùng tránh muỗi, đặt cây đèn dầu hột vịt ngọn leo lét trên bàn. Suốt đêm giấc
ngủ tôi cứ chập chờn bừng tỉnh từng canh bởi hai nguyên nhân, là thiếu chiếc gối
dài để ôm vào lòng mà tôi đã quen từ nhỏ tới giờ và sợ ma !!!
Như đã tả ở trên, hai chiếc giường sát vách có màn che thuộc
về hai cô Xuân, chiếc thứ ba còn lại nằm tênh hênh trống trải giữa nhà dành cho
tôi, chỉ có mùng không có màn che phủ. Hệt như trẻ con tôi rất sợ ma, cứ nằm
nghiêng quay lưng về hướng giường của hai cô gái, mặt xoay ra ngoài mắt giả vờ
nhắm không dám cục cựa lăn trở dù rất mỏi vì sợ nếu “con ma” đứng rình ở đầu
giường thấy tôi động đậy biết còn thức sẽ vén mí mùng khều lưng nhát.
Phải chi có chiếc gối ôm bên cạnh cũng an ủi biết bao.
Trong bầu không khí ảm đạm sợ sệt tôi nghĩ ngợi lẩn thẩn:
chúng tôi 3 cô gái tuổi ngoài hai mươi xuân xanh, mới rời trường học, xuất thân
từ thị tứ tự nhiên đâm đầu vào cái xứ khỉ ho cò gáy. Buổi tối ngủ trong căn nhà
lá mà cánh cửa mỏng dính khép cho có lệ, chỉ cần đạp chân hơi mạnh là bung ra dễ
dàng. Nếu ai có ý định xấu, nửa đêm mò đến giở trò đồi bại thì chỉ có nước chịu
trận chứ sao chống cự nổi, la làng cũng chẳng ai nghe. Các ông chủ sao gan quá
dám bỏ 3 đứa con gái – lúc tôi chưa đến chỉ có 2 cô – giữa đồng không mông quạnh
như vậy. Vừa sợ ma vừa nhớ nhà mới vài ngày đã thấy mệt mỏi vì đêm thiếu ngủ.
Nghĩ thầm thôi cố làm cho đủ một tháng sẽ xin anh Nhân nghỉ việc. Thà theo ông
bà ngoại ra đồng làm ruộng mà được gần gia đình, tối ngủ có gối để ôm và không
bị ma ám ảnh.
Tôi không phải chờ hết 1 tháng mới xin nghỉ việc, mà thời khắc
ấy đến sớm hơn dự định không ngờ trước.
Tuần sau, lúc 7 hay 8 g tối anh Nhân cùng người hợp tác–tôi
quên mất tên–trở lại nông trường. Đi bằng đường sông trên chiếc ghe bầu chở nhiều
vật dụng như cuốc xẻng dao rựa cây cọc v..v..cho nông trường. Hai cô Xuân ùa xuống
bến chào đón mừng vui tíu tít. Cây đèn trứng vịt được thay bằng cây đèn ống
khói to hơn mang khá đủ ánh sáng khiến gian nhà ấm áp hẳn.
Tôi cũng mừng, nghĩ nhà có đàn ông thì bớt sợ ma và kẻ gian
không dám đột nhập. Đó là đêm đầu tiên ở Lình Huỳnh tôi không sợ bóng tối, chìm
vào giấc ngủ thật sâu.
Khuya. Mơ màng nghe tiếng người rì rầm khiến tôi tỉnh giấc.
Đêm thanh vắng nên mọi động tỉnh đều vọng vang nghe rõ mồm một. Tôi dù không muốn
nhưng mọi âm thanh thật khẽ đều lọt vào tai. Tôi nghe tiếng cô Xuân-nhỏ-nhắn giọng
lúc nũng nịu lúc trách hờn lúc cười ròn rã với ông-xếp-không-nhớ-tên ở chiếc
giường cách 1 mét bên cạnh. Lâu lâu từ chiếc giường-xa-hơn ở sát vách phát ra
vài tiếng nói nho nhỏ của anh Nhân và cô-Xuân-má-lúm-đồng-tiền, chứ không ồn ả
như hai người nầy.
Không làm sao diễn tả được tâm trạng tôi lúc phát giác sự việc:
kinh ngạc, sửng sốt…tôi quyết định sáng sớm sẽ thu xếp đồ đạc đón xe trở về nhà
chứ không chờ đến lãnh lương. Mà lương gì? Từ lúc đến tôi chỉ ăn và ngủ chứ có
làm công việc của một thư ký đâu, cả cái nông trường khóm, mía cũng chả thấy nằm
ở chốn mô. Thảo nào việc ăn uống được xếp bao biện quá hào sảng.
Bứt rứt hồi lâu tôi mới ngủ lại được. Sáng dậy, hai ông xếp
đã đi ra nông trường tự tinh mơ nên tôi chưa thể xin nghỉ được.
Tưởng hai cô Xuân sẽ ngượng ngùng khi đối diện tôi. Nhưng
không, thái độ cả hai đều tự nhiên như mọi ngày, chẳng những thế gương mặt cô
nào cũng hây hây hồng, bừng sáng nét hạnh phúc. Cô thì với đôi bông tai đong
đưa tòn ten hai bên má, cô thì một sợi dây chuyền vàng quanh cổ.
Mới xa nhà có chục ngày mà tôi tưởng chừng lâu lắm.
Noel vừa qua được 3 ngày, nhớ ngày xưa dù tôi đạo Phật nhưng
thỉnh thoảng cũng đi xem lễ ở nhà thờ. Thời gian còn học ở Saigon, đêm 24 hoà
theo bạn đi bộ đến Vương Cung Thánh Đường, ra Nguyễn Huệ, Lê Lợi vòng vòng rồi
ghé nhà bạn dự tiệc nửa đêm thật vui. Bây giờ lâm vào cảnh ngộ kỳ cục với những
người hoàn toàn có lối sống khác biệt làm sao.
Buổi trưa gió bấc thổi lạnh, nghĩ đến tương lai mù mịt mà buồn
hiu hắt theo ngọn heo may. Tôi mặc thêm áo len ra ngồi trên cầu nhìn mặt sông
xanh thẳm gợn chút sóng lăn tăn. Bầy cá lòng tong, cá chốt bu lại như chào mừng.
Nhìn chúng bơi lội tung tăng trên dòng sông mênh mông nước, tôi ước gì mình hoá
thân thành cá để nương theo dòng chảy từ sông ra biển vượt thoát khỏi địa ngục
trần gian nầy.
(Đợi con sông ra biển, thơ Phạm Hồng Ân)
Đang thả hồn mơ ngày bỏ quê hương đi tìm tự do nơi đất
khách, bỗng nghe có tiếng kêu quen thuộc gọi tên mình từ trên nhà:
–Thanh Hà ơi dì Ba nè, dì Ba đến kiếm con nè.
Quay lại nhìn, thấy dì Ba tất tả bước tới, gương mặt hớt
hãi. Dì là em họ bạn dì của má, cạnh nhà chúng tôi. Linh cảm có điều gì bất thường,
sao tôi vắng nhà mới có dăm ngày dì ba đã đến tìm mà không là ai trong gia
đình?
–Ủa sao dì Ba biết con ở đây mà tìm vậy? Bộ nhà con có chuyện
gì hở dì?
Chưa kịp trả lời dì Ba đã oà khóc nức nở khiến tôi càng sợ
hãi, nhìn dì trân trối. Dì bù lu bù loa:
–Ngoại con kêu dì đi tìm, hỏi đường người ta chỉ. Tối hôm
kia Công An tỉnh vô bắt má với mấy chị em con vô tù hết rồi. Con thu xếp đồ đạc
về với dì ngay đi. Hu hu hu…
–Hả? Dì nói sao? Công an bắt má với mấy chị em con? Tôi chỉ
hỏi được bấy nhiêu.
–Họ không bắt ông bà ngoại với bé út (10 tuổi) nhưng bị đuổi
khỏi nhà, tràn vô chiếm hết đồ đạc không cho đem thứ gì ra hết. Giờ ông bà ngoại,
bé út đang sống tạm trong cái lều bỏ hoang của dì đó.
Dì kể thêm: nửa khuya có mấy chục công an tới gõ cửa xét nhà
tôi, nói có người tố giác đây là cái ổ phản động, chứa vũ khí mưu toan chống
nhà nước. Má vừa mở cửa thì chúng súng ống cầm tay tràn vào như thác lũ, kéo em
trai (vừa qua tuổi vị thành niên) hai cánh tay bị trói oặt ra sau lưng đẩy ngồi
vào một góc. Bắt má cùng các chị em gái đến ngồi cạnh không được động đậy.
Họ lục tung mọi ngõ ngách không sót một chỗ nào, sau cùng
lôi một khẩu súng từ bồ lúa, la lên tang vật đây rồi.
Má, các chị em tôi bàng hoàng không hiểu súng từ đâu mà xuất
hiện như màn ảo thuật. Có cãi chúng cũng không nghe, tên chỉ huy lạnh lùng ra lệnh
mỗi người được đem hai bộ quần áo, leo lên xe đậu sẵn ngoài đường chở thẳng vô
trại tù Khám Lớn tỉnh, kể cả đứa bé 11 tháng tuổi con của chị Ba. Chồng chị đi
công tác xa, sau bị lùng bắt nguội luôn.
Các sợi thần kinh cảm xúc trong tôi đông cứng lại, tôi như
hoá đá không phản ứng nói năng gì được. Như thể linh hồn tôi xuất ra khỏi thể
xác bay đi đâu mất. Phải. Khi biến cố vượt lên trên mọi tưởng tượng suy đoán
thì chúng ta trở thành tượng đá. Chai lì, trơ cứng. Như người máy, để mặc dì Ba
kể lể câu chuyện với hai cô Xuân, tôi vào thu dọn mấy bộ quần áo cho vào túi
xách, rồi nói mấy câu từ giã hai người đứng bàng hoàng lóng ngóng không biết an
ủi tôi như thế nào, chỉ nói là sẽ chuyển lời cho anh Nhân hay tin tức.
Tôi cùng dì Ba ra trước nhà đứng đón xe đò trở về tỉnh. Trời
xế chiều, xe hẳn đã chạy qua hết rồi. Hình như mỗi ngày chỉ có 2 chuyến đi và 2
chuyến về. Chờ khá lâu không thấy chiếc xe nào chạy qua, tưởng phải ngủ đêm lại
thì may thay có một chiếc xe máy cày hạng nặng kéo theo sau rề-mọt (remorquer)
nặng nề trờ tới, trên xe có một anh cầm lái và hai thanh niên nữa. Thấy chúng
tôi đứng lủi thủi bên vệ đường gương mặt thất thần. Chắc nhìn cặp mắt chúng tôi
như van nài nên họ tử tế dừng lại cho chúng tôi quá giang về tỉnh.
Nơi tạm trú của ông bà ngoại và em gái út nguyên trước kia
là căn nhà bà dì Tư sinh sống (là em bà ngoại tôi, là má của dì Ba) gần nửa thế
kỷ. Nay chỉ còn hai vách lá hai bên, đằng trước bằng ván vụn ghép méo mó, cánh
cửa lệch lạc, đằng sau trống hoác trống huơ. Mái lợp bằng lá dừa nước thủng lỗ
chỗ, có mấy tấm lá mục nát đong đưa chực chờ cơn gió hay mưa là rơi hẳn xuống đất.
Cột kèo mối mọt chỉ xô nhẹ đủ lắc lư, sợ quá gia đình dì bỏ hoang, cất nhà khác
ở mảnh đất phía sau. Nhờ vậy mà ông bà ngoại và em út tôi mới có nơi nương náu.
(Tự trào để an ủi rằng tháp Pise của Ý xây từ thế kỷ 12, sau 9 thế kỷ tức phải
900 năm mà “chỉ nghiêng chưa được 4 độ”, còn cái “tháp lá” của dì Ba mới nửa thế
kỷ đã nghiêng 10 độ, chiếm kỷ lục về độ nghiêng hơn tháp Pise còn gì nữa)
Gặp lại ông bà ngoại gương mặt còn hằn nét kinh hãi thất thần
ngồi thu lu trên bộ ván trong nhà hoang xiêu vẹo. Tia nắng vàng vọt buổi chiều
còn sót lại chiếu lên hình hài ba sinh linh hai già, một trẻ nít. Bé út 11 tuổi
vô tư ngồi cạnh mở tập ra học bài*. Vài cái nồi, xoong đặt cạnh lò đất và củi vụn.
Tô chén đũa đựng trong rổ đan bằng tre. Mùng mền, ba bọc quần áo của ông bà ngoại
và em út xếp ngay ngắn đựng trong bọc ni-lông đặt trên bộ ván mà dì Ba mang cho
mượn làm nơi sinh hoạt ban ngày và ngủ ban đêm. Cảnh tượng tiêu điều giờ mới
khiến tôi chạnh lòng tuôn rơi nước mắt.
*Nhắc một chút về em gái út.
Bé đang học lớp 5 chuẩn bị thi vào trung học, là con út được
cả nhà cưng chiều nhưng khôn lanh ngoan ngoãn. Cách đó hai năm bé vẫn còn ôm
chai sữa bú bình mỗi ngày hai lần sáng tối, mặc ai trêu chọc vẫn không mắc cỡ,
cho đến ngày 30 tháng tư năm 75 là tự động dứt hẳn. Nguyên do đúng rạng sáng
ngày ấy Việt Cộng tấn công vào xóm nhà tôi, không biết thế nào mà 1 đầu đạn bay
lạc ghim đúng vào lon sữa bột Guigoz của bé – thương hiệu sữa Pháp phổ biến thời
ấy-.Thế là bé dứt khoát không bú sữa lẫn uống nữa dù má thuyết phục bé uống bằng
ly cho hết số bột sữa còn lại.
Nghe kể mọi người chung quanh nói ba má các chị nay vào tù hết
rồi, thôi em nghỉ học đừng đến trường nữa, nhưng em không đồng ý vẫn sáng sáng
ôm cặp đến lớp không bỏ buổi nào. May mắn là cả trường biết chuyện nhà tôi
nhưng tất cả thầy cô bạn bè đều thương yêu thông cảm, em không bị kỳ thị tị hiềm.
Tôi khen sự suy nghĩ chín chắn của em gái 11 tuổi dù gia cảnh lâm vào bước đường
cùng cũng theo đuổi việc học hành. Em là một trong các học sinh giỏi của lớp,
tiếc thay khi tốt nghiệp trung học em nộp đơn thi vào đại học bị từ chối. Ba
tôi ở tù về, thường lập đi lập lại nhiều lần với em :
–Ba xin lỗi con chỉ vì lý lịch của ba mà tương lai con và
các chị con tăm tối.
Nghe mà nát tan cõi lòng. Ba ơi, ba đâu có lỗi gì.
Qua lời kể của ông bà ngoại và em út, chúng không bắt ông bà
ngoại và em vào tù cũng chưa vội đuổi khỏi nhà ngay vì trưa hôm sau còn phải chứng
kiến một màn diễn đớn đau như dao cứa tâm can nữa. Xong rồi mới “nhận ân huệ” dắt
díu nhau rời hai tổ ấm mà một căn nhà do mồ hôi công sức của ngoại chắt chiu
xây dựng nên, để đóng cho trọn vai trong tấn-bi-kịch-ngoài-đời nầy.
Trưa hôm sau, hơn chục công an tỉnh chở em trai tôi hai tay
bị còng sau lưng về lại nhà. Hạ nhục bằng cách bắt ngồi bẹp dưới đất ngoài hàng
hiên bên cạnh là cây súng lấy từ bồ lúa để chụp hình quay phim. Hàng xóm hay
tin đổ xô lại, một số đứng lố nhố ngoài cổng, số lấp ló bên sân nhà họ ngó
sang. Vừa chụp hình quay phim vừa thuyết trình khoe thành tích là mới tóm cổ
tên phản động. Bé út kể rằng anh trai nói khát nước, út múc một ca nước mưa
mang lại kê vào miệng cho anh uống. Bà ngoại năn nỉ chúng mở còng tay cho em ăn
chút cơm. Lúc đầu chúng từ chối, ngoại năn nỉ tiếp. Thấy nhiều người dân chứng
kiến nên chúng buộc phải đồng ý, vẫn còng tay nhưng ra đằng trước mặt. Tôi
không nghĩ chúng sợ em tôi trốn thoát giữa vòng vây của chúng mà là một cách nhục
mạ người mà chúng vu vạ là tội phạm.
Bé út bới tô cơm với ít cá kho đưa cho anh trai. Nhìn cảnh
hai tay của em trai bị còng, run rẩy vì đói bưng tô cơm nguội múc từng muỗng
đưa lên miệng khó khăn bởi vướng víu chiếc còng sắt. Những người chứng kiến kín
đáo đưa tay quệt nước mắt, các phụ nữ lớn tuổi không ngăn được khóc thành tiếng
vì cảnh tượng thương tâm.
Sau trò quay phim chụp ảnh, công an tỉnh chở em tôi quay lại
trại tù. Thì đến phiên công an quận ra uy, đuổi ông bà ngoại và em út ra khỏi
nhà, cho mang ít nồi niêu mùng mền vài bộ quần áo. Nếu không nhờ ngôi nhà hoang
của dì Ba bên cạnh thì không biết ngoại và em tôi sẽ lang thang nơi nào.
Nghĩ lại, không biết tôi có thiên thần hộ mạng hay chỉ là sự
ngẫu nhiên mà từ lúc miền Nam đổi chủ anh Nhân không hề tới lui thăm viếng cho
đến hai năm rưỡi sau – tháng 12-1977 – tự dưng xuất hiện rủ chị Hai tôi đi làm
xa. Nếu anh đến trễ thêm vài ngày thì tôi cũng đồng số phận nếm cơm tù Khám Lớn
Rạch Giá cùng với gia đình.
Rốt cuộc tôi thay thế chị Hai đi làm xa nên thoát cảnh tù tội
trong câu chuyện gây tiếng vang lớn ở cái quận quê nhà, bay xa tới tận hàng tỉnh
và cả vài vùng phụ cận, ai nghe thảy đều rúng động, xôn xao truyền tai nhau một
thời gian khá lâu.
Cậu em họ con của dì Ba (nhắc ở trên) kể là cậu vào quán uống
cà phê thì nghe người ngồi bàn bên cạnh oang oang kể cho cả quán chuyện gia
đình tôi, mà không biết cậu là em họ tôi và ở sát cạnh nhà, rằng:
–Nhà đó toàn là con gái trẻ mà không ngờ là những kẻ phản động
gan trời, dám chôn đầy nhóc 1 hầm vũ khí, giết công an rồi giấu quần áo
trong nhà ghê gớm thật!
Số là má tôi có lãnh hàng may từ nhiều năm, kiếm thêm chút
thu nhập. Má rất khéo tay, may được đủ các kiểu quần áo từ đơn giản cho đến áo
dài, âu phục…kể cả chỉnh sửa quân phục mới lãnh quá rộng cho các quân nhân (thỉnh
thoảng đơn vị đến xóm tôi đóng tạm thời gian chờ đi hành quân), má tôi tháo ra
cắt may lại cho vừa kích cỡ.
Xóm tôi có một anh gia nhập vào ngành công an, biết má tôi
may khéo nên đem đồ cho má sửa. Chưa kịp chỉnh sửa thì tai hoạ ập đến. Sau nầy
má kể lại lúc ở tù, họ tịch thu, điều tra về bộ đồ công an kỹ lưỡng.
Thế là từ 1 cây súng biến thành nguyên hầm vũ khí
Một bộ đồ công an biến thành giết chết công an.
Câu chuyện được thêu dệt với tình tiết quả ly kỳ. Thật cay độc
miệng lưỡi con người.
Họ còn tưởng tượng em trai tôi sẽ hoặc bị tử hình hoặc bị
đày Côn Đảo.
Cho nên tôi không trách móc người thân thuộc họ hàng đều sợ
hãi xa lánh, lỡ gặp nhau ngoài đường họ lấy nón lá che mặt lại. Số người dám
chào hỏi thăm viếng đếm không hết hai bàn tay.
Tôi không vào tù, ở ngoài trách nhiệm tôi càng nặng, vì phải
tìm kế mưu sinh chắt chiu từng đồng mỗi cuối tuần chuẩn bị hai giỏ thức ăn gởi
vào Khám Lớn: một cho bên phụ nữ, một cho em trai bị nằm cát sô trong phòng tối.
Ngoài ra mỗi tháng mang một giỏ lặn lội theo con đò nhỏ đi U Minh Thượng thăm
nuôi ba tôi nữa.
Việc làm thư ký cho nông trường của anh Nhân ở Lình Huỳnh-Kiên
Lương chấm dứt. Anh Nhân không dám giữ tôi nữa, mà nếu anh có ý ấy tôi cũng từ
chối, bởi quá kinh hoảng chuyện hai ông sếp “vui vẻ” với hai cô Xuân kia rồi.
Tuy nhiên tôi phải mang ơn anh đã có lòng tốt tặng tôi một tháng lương để lo
thăm nuôi ba má chị em đang ở tù. Ơn nầy tôi luôn ghi nhớ.
Má và các chị em tôi ở tù khoảng ba tháng thì họ tha về, bởi
biết chúng tôi vô tội. Hơn nữa thời gian nầy số người vượt biên bị bắt giam đã
quá tải không chỗ chứa. Nếu má không về sớm, tôi không biết làm gì để có tiền
mua thức ăn thăm nuôi sau khi xài hết tháng lương anh Nhân tặng và bán sợi dây
chuyền vàng 18 mỏng manh. Tôi có thử làm bánh ướt, bánh chuối nướng…nhờ người
dì út bưng bán quanh xóm, họ thông cảm cho cảnh ngộ nên mua ủng hộ vài lần rồi
thôi, hàng ế tôi ngưng luôn chuyện buôn bán.
Em trai tôi bị đưa xuống U Minh Thượng làm khổ sai thêm hai
năm, ở khác khu với ba tôi người đã ở lâu hơn, 7 năm.
Tôi luôn tin vào sự phù hộ độ trì của Đấng Thiêng Liêng: Phật,
Chúa, Thánh Thần…
Nguyên ông bà ngoại có sở hữu mấy mẫu ruộng, năm ấy chưa bị
xung vào Hợp Tác Xã nên chúng tôi không lo đói. Trước đêm công an vào bắt và
chiếm nhà thì lúa chín được gặt xong còn chất đống ngoài đồng định hôm sau sẽ đập
lấy hột mang vào chứa trong bồ ăn dần. Nhờ vậy số lúa nầy không bị tịch thu,
chúng tôi mất hết gia sản nhưng vẫn có gạo để ăn. Một chị hàng xóm tốt bụng cho
mượn cái máy may để má tôi nhận hàng về may kiếm chút tiền tiếp tục thăm nuôi
ba và em trai.
Sau khi em trai ra tù vài tháng, em cùng nhóm bạn thân hùn
nhau mua nhiên liệu thức ăn liều mình vượt biển dù ngay mùa mưa bão tháng 9.
Trên đường đi gặp hai lần hải tặc và một lần bão tưởng gởi thân dưới lòng đại
dương, nhưng đều vượt thoát. Qua đến đảo Pulau Bidong bị cảnh sát Mã Lai bắt
lên bãi biển phát cho mỗi người một cái xẻng tự đào hố cao tới cổ rồi bảo tất cả
vào đứng. Em nghĩ thầm: “Chắc chúng định chôn sống tụi mình đây, phen nầy chắc
chết”. Thì đúng lúc phái đoàn Canada vừa tới đảo nhận người tị nạn, chứng kiến
cảnh ấy họ liền đón nhận hết cả nhóm. Em chỉ ở đảo đúng hai tuần lễ là được
chuyển tiếp đi định cư nơi xứ lạnh tình nồng, bỏ lại những lao lung khổ nạn sau
lưng, làm lại cuộc đời yên ấm cho đến hôm nay nửa thế kỷ.