Chiếc ghế đá hầu như rất quen thuộc, dù nó cũng như mọi chiếc
ghế khác trong công viên. Tháng Sáu. Bầy ve kêu inh ỏi. Chúng vô tư thật!
Đoan ngồi xuống. Mấy buổi chiều nay, tan học, Đoan ghé khu vườn rộng lớn này, như một người trở về, cảm giác thật khó tả. Chợt nghe trong đầu vẳng lại lời của một bài thơ:
Đoan bùi ngùi. Bây giờ cửa vườn đã mở. Những hàng cây thật
cao đứng yên như thuở nào. Nhưng cảnh đời không còn như xưa.
Một người trông quen quen đang đi về phía Đoan. Đoan nhận ra
là Chân, người làm cùng sở với chị Thúy, có đến nhà một lần. Đoan gật đầu chào,
tưởng anh ấy sẽ đi tiếp. Nhưng anh dừng lại, nói:
“Xin lỗi Đoan, tôi có thể ngồi nói chuyện với Đoan không?”
Đoan hơi ngạc nhiên, nhưng rồi gật đầu, vì phép lịch sự:
“Dạ, anh cứ tự nhiên.”
Đoan xích qua một bên cho rộng chỗ. Chân ngồi xuống, và mở đầu
bằng câu hỏi thăm:
“Trường lớp có gì lạ không Đoan?”
“Dạ, cũng có nhiều thay đổi, nhưng sau thì cũng quen rồi ạ.”
“Đoan vẫn viết văn?”
Câu hỏi rất bình thường nhưng khiến Đoan giật mình. Đoan im
lặng vài giây, rồi đáp:
“Dạ không.”
Chân gật đầu:
“Tôi cũng đoán được.”
“Cám ơn anh.”
Chân hơi hạ thấp giọng:
“Thật ra, tôi là người rất mến mộ các tác phẩm của Đoan.”
“Vậy sao? Đoan chỉ là người viết cho tuổi học trò, không có
gì to tát đâu anh.”
“Với tôi thì có. Tôi thật lòng mà nói như vậy. Và tôi hiểu,
khi biết Đoan ngừng viết. Đoan không phải là người chỉ viết cho chính mình đọc.
Đoan viết bài thì phải đăng bài, phải xuất bản. Tâm tư của Đoan là tâm tư của
người đọc.”
“Cám ơn anh đã hiểu.”
“Cho nên… tôi thấy tiếc quá!”
Chân thở dài. Bỗng dưng Đoan lại nói như an ủi Chân:
“Không sao đâu anh! Đã có nhiều thứ mất mát to lớn quá, làm
mình không nhớ tới cái mất mát của riêng mình.”
Hai người im lặng một lát. Tiếng ve bỗng rộn lên như một ban
nhạc bắt đầu hòa tấu, như thể muốn làm chất xúc tác cho một đề tài mới. Khi
Đoan định từ giã thì Chân lên tiếng:
“Đoan à, không phải tình cờ mà tôi gặp Đoan hôm nay. Thật ra là…”
“Sao ạ?”
“Thật ra tôi có hỏi
thăm và được chị Thúy cho biết Đoan sẽ ra đây, nên tôi cố tình tìm gặp Đoan.”
Như đã bắt đầu được
dễ dàng rồi, Chân nói, giọng đều đều:
“Đoan không biết
nhiều về tôi, nhưng tôi thì tìm hiểu Đoan qua chị Thúy, và có thể nói là tôi mến
Đoan qua những tác phẩm của Đoan. Tôi thành thật muốn làm bạn với Đoan…”
“Dạ, anh là bạn của
chị Thúy thì cũng là bạn của Đoan rồi!”
“Không, tôi muốn…
hơn một người bạn bình thường.”
“Đoan chưa hiểu ý
của anh…”
“Chân yêu Đoan.”
Đoan chớp mắt, bỗng
như nghe thấy một điều xa lạ. Sao mình lại không có cảm xúc nào hết? Câu nói bất
ngờ của Chân như một câu hát không có nhạc đệm. Đoan ngồi im như bức tượng…
Gió xào xạc lá
cây trên cao, như kéo Đoan về thực tại. Đoan tìm lời để đáp lại vẻ chờ đợi của
Chân:
“Dạ… cho Đoan xin
lỗi. Có lẽ lúc này Đoan chưa thể tiếp nhận được điều gì. Xin anh đừng buồn.
Anh có thể nghĩ là Đoan lạnh lùng cũng được. Nhưng Đoan không thể… Nếu anh yêu
Đoan qua văn của Đoan thì e rằng chưa thực tế lắm, và Đoan cũng khó đáp ứng được
với tình cảm của anh dành cho Đoan. Xin anh cho Đoan giữ ở mức bạn bè bình thường
được không?”
Nét mặt của Chân
lộ vẻ thất vọng. Đoan đứng lên, chào từ giã. Đoan không dám nhìn lại Chân. Đoan
thấy mình hơi tàn nhẫn. Đoan loay hoay tự hỏi, tại sao lại có một sự tỏ tình giữa
lúc này? Còn nữa, đơn giản là mình phải thấy vui khi có người nói mến mộ mình,
nhưng tại sao lại không vui? Đoan tự trả lời:
“Vì mình đã buông
bút.”
Nắng sắp tắt. Khu
vườn tối dần. Những hàng cây vươn những cánh tay dài lên bầu trời. Tạm biệt vườn
xưa đầy kỷ niệm của tôi.
2
Đoan kể cho chị
Thúy nghe, và thú nhận rằng mình không có cách cư xử nào khéo hơn để Chân không
buồn. Phải chăng Chân đã xuất hiện không đúng lúc? Đoan lắc đầu, tự nhủ mình
không có lỗi. Trong những ngày tháng hỗn mang này, lòng người còn choáng váng
trước những thay đổi và mất mát lớn lao, cảm xúc riêng tư như không có chỗ.
Nhưng cũng chính sự xuất hiện của Chân khiến Đoan bừng lên sự mong mỏi được
nhìn thấy Thắng. Thắng không ở trong đoàn người tản cư. Thắng không có mặt
trong số những thương binh bị đuổi ra khỏi quân y viện. Thắng không tìm về gặp
Đoan. Không có cách nào để liên lạc với Thắng nữa. Thắng như đã biến mất.
Đoan chơi vơi
trong cảnh ngộ đổi đời. Hàng ngày vẫn đến trường nhưng không có lớp chuyên môn,
chỉ có họp tổ thảo luận chính trị. Bạn bè trong lớp vắng mặt gần một nửa. Những
anh chị “tổ trưởng” hùng hồn với những bài thuyết cách mạng. Rồi thì “phê và tự
phê” trong tổ như cơm bữa. Đoan muốn bớt căng thẳng chỉ có cách ra công viên mỗi
chiều sau giờ tan học, ngồi ở ghế đá, tìm lại chút cảm giác êm đềm. Nơi này,
trước đây, cũng là chỗ Đoan cùng Thắng tìm một chút tĩnh lặng hiếm hoi trong những
ngày thành phố bắt đầu chộn rộn với những dòng người di tản từ các nơi về. Cánh
tay bị thương của Thắng vẫn còn băng bột, treo ngang trước ngực. Vì là thương
binh nhẹ nên Thắng xin bệnh viện cho ra ngoài mỗi thứ Bảy. Hai anh em, lúc thì
chuyện trò không ngơi, lúc lại cùng yên lặng, lắng nghe tiếng lá xào xạc cùng
gió. Hai anh em, vâng, chỉ như hai anh em.
Lần cuối Đoan gặp
Thắng là ở quân y viện. Cánh tay trái băng bột vẫn treo ngang trước ngực. Thắng
đã bị thương biết bao lần. Sau khi vết thương lành, Thắng lại ra mặt trận. Thắng
nói không biết mình hên hay xui. Thắng thường nhắc đến những người bạn của
mình, có người phải bỏ hẳn một phần thân thể; có người đã chôn sâu trong đất.
Cũng là lần cuối
trong bệnh viện, Thắng và Đoan chuyện trò rất lâu nơi hành lang phòng bệnh mát
rượi. Khi trở vào, Thắng lấy từ dưới chiếc gối một quyển sổ, bìa
hơi dày, giống như những quyển “Lưu bút” của học trò trung học, khoe với Đoan:
“Đây là tập bản
thảo những bài anh viết sau mỗi chuyến hành quân.”
Đoan vui mừng:
“Cho Đoan xem được
không?”
“Chưa. Bao giờ viết
đầy quyển sổ này, anh sẽ cho Đoan xem. Không chừng sẽ nhờ Đoan mang đến nhà xuất
bản.”
“Ôi, hay quá!
Đoan sẽ tình nguyện đem tới nhà xuất bản. Đoan có được làm người đọc đầu tiên
không?”
“Nhất định rồi!
Còn ai vào đây?”
Thắng lướt bàn
tay lật nhanh những trang giấy, rồi lại cất cuốn sổ xuống dưới chiếc gối. Đoan
kịp nhìn thấy, ở trang đầu tiên, tấm ảnh của cô bé mặc áo dài màu vàng, ngồi
trên chiếc xe Cady cũng màu vàng.
3
Hai chị em đi họp
ở trụ sở phường để nghe chính trị, dành cho thanh niên trong các khu xóm. Mấy
chục người đứng trong một khoảng sân rộng, từng là nơi tập trung các sách báo của
thời trước để đốt. Hai chị em nhìn nhau, cùng một ý tưởng, nghĩ về những quyển
sách mà mình đã cố ý giữ lại. Trong đó, có những quyển sách đã xuất bản của
Đoan.
“Cán bộ” đứng trước
micro, nói thao thao bất tuyệt về một đề tài không còn mới: giáo dục thanh niên
theo chủ nghĩa xã hội. Tiếng loa rè rè nghe khó chịu. Nhìn quanh, thấy không mấy
ai lắng nghe. Việc phải làm thì phải làm, cũng y như vào công sở hay trường học
đều phải dự những buổi nghe như thế. Những buổi nghe mà khi ra về ai cũng còn
duy nhất một điều để nhớ: “Hầu hết mọi người đều có tội.” Quân nhân có tội.
Công chức có tội. Thầy giáo, bác sĩ, người bán hàng… cũng có thể có tội. Nói
chung, ai sinh ra và, hoặc, sống ở Miền Nam, đều có thể có tội. Nhìn quanh,
không biết có mấy ai đồng ý, mấy ai không đồng ý. Đoan chợt thương xót họ,
thương xót mình. Con người không thể sống ẩn tàng dưới lòng đất như loài ve mấy
năm hay mười mấy năm. Con người vẫn phải sống tiếp, dưới ánh mặt trời, phải đối
diện với những cảnh ngộ hàng ngày.
Chân gửi đến Đoan
một bức thư theo đường bưu điện. Bên trong, là một tờ giấy “pelure” màu xanh, gấp
làm đôi, không có một chữ nào. Đoan cho chị Thúy xem. Chị Thúy thở dài:
“Anh chàng này
thành thật lắm đó! Rất tiếc!”
Tờ giấy màu xanh
không có chữ viết trên đó, cũng là nói lên nhiều điều. Đoan cảm thấy ái ngại.
Nhưng biết làm sao hơn? Thôi thì cứ để thời gian trả lời cho Chân vậy. Cũng như
mọi người đang sống, chờ thời gian trả lời câu “Biết ra sao?”
Thế rồi, lại cũng
nhờ Chân, nhờ bức thư của Chân, khi Đoan ngồi thừ nhìn phong bì, bỗng liên tưởng
đến một địa chỉ. Đúng ra, chỉ là một cái tên đường. Nhiều lần, trong khi trò
chuyện, Thắng đã tình cờ nhắc đến tên đường nhà mình, nhưng không nói đến số
nhà. Đoan đứng bật dậy. Mình chưa bao giờ biết đến con đường này. Nhưng mình sẽ
đi tới đó.
4
Đường Mai Hắc Đế,
quận Tám. Đoan theo bản đồ, tìm được rồi! Đạp xe đạp, chạy thong thả, chắc sẽ đến
nơi. Dọc theo Bến Bình Đông, nơi tấp nập những người phu khuân vác mang hàng từ
dưới thuyền lên các kho trên bờ. Họ đi trên những tấm ván dùng làm cầu, nhún nhảy
theo bước chân. Càng đi, cảnh vật càng giống ở thôn quê. Đoan đi qua mấy chiếc
cầu gỗ cao ngất, phải dắt xe đi chứ không đạp lên nổi. Thắng đã có một nơi ẩn dật
sau những ngày hành quân.
Đường Mai Hắc Đế
không dài. Mình hỏi từng nhà, chắc sẽ tìm ra nhà của Thắng.
Nhưng không phải
mất công nhiều. Đoan nhìn thấy ở trước một ngôi nhà, một hình ảnh đập vào mắt,
khiến Đoan vụt nhớ lại trong một giây. Một chiếc xe lăn! Một người thanh niên
ngồi trên chiếc xe lăn! Thắng có lần nói về cô em gái của Thắng lấy chồng
thương binh. Đoan nghe tim mình đập nhanh. Chẳng lẽ là đây?
Đúng là nhà của
Thắng. Thắng ở cùng cha mẹ và các em của Thắng trong nếp nhà này. Chỉ cần nói
mình là bạn của Thắng, Đoan đã nhận được sự vồn vã ân cần của mọi người.
Thắng không có
trong nhà. Nhưng Lan, em gái của Thắng, có nét mặt giống hệt anh mình, tiếp
chuyện Đoan. Đoan thỉnh thoảng lén nhìn người chồng của Lan, rồi nhìn Lan, với
lòng khâm phục. Mới gặp lần đầu nhưng Lan đã tỏ vẻ thân thiết với Đoan ngay.
Lan mời Đoan vào phòng, nói:
“Em muốn gửi chị
cái này.”
“Gì vậy Lan?”
“Lẽ ra là em giữ
cho anh Thắng. Lần về nhà gần đây nhất, tuy chưa được xuất viện vì vết thương
chưa lành, nhưng anh Thắng nói anh muốn để những thứ quý báu ở nhà, vì tình
hình xem ra không mấy yên ổn. Anh cũng vào lại bệnh viện để được khám vết
thương hàng ngày. Rồi thì sau ngày ba mươi, anh không về nữa. Bây giờ thì không
còn tin tức gì. Bạn bè của anh cũng chịu thua. Gia đình chỉ còn biết chờ đợi,
mong anh trở về hoặc nhắn tin. Cái mà em muốn giao cho chị, là quyển sổ này, tập
bản thảo của anh Thắng.”
Đoan giật mình. Tập
bản thảo! Quyển sổ mà Thắng khoe với Đoan lúc ở trong bệnh viện!
“Sao Lan nghĩ là
giao lại cho chị? Anh Thắng có dặn không?”
“Anh Thắng không
dặn. Anh chỉ nói rằng anh hứa cho Đoan là người đọc đầu tiên. Bây giờ em đã gặp
chị rồi, em sẽ giao lại cho chị. Anh Thắng về chắc cũng không rầy em đâu!”
“Cám ơn Lan. Chị
sẽ giữ gìn thật kỹ cho anh Thắng.”
5
Tập bản thảo! Thắng
thường viết trong những lúc xa nhà. Những người lính mang cuộc sống của mình
vào văn, thơ, nhạc. Nhưng có mấy ai được biết đến? Có mấy ai được người ta biết
đến tác phẩm của mình như Phạm Lê Phan, như Phạm Văn Bình? Đoan đã từng đọc, từng
ngâm, từng hát thuộc lòng tác phẩm của họ. Nhưng chưa bao giờ Đoan được đọc tác
phẩm của Thắng. Những người lính thực thụ từng viết về những gì họ sống. Chiến
tranh đã nhuốm đầy tác phẩm của họ. Người ta nói, đi trận hoài, làm gì có thì
giờ để viết văn, làm thơ? Vậy mà họ đã viết. Họ viết rất nhiều. Có người, khi nằm
xuống, dưới đáy ba-lô còn nguyên tập bản thảo chưa hề có ai đọc. Đoan đã từng
có những tác phẩm được xuất bản, để rồi bị cấm, bị đốt, hoặc được lén lút giữ lại
trong các ngăn tủ gia đình, như báu vật. Viết văn, làm thơ, đã như là định mệnh
của một số người. Có người được độc giả đón nhận, cảm mến, yêu! Có người mãi
mãi không ra mắt được tác phẩm của mình.
Ngồi yên lặng,
Đoan mở giỏ xách, lấy ra quyển sổ của Thắng. Trông như những quyển “Lưu bút” của
học sinh trung học. Rưng rưng cảm động, Đoan biết nét chữ này quen, những chuyện
Thắng viết cũng sẽ rất quen, nhất là những bức thư Thắng viết từ Khánh Dương
trong những ngày rút quân, gửi về cho Đoan. Cảm động hơn nữa, mình được là độc
giả đầu tiên.
Đoan mở trang đầu.
Dòng chữ Thắng viết hoa, to, đậm, như thể là tựa đề cho tác phẩm của mình: “Cám
Ơn Người Yêu Dấu.”
Bên dưới dòng chữ
ấy là tấm ảnh của Đoan cho Thắng vào mùa hè năm 1972, mặc áo dài màu vàng, ngồi
trên chiếc xe Cady cũng màu vàng.
Cam Li Nguyễn
Thị Mỹ Thanh
(Trích Chuỗi
truyện ngắn “Những Ngày Nắng Vỡ”)