Nhà văn Trần Vũ nói rằng, ông sống ở Pháp trên 30 năm nhưng chẳng bao giờ thấy một bài thơ của nhà thơ đương thời nào đăng trên báo hay tạp chí, kể cả những tạp chí văn chương. Buồn ghê, lẽ nào thơ đã chết! Ừ, người ta đã chôn cất nàng thơ ở Pháp, và có thể nàng cũng đang hấp hối ở nhiều nơi khác trên thế giới. Trừ ở Việt Nam Người Việt rất yêu thơ. Có người tự hào rằng nước mình là “nước thơ”. Tâm hồn của một người Việt bình thường rất nhiều lần xốn xang, thổn thức vì thơ, thậm chí ai cũng có đôi lần làm thơ trong đời. Có người vì đang yêu say đắm mà làm thơ. Có người vì thất tình mà làm thơ. Thi hỏng ư? Làm thơ. Cảm thương vợ sớm hôm tần tảo mom sông ư? Làm thơ. Giận chồng đèo bòng mối tình nào khác ư? Làm thơ. “Hôm nay trời nhẹ lên cao / Tôi buồn không hiểu vì sao tôi buồn. [*]” ư? Cũng làm thơ! Chán mình ghê, thì thơ tự trào! Thương mình quá, thơ tự thán! Đứng trước đất trời mênh mông, làm vài câu ngũ ngôn tả cảnh. Lòng mình chiều hôm sao đìu hiu quá, làm một bài thất ngôn tả tình. Giận đời quá văng tục, thì thơ tự do, chữ nghĩa cũng đen như mõm chó. Không dưng thấy đời ô trọc, bốn câu tứ tuyệt thơ đạo thênh thang. Thương ngọn cỏ bồng lắt lay trong gió, một bài lục bát thơ thiền… Nếu thống kê những lý do khiến người ta làm thơ thì nhiều vô cùng. Nguồn nguyên liệu cho thơ là kho tàng vô tận. Vậy mà, nàng thơ Việt hấp hối ư? Còn khuya!
Ờ, tuy chưa chết nhưng thơ Việt Nam không còn hấp dẫn người
đọc bình thường như đã từng. Đâu rồi những thiếu phụ ngồi đong đưa võng sau hè,
thổn thức theo từng dòng “Lỡ bước sang ngang” của Nguyễn Bính. Đâu rồi các cô cậu
thanh niên chép vào lưu bút hay thư tình những bài thơ yêu đương tuyệt đẹp của
Nguyên Sa. Có nhiều nguyên cớ cho sự thờ ơ với thơ. Ngoài việc thơ không thể cạnh
tranh nổi với các phương tiện giải trí hiện đại khác như truyền hình, điện ảnh,
internet… ra, thì nhịp sống thúc hối của thời đại không cho phép người ta có một
khoảng thời gian yên tĩnh để nhâm nhi từng con chữ ngân nga trong hồn. Nhưng
nguyên cớ quan trọng nhất là do các nhà thơ xa rời người đọc, hay người đọc
không còn tìm được sự chia sẻ đồng điệu với nhà thơ. Có nhiều nhà thơ, ba mươi
năm trước thi hứng của họ là ô mai, là sân trường, là mây cao, là trăng non, là
gió nhẹ… thì bây giờ vẫn vậy. Nàng thơ của họ vẫn y nguyên những áo xống, phấn
son của cảm xúc, vần điệu, chữ nghĩa của mấy mươi năm trước đó. Nàng thơ không
chịu già đi với thời gian. Nàng vẫn õng a õng ẹo, nhí nha nhí nhảnh, mãi mãi
không chịu trưởng thành khi cuộc đời không dừng lại một chỗ. Có lúc ta gặp nhà
thơ đau đời, đau nhân tình thế thái. Chàng – hay nàng – uống rượu, xáng chén, vỗ
bàn, thậm chí tuốt cả gươm, dĩ nhiên chỉ tuốt gươm trong thơ. Mà bạo lực trong
thơ thì vô hại. Đọc xong vài dòng, thấy ớn quá, thì ta bấm chuột qua mục khác
hay lật ngay sang trang khác, hoặc cho vào bếp lửa, là xong.
Hầu như nhà thơ chỉ còn đọc thơ của mình, hay thảng hoặc đọc
của nhau – những nhà thơ đồng bọn. Thường, một thi phẩm chỉ còn 2 độc giả: một
là chính tác giả, hai là người bị tác giả gởi bài thơ đến tặng, kẻ bị nhà thơ…
truy sát.
Thế nhưng người ta vẫn mê thơ, vẫn hùng hục làm thơ. Sân
chơi của các nhà thơ trong nước là các hội thơ, các câu lạc bộ thơ ở những địa
phương. Đủ cấp. Từ cấp xã, phường lên cấp huyện, rồi cấp tỉnh, rồi đến cấp
trung ương. Từ câu lạc bộ thơ phường Đoàn Kết, đến câu lạc bộ thơ huyện Vĩnh
An, đến câu lạc bộ thơ tỉnh Hưng Yên, chẳng hạn. 90% thành viên của các câu lạc
bộ này là giới cán bộ đã hưu trí. Có nơi họ phải đóng hội phí hằng tháng. Phong
trào làm thơ phát triển ngang ngửa với phong trào tập dưỡng sinh nên được gọi
là “thơ dưỡng sinh”. Điểm cuối, cũng là đích nhắm cho sự nghiệp của nhà thơ là
tấm thẻ hội viên Hội Nhà Văn. Nhiều người, thường ở miền Bắc, nghĩ rằng nếu
chưa sở hữu được tấm thẻ ấy thì chưa là một nhà thơ thành danh. Tấm thẻ hội
viên Hội Nhà Văn mang lại sự nể vì, niềm vinh quang, cho cả một dòng tộc, hơn cả
một văn bằng tiến sĩ. Làng xóm nhìn nhà thơ với ánh mắt vừa dè chừng vừa ngưỡng
mộ kẻ có chữ. Tấm thẻ rõ ràng có tác động nhất định với chính quyền địa phương
trong sinh hoạt đời sống. Nhà thơ bá vai, cụng ly với giới quyền chức là chuyện
thường, rồi tất nhiên, việc trả lễ là những bài thơ cúng cụ, nâng bi. Xin giấy
phép để lên lầu cho ngôi nhà ư? Chuyện nhỏ, bảo thư ký phường chứng ngay cho đồng
chí nhà thơ! Xin cho con vào trường mẫu giáo ư? Nhà thơ không phải lo, để chúng
em sắp lớp cho bé. Ngoài ra, còn khoản nhuận bút do các tờ báo đăng thơ trả,
tuy không nhiều nhưng cũng là tiền. Từ đó, cái danh “nhà thơ quốc doanh” ra đời,
cái danh mà người ta vừa khinh, vừa gờm. Có khi nhà thơ nhận thẻ hội viên ở Hà
Nội về thì cả họ phải hạ bò để làm một cái lễ rước, rước thẻ, tấm thẻ được đặt
trên một cái mâm phủ nhiễu đỏ như một thứ linh vị trong lễ bái tổ vinh quy của
các ông tú, ông cử ngày xưa. Khi việc in ấn trở nên tốn kém và chật hẹp thì sân
chơi thơ được mở rộng một không gian mới thật mênh mông: internet.
Trong chừng 15 năm nay có vô số diễn đàn thi ca, vô số blog
của các nhà thơ ra đời, trong nước lẫn hải ngoại; và nhất là mạng xã hội
facebook. Họ làm thơ với đủ thứ thi pháp, nhưng đề tài phổ biến vẫn là thơ
tình. Ca ngợi và nức nở. Em – hay anh – đành đoạn sang ngang, để lại tôi một trời
oán tình đầy vơi, vẫn là đề tài muôn thuở cho những dòng thơ đẫm lệ. Thơ cũng cần
có thị trường tiêu thụ, có đối tác, có đầu ra. Cách nhanh và tiện nhất là hãy đề
tặng bài thơ cho một ai đó rồi post lên mạng. Dù nạn nhân có muốn nhận hay
không thì cũng mặc, ta cứ đề tặng thì hắn khó lòng thoát thân. Có muốn từ chối
cũng rất nhiêu khê. Chẳng lẽ lại phải đăng lại bài thơ với lời biện bạch: Tôi,
Nguyễn Văn X., kiên quyết không nhận bài thơ này do nhà thơ Trần Văn Y. đã đề tặng
ư? Có đôi lần tôi tình cờ thấy nhà thơ gởi tặng một bài thơ cho 4, 5 nàng/chàng
cùng lúc. Nhà thơ thực hiện chiêu bắn chim các nàng thơ bằng đạn vãi, một phát
nhắm nhiều em, trúng em nào nhào em đó. Các đối tác có phát hiện thì chỉ cười
trừ. Chứ, chẳng lẽ lại giết, hay kiện nhau vì một món quà từ một tâm hồn gởi đến
những tâm hồn?
Tóm lại, làm thơ post lên mạng là một trong những cách tiêu
pha thời gian lành mạnh. Là cách vệ sinh, thể dục tinh thần, là phương pháp giải
stress rất hiệu quả. Ngẫm cho cùng nó ít tổn hại và tốn kém so với những thú
vui khác. Ngày nay, nhà thơ trên giấy đã kém phổ biến và có phần lép vế với nhà
thơ trên mạng. Bạn có là facebooker không? Tôi dám cá mỗi sáng vào facebook bạn
phải ngó thấy (ngó thôi, chứ chưa hẳn là đọc) ít nhất là 2 tác phẩm thi ca của
những người trong friend list của mình. Từ khi có internet, khoảng cách về
không gian giữa các nhà thơ bị xóa nhòa, nhà thơ trong nước và nhà thơ hải ngoại
hiện diện cùng lúc bằng một cái nhấp chuột. Người ta hiểu tâm tình của nhau
hơn, thươngcho tình cảnh của nhau hơn. Và đố kỵ tài năng của nhau hơn. Trên giấy,
nền cộng hòa thi ca có phân chia giai cấp rõ rệt, và sâu đậm, giữa các tên tuổi,
xuất thân, chức vị… Trên mạng, sự phân hóa này được cào bằng, mọi công dân đều
có “thi-sĩ-quyền” ngang, và như nhau. Họ đông vô kể! Không ai đủ quỡn để làm một
thống kê nền thi ca Việt hiện nay, kể cả trong nước và hải ngoại, trên giấy và
trên mạng, có bao nhiêu nhà thơ cả thảy. Tôi tin rằng đó là một con số khủng
khiếp, con số của nạn “thi-sĩ-mãn” (nói theo kiểu nạn nhân mãn). Buổi sáng, bước
ra quán cà phê đầu hẻm, hẳn bạn sẽ đụng đầu với vài nhà thơ. Lên mạng, bạn sẽ
va phải vài nhà thơ nữa. Hãy thận trọng! Hãy nhìn xuống chân, bạn sắp giẫm lên
một nhà thơ!
***
