Từ ngày về hưu, Ông Tư thong thả, nhưng buồn!
Hằng tuần, vào buổi sáng thứ Bảy, sau ngày xổ số Powerball Lottery, ông thường lang thang trong khu Phước Lộc Thọ, mong tìm gặp các bạn già rủ nhau uống ly cà phê, tán gẫu sự đời, bình luận thời sự chính trị … cho qua thì giờ.
Gần mười hai giờ, chia tay các bạn già, ông thả bộ vào một
tiệm 7- Eleven gẩn đó mua một tấm vé số Powerball, rồi về nhà ăn trưa.
Nếu chỉ có thế thì không có gì đặc biệt để viết thành một
truyện ngắn?
Nhưng ông Tư là một ông già đặc biệt và khác người. Thế mới
nên truyện. Xin kể lại cho bà con nghe chơi…
Cái đặc biệt là ông vào tiệm 7- Eleven chỉ để mua vé số. Và
chỉ mua độc một vé Powerball thôi! Rồi đi ra khỏi tiệm - không hề nhìn ngang,
ngó dọc xem trong tiệm có bán thứ gì.
Cái khác người là dù nắng, mưa, nóng, lạnh thế nào ông cũng
khoác chiếc jacket lính rằn ri, đầu đội mũ nồi (beret) màu
xanh đậm, mặc quần jean, chân đi dép nhựa, trông không giống ai! Bao nhiêu năm
nay ông vẫn mặc như thế khi vào tiệm 7- Eleven. Và như một lịch trình cố định,
ông chỉ xuất hiện mỗi tuần một lần vào ngày thứ Bảy, đúng mười hai giờ trưa.
Và nếu chỉ có thế thì cũng không có gì hấp dẫn để viết!
Nhưng câu chuyện trở nên dài dòng bắt đầu từ hai nhân viên đứng
bán hàng trong tiệm 7- Eleven.
Tiệm 7- Eleven thường chia ba ca (shift) làm việc trong 24
gìờ, mỗi ca tám tiếng đồng hồ: sáng, chiều và tối. Thịnh và José làm ca sáng -
từ 6:00 giờ sáng đến 2:00 giờ chiều. Hai anh thanh niên này cùng lứa tuổi, có
hoàn cảnh khiêm tốn giống nhau, nên dễ chơi thân. Thịnh được vào nước Mỹ nhờ
theo cha trong diện HO. José, người Mexico được thân nhân bảo lãnh vào nước Mỹ
thông qua chương trình di dân. Họ là đôi bạn năng nổ và cầu tiến - sáng làm việc
ở 7-Eleven, chiều đi học ở Đại học Cộng đồng (Community College). Cả hai cùng ấp
ủ “giấc mơ Mỹ - American dream…”
Tình bạn mỗi ngày thêm gắn bó. Thịnh muốn học tiếng Tây Ban
Nha (Spanish), José muốn học thêm tiếng Việt để tạo thêm cảm tình và phục vụ tốt
cho khách hàng vì đa số khách hàng ở tiệm này là người Mễ và người Việt. Thế là
hai đứa chỉ dạy ngôn ngữ cho nhau….
Một hôm, Ông Tư vào mua vé số như thường lệ. Tiệm có hai cái
máy tính tiền, Thịnh một máy, José một máy. Ông Tư sắp hàng chờ trả tiền vé số.
Lúc đó tới phiên José bấm máy.
Những lần trước, khi chưa học tiếng Việt, mỗi lần tính tiền,
José vui vẻ nói với Ông Tư bằng tiếng Anh: “Hi Mr Tư. Good luck!” (Chào ông Tư.
Chúc may mắn!)
Ông Tư đáp ngắn gọn: “I hope! Tôi hy vọng vậy!” Rồi bước ra
khỏi tiệm.
Nhưng lần này, sau khi học được một số tiếng Việt, nó muốn
thực tập, nên nói: “Hi cô Tư! Chúc may mắn!”
Ông Tư quắc mắt nhìn nó, rồi đổ quạu, quát: “Không được gọi
tôi như thế! Hiểu chưa?”
Nghe Ông Tư to tiếng mắng thằng José, Thịnh quay sang hỏi, mới
rõ nguồn cơn. Thịnh xoa tay từ tốn, nói với Ông Tư: “Xin lỗi ông Tư, con dạy nó
nói tiếng Việt, mới bì bõm mà nó muốn trổ tài. Xin Ông Tư thông cảm, tha lỗi
cho nó.”
Chẳng nói năng gì, Ông Tư quay lưng ra khỏi tiệm. Thằng José
tỏ vẻ lo lắng!
Nó lo lắng bởi vì chuyện này mà đến tai quản lý, có thể nó mất
việc vì cái lỗi: “làm mếch lòng khách hàng!”
Đối với José, tìm được một chân bán hàng trong tiệm 7-
Eleven là điều may mắn, là một cái job thơm! Các bạn bè người
Mễ của nó làm việc chân tay nặng nhọc, chịu cảnh nắng mưa vất vả mà tiền kiếm
được không hơn nó bao nhiêu, lại không có bảo hiểm sức khỏe. Còn nó làm ở đây,
tuy lương không cao, nhưng ổn định, vừa đủ sinh sống và chi phí cho việc học
hành để thực hiện “giấc mơ Mỹ”.
Trước khi nhận việc, nó qua một tuần huấn luyện và câu châm
ngôn “Customer First” (Khách hàng là trên hết) phải thuộc nằm lòng. Cho nên nó
cố gắng học tiếng Việt để phục vụ tốt cho khách hàng Việt Nam. Nhưng oái oăm
thay, tiếng Việt lắm nhiêu khê đã gây nguồn cơn lo lắng cho nó.
Hiểu được nỗi lo của bạn, Thịnh an ủi:
- Không sao đâu, nếu manager biết được chuyện
này cũng thông cảm và biết đâu ổng còn khen mày có tinh thần cầu tiến trong việc
tìm cách phục vụ tốt cho khách hàng. Cái lỗi là do tao dạy tiếng Việt cho mày
chưa đến nơi đến chốn.
José bày tỏ:
- Thì khi nãy, tao nghe mày nói: “chào cô Tư” - trông bà ta
vui ra mặt. Tao tưởng đó là lời chào “làm vui lòng khách”.
Thịnh suy nghĩ, giải thích cho José hiểu được cách xưng hô ở
ngôi thứ hai trong tiếng Việt khó quá, nhưng cũng cố gắng giải thích:
- Cách xưng hô ngôi thứ hai của tiếng Việt rất phức tạp,
không đơn giản như trong tiếng Anh: già, trẻ, gái, trai đều dùng tiếng “you”.
Trong tiếng Việt thì có nhiều tiếng gọi sao cho phù hợp vai vế, giới tính và tuổi
tác. Người lớn tuổi thì: ông, bà, chú, bác, cô, dì, anh chị… Người nhỏ tuổi hơn
mình thì gọi là em - tiếng “em” dễ dùng nhất trong tiếng Việt, vì không phân biệt
giới tính.
Nhưng tao lưu ý mày khi dùng tiếng “em” với những cô gái nhỏ
tuổi chưa quen thân để tránh bị mắng hay bị tình nhân của cô ta cho ăn đòn. Mày
phải thêm tiếng “cô” vào và nói: “cô em” mới phải phép. Mày hiểu rõ chưa?
Thằng José vừa cười vừa nói:
- Thiệt là điên cái đầu!
Thịnh chỉ thêm:
- Trong tiếng Việt, người ta còn dùng “nickname” để
xác định một nhân vật có thói quen hay cá tính, hoặc tướng mạo đặc biệt khi nói
về họ với lòng thương mến hay nhạo báng như: “Anh Ba Nhà Thờ”, “Ông Tám Dê”;
“Cô Năm Điệu” ...
Thằng José để ý điều này.
Thứ Bảy tuần sau ông Tư trở lại. Khi bấm máy tính tiền và
đưa vé số cho ông Tư, thằng José muốn lấy cảm tình, nó áp dụng ngay những điều
học được:
- Chào “Ông Tư Vé Số”! Chúc may mắn…
Ông Tư cười vui vẻ, đáp lời:
- Hy vọng như thế!
Lần này ông Tư không tỏ vẻ nghiêm nghị mà nán lại vài phút
nói chuyện với José.
Khi ông Tư ra khỏi tiệm, Thịnh nói với José:
- Tao dạy mày, nhưng chưa hết sách. Người ta chỉ dùng nickname khi
nói vui với bạn bè cùng lứa tuổi đã có chung những kỷ niệm hoặc nhắc đến cái
nickname để dễ nhớ ra một người bạn thân xa nhau lâu ngày. Không nên gọi cái
nickname khi nói chuyện trực tiếp với họ. Khi nãy mày nói: “Chào Ông Tư Vé Số”
là không phải cách. “Ông Tư Vé Số” được coi là nickname của
ông ta. Nhưng khi mày gọi cái nickname ấy, ông tỏ ra vui vẻ.
Như thế là ổng khoái cái tên này.
Từ đó, cái tên “Ông Tư Vé Số” được thằng José gọi mỗi khi thấy
ông Tư vào tiệm. Và cũng từ đó, ông Tư nói chuyện thân mật với thằng José như
đôi bạn vong niên tri kỷ.
Một hôm, thấy ông Tư vui, thằng José gợi chuyện:
- Sao ông Tư cứ mua vé số sau ngày xổ? Nếu đã có người trúng
thì số tiền bắt đầu chỉ vài chục triệu, nhưng mua trước khi xổ một vài ngày, số
người mua số tăng lên, khi trúng lô độc đắc có thể tăng lên năm, bảy chục triệu.
Ông Tư gật gù:
- Ta hiểu! Nhưng ta mua vé số là mua cái hy vọng - mua sau
khi xổ số, ta có bảy ngày hy vọng. Còn mua vé số trước khi xổ một ngày, ta chỉ
có 12 giờ hy vọng. Nhà ngươi hiểu ý của ta chưa?
Cả hai cùng cười….
Câu chuyện trên được Thịnh kể lại với gia đình trong bữa cơm
chiều. Cha Thịnh ngồi nghe, cười tủm tỉm… rồi kể thêm chuyện đời của “Ông Tư Vé
Số”:
- Ông ta mua vé số từ khi tụi bay còn để chởm kìa. Bây giờ
ông ta “giả dạng thường dân”, chứ trước năm 1975, ông đã có “một thời vang
bóng”- từng là một luật sư nổi tiếng ở Sài Gòn, rồi được bổ làm chánh án nhiều
năm ở một tỉnh miền Trung dưới chế độ Việt Nam Cộng Hòa - một ông quan tòa công
minh liêm chính được mọi người kính trọng.
Đến tháng Tư năm 1975, chính quyền Miền Nam sụp đổ, ông được
chế độ Cộng sản “khoan hồng” nhờ cái phẩm hạnh đó, nên chỉ đưa ông vào trại “tập
trung cải tạo” - đốn gỗ, chặt giang, kéo xe trâu trên núi rừng Việt Bắc trong
vòng sáu năm - rồi thả cho về nhà.
Sống ở Sài Gòn vài năm, dưới chế độ mới, người ta cai trị bằng
“luật rừng”. Ông không chịu nổi trước cảnh bất công, ngang trái… nên năm 1984
ông tìm đường vượt biên và được định cư ở Mỹ.
Sang đây, như con cá ở trong sông, hồ… bây giờ trôi ra đại
dương bao la. Ông chới với! Trước đây, ông sống trong nước chỉ áp dụng “luật rừng”,
bây giờ sang một xứ có cả một “rừng luật”- không biết đâu mà lần! Ông bỏ ước mơ
đi làm thầy kiện! Tức là trở lại nghề luật sư.
Ông tính chuyển nghề - đi làm thợ! Nhưng than ôi! Sức lực đã
để lại nơi núi rừng Việt Bắc. Hiện tại, chỉ còn tấm thân già nua, gầy yếu không
làm nổi những công việc nặng nhọc khi làm thợ mộc, thợ nề; cũng không kham nổi
lối làm việc dây chuyền trong nhà máy.
Những người như ông, người đời gọi là “thứ lỡ thầy lỡ thợ”!
Nhưng ông không nản lòng vì đang được thở hít cái không khí tự do trên một xứ sở
có nhiều cơ hội.
Một ngày đẹp trời, ông tìm ra cái nghề không có tên trong tự
điển là “nghề cắt chỉ” - cắt chỉ trong các shop may - mỗi ngày lãnh được 20 đô
la tiền mặt. Đủ để nuôi thân!
Những buổi sáng, đứng đợi xe bus đi đến shop may, trời lạnh
căm căm, ông ôm lon guigoz cơm còn chút hơi ấm mà bà vợ mới bới khi sáng, cho đỡ
buốt đôi bàn tay.
Lúc đó, ông mơ: “Có được chiếc xe hơi, chạy vèo một mạch đến
shop may cho đỡ lạnh cái thân già.”
Nhưng mỗi ngày chỉ kiếm được hai mươi đô la. Trong hai mươi
đô la đó phải chi ra nhiều thứ cho con, cho vợ. Vậy thì biết đến bao giờ mới đủ
tiền mua được chiếc xe?
Ông nghĩ: “May ra… chỉ khi nào trúng số!”
Thế là từ đó, mỗi tuần ông mua một tấm vé số Powerball.
Một năm trôi qua, tuy chưa trúng số, ông cũng gom góp mua được
chiếc xe Toyota Corolla cũ - tuy cũ nhưng bộ phận điều hoà không khí còn tốt -
trời lạnh bật “hít” (heat); trời nóng vặn “e” (air conditioning). Ông đi làm
thoải mái bằng xe hơi - chẳng ngại nắng, mưa, nóng, lạnh…
Gần hai năm sau, ông xin được việc làm trong sở An sinh Xã hội.
Lúc này tiền lương khá hơn, ông cảm thấy ở trong căn chung cư (apartment) chật
chội mà mỗi tháng trả tiền thuê quá đắt. Ông mơ đến chuyện mua một căn nhà.
Nhưng tiền lương mỗi tháng, sau khi trả tiền thuê nhà và mọi chi phí cho gia
đình chỉ còn dư vài trăm đô la. Vậy biết đến bao giờ mới đủ tiền đặt cọc (down
payment) để mua một căn nhà? Ông nghĩ: “May ra… chỉ khi nào trúng số!”
Thế là hằng tuần ông ra tiệm 7- Eleven mua một tấm vé số
Powwerball. Nhưng bốn năm sau, tuy chưa trúng số, ông vẫn mua được một căn nhà
vừa ý: rộng rãi, khang trang… có sân trước, vườn sau nhờ gom góp tiền để dành
và tiền của vợ con kiếm được qua công việc làm bồi bàn của con, phụ bếp cho nhà
hàng của vợ.
Mỗi buổi chiều đi làm về, ngồi dưới bóng cây mát rượi sau vườn,
ông cảm thấy tâm hồn thư thái, bình an… Đã qua rồi những ngày âu lo, cơ cực cho
bản thân và gia đình. Ông nghĩ, được như thế này là may mắn cho cuộc đời của một
người tị nạn.
Những năm làm việc trong sở An sinh Xã hội, ông tiếp xúc với
nhiều người tị nạn có hoàn cảnh khó khăn. Ông hết lòng giúp đỡ họ hoàn tất các
thủ tục giấy tờ để sớm nhận được những trợ cấp của chính phủ Hoa Kỳ. Ông xem
đây là một cách trả ơn cho đời.
Đối với những người tị nạn Việt Nam mới sang, ông luôn hỏi
thăm tình trạng sinh sống của đồng bào mình ở bên nhà. Ông nghe kể những thảm cảnh
ở nhà thương công: hai bệnh nhân nằm chung một giường vẫn không đủ chỗ, phải nằm
dưới gầm giường hay nằm la liệt ngoài hành lang. Thuốc men, chữa trị thì những
người có tiền, có “phong bì bôi trơn” được chiếu cố, còn dân nghèo thì “được
chăng hay chớ…”
Ông Tư xúc động! Ông nhớ lại thời thơ ấu, sống trong vùng
Liên Khu 5 do Việt Minh kiểm soát. Thuốc tây rất hiếm, khi đau bệnh người ta
thường uống thuốc bắc hoặc dùng thuốc nam. Cha ông làm thầy thuốc bắc nổi tiếng.
Dân chúng trong vùng gọi là ông Thầy Hai. Nhiều bệnh nhân ở xa đến ở trọ nhà
ông, chờ cha ông bắt mạch, hốt thuốc. Còn thân nhân của họ ở tạm trong căn lều
ngoài vườn. Họ sắc thuốc cho bệnh nhân uống tại chỗ. Chờ năm ba hôm, có khi cả
tuần lễ, khi bệnh tình thuyên giảm mới đem nhau về nhà.
Những sự việc đó đã đi vào ký ức. Khi lớn lên, ông nhủ với
lòng mình- khi có quyền thế hay tiền bạc, điều đầu tiên ông sẽ làm là xây nhiều
bệnh viện phục vụ dân nghèo.
Khi được định cư ở Mỹ - ngày tháng trôi qua - năm năm, rồi
mười năm… cho đến khi tuổi đời đi vào xế bóng mà ông vẫn không có quyền, cũng
chẳng có tiền. Niềm ước mơ xây bệnh viện coi như xa vời.
Nhưng ông không nản lòng. Ông vẫn nuôi hy vọng - hy vọng
trúng số độc đắc! Thế là ông tiếp tục mua vé số… Ông ước mơ: khi trúng số
độc đắc, ông sẽ xây một bệnh viện ngay ở quê nhà - đặt tên là “Bệnh Viện Thầy
Hai” để tưởng nhớ người cha kính yêu và cứu giúp bà con trong xã, trong huyện…
Qua tuổi tám mươi, ông Tư vẫn chưa trúng số. Nhưng cái “bệnh
tưởng” khiến ông nhiều đêm mất ngủ. Ông nghĩ một mai trúng số mà giao tiền cho
bọn quan tham xây bệnh viện thì rách việc. Phải thành lập một ban cố vấn cho việc
xây dựng và điều hành bệnh viện bởi những người bạn thân tín có bằng cấp chuyên
môn, gồm: một kiến trúc sư, một luật sư, một bác sĩ và một người kế toán có bằng
CPA.
Nhiều đêm thao thức, ông đã chọn đủ người. Nhưng rồi lần lượt
hay tin ông bác sĩ quy tiên, ông kiến trúc sư mắc bệnh run tay (parkinson), ông
luật sư thì mất trí nhớ (bệnh alzheimer), ông kế toán đã về Việt Nam theo bồ
nhí. Thế là cái ban “Tham mưu, Cố vấn” coi như rã đám.
Một hôm tình cờ, Ông Tư đọc một truyện ngắn có tựa đề:
“Trúng Số Độc Đắc” của nhà văn Tràm Cà Mau. Truyện kể rằng: “Vợ chồng nhà nọ
mua một tấm vé số. Ngày xổ số chưa đến mà vợ chồng đã bàn tính với nhau sẽ cho
bên chồng bao nhiêu, bên vợ bao nhiêu. Chị vợ kê một lô tên sẽ cho bên nhà mình
và cắt tên những người bà không ưa bên nhà chồng và bắt anh chồng thề sẽ không
cho những người bồ cũ của anh ta một xu. Anh chồng thấy bất công, tỏ vẻ không
hài lòng. Thế là hai bên cãi nhau. Chị vợ khóc bù lu bù loa và đem những chuyện
ngày xửa ngày xưa ra kể tội anh chồng và đòi ly dị. Anh chồng tức quá ra ngoài
hút mấy điếu thuốc mới thấy tỉnh táo, rồi vào nhà nói với vợ: Em muốn ly dị thì
OK, nhưng khi ra toà, ông quan tòa hỏi lý do gì mà xin ly dị thì trả lời làm
sao cho ổn? Chẳng lẽ khai rằng: vì chia tiền không công bằng trên tấm vé số
chưa xổ. Như thế người ta cười cho thối mũi…
Chị vợ ngước lên nhìn chồng, im lặng… và tỏ ra nhũn nhặn.
Anh chồng thương hại, cúi xuống lau nước mắt cho vợ. Chị vợ cảm động, thốt lên:
Thôi đừng mong trúng số độc đắc nữa!”
Đến đây ông Tư ngưng đọc, lẩm bẩm: “Vớ vẩn! Chưa đỗ ông nghè
đã đe hàng tổng!” Rồi ông nghĩ lại những toan tính của mình đã làm nhiều đêm mất
ngủ cũng vớ vẩn không khác gì chuyện hai vợ chồng nhà nọ.
Từ đó, vắng bóng Ông Tư ở tiệm 7- Eleven gần khu Phước Lộc
Thọ vào những trưa thứ Bảy. Thịnh và José có ý mong chờ…
Khoảng ba tháng sau, cha của Thịnh cho hay tin: Ông Tư đã
vào Viện dưỡng lão. Ông không còn uớc mơ trúng số độc đắc mà chỉ mong khi chết
được khoác chiếc áo jacket lính rằn ri và đội cái mũ beret màu xanh đậm mà người
bạn tâm giao đã tặng ông, trước khi anh ta đi vào chiến trường An Lộc.
Nếu không có hai câu thơ:
“An Lộc địa sử ghi chiến tích/ Biệt Kích Dù vị quốc vong
thân”* của một cô giáo trẻ ở Bình Long vinh danh sự hy sinh cao cả của các
chiến sĩ Liên Đoàn 81 Biệt Cách Dù với những trận thư hùng oanh liệt ở Thị xã
An Lộc đã được ghi vào Quân sử Việt Nam Cộng Hòa, thì nhiều người sẽ không biết
đến địa danh này.
Gần sáu mươi năm trôi qua, người bạn tâm giao đã nằm lại với
An Lộc kiêu hùng. Còn ông Tư đã trải qua bao nhiêu thăng trầm trong cuộc sống,
ông vẫn giữ chiếc jacket lính rằn ri với cái mũ bê rê màu xanh
đậm mà người bạn tâm giao đã tặng. Ông coi đó như là hai kỷ vật thân thương của
ông.
Bây giờ, ông chỉ còn một ước mong - khi lìa bỏ nhân gian, đi
vào cõi vĩnh hằng, xin người đời nhớ cho hai kỷ vật này được theo ông về với đất…
Lê Đức Luận
(Tháng 4 -2025)