Bài này chỉ nói về tiếng lóng Sài Gòn khi Sài Gòn còn tên, khi mất tên thì Sài Gòn đâu còn là Sài Gòn nữa. Tiếng lóng là một hình thức phương ngữ xã hội không chính thức của một ngôn ngữ, thường được sử dùng trong giao tiếp thường ngày bởi một nhóm người. Tiếng lóng thường không mang ý nghĩa trực tiếp, nghĩa đen, mà mang ý nghĩa tượng trưng, nghĩa bóng.
Nhạc sĩ Phạm Duy gọi tiếng lóng là ngôn ngữ vỉa hè. Năm
1968, ông định sáng tác một loạt vỉa hè ca nhưng khựng lại sau khi cho xuất bản
hai bài “Sức Mấy Mà Buồn” và “Nghèo Mà Không Ham”, ông tiết lộ: “Hai
bài ca vui đùa này được in ra và bán rất chạy. Nhưng lập tức có sự phê bình gay
gắt đến từ nhiều phía. Tôi định soạn thêm bài Ô Kê Salem, Ô Kê Nước
Mắm thì cụt hứng! Nhưng trong thâm tâm, tôi vẫn chưa chịu
thua… Rồi tôi phản ứng lại bằng cách soạn những bài ngỗ nghịch hơn vỉa
hè ca. Và phải có qui mô hơn. Đó là mười bài tục ca, bài thì tục về chữ, bài
thì tục về ý, bài thì tục về chuyện”.
Ông trần tình tiếp về lý do có những vỉa hè ca và tục
ca: “Tôi soạn vỉa hè ca và tục ca trước và sau khi đi Mỹ. Lúc đó sự có
mặt của người Mỹ tại nước ta là một điều rất trầm trọng, mọi người đều sợ bị
ngoại xâm xâm lăng bằng văn hóa. Người ta không thích cộng sản nhưng người ta
cũng không thích văn hóa Mỹ, nhất là không muốn lối sống Mỹ xâm nhập vào Việt
Nam”.
Đảo qua tục ca trước. Phải nói đây là những bài ca dùng những
từ tục thiệt tục. Những bộ phận L…, C… được hát thoải mái. Không biết có phải
vì không có ca sĩ nào dám hát hay không mà ông tự hát lấy và chỉ phổ biến hạn
chế trong vòng thân hữu. Vẫn lời Phạm Duy: “Hai vị viết sách, viết báo
về tôi là Tạ Tỵ và Georges Gauthier đều cho rằng cái vui, cái tếu không phải là
chất liệu Phạm Duy, cho nên tục ca không thành công. Chưa kể có người chê tôi
đi tới chỗ nhảm nhí trong nghệ thuật. Tôi cũng hiểu được vì sao có những người
chống đối tục ca dù họ không biết cặn kẽ nội dung của nó. Tôi không hề tung tục
ca ra quần chúng. Tôi chỉ tặng vài người bạn thân một băng cassette ghi lại buổi
hát chơi ở Vũng Tầu và còn dặn dò đừng phổ biến!”. Trong tủ nhạc của
tôi vẫn giữ cuốn cassette tục ca này do nhạc sĩ Trường Kỳ tặng.
Mười bài tục ca đó có tên như sau: Em Như Cục Cứt Trôi Sông, Tình Hôi, Gái Lội
Qua Khe, Úm Ba La Ba Ta Cùng Khỏi, Bà Già Khỉ Đột Giao Hoan, Mạo Hóa, Nhìn L…,
Em Đ…, Chửi Đổng và Cầm C…
Vỉa hè ca có nhan đề là những tiếng lóng. Phạm Duy cho biết:
“Lúc tôi soạn vỉa hè ca là lúc quân đội ngoại quốc đổ bộ ào ạt vào Việt
Nam. Trước sự xâm nhập của nền văn minh vật chất, một số người mình quả thật có
chạy theo lối sống Âu Mỹ! Sự ham muốn những gì quá tầm tay của mình, chẳng hạn
già như tôi mà còn mê gái sẽ bị gái nguýt cho một cái: “Xí! Già mà ham!””. Già
mà ham, tiếng lóng này ai cũng rõ nghĩa. Chỉ có anh Yamaha của Nhật loạng quạng
vướng phải khiến dơ đầu chịu tiếng thế cho chữ tiếng lóng Việt Nam.
Sức Mấy Mà Buồn, đây là tiếng lóng xuất hiện vào thập niên
60 của thế kỷ trước. Sức mấy có nghĩa là bất lực hay chuyện không thể làm được.
Nó phổ biến đến nỗi từ tổng thống, phó tổng thống, tướng tá, nhà văn, nhà thơ,
nhà báo tới các em bé đành giầy trên vỉa hè đều dùng thoải mái trong văn viết
cũng như văn nói. Thông thường tiếng lóng chỉ được nói chứ ít khi được viết ra
trên báo chí sách vở. Vậy mà ông ký giả Đinh Từ Thức của các nhật báo đứng đắn
như Tự Do, Sống, Hòa Bình, Chính Luận còn dùng bút hiệu Sức Mấy để viết “phim”
trên báo.
“Phim” trên báo không phải là phim ảnh mà là mục…phiếm phải
có trên các nhật báo Sài Gòn ngày đó. Mục “phim” nổi tiếng nhất là Ao Thả Vịt của
Chu Tử trên báo Sống. Ngày đó báo chí còn nói tới tiếng lóng “khều mặt trời”
nhưng chắc ít người còn nhớ. Chuyện như vầy: Sau khi dinh Độc Lập bị hai phi
công Phạm Phú Quốc và Nguyễn văn Cử bỏ bom làm hư hại, kiến trúc sư giải Khôi
Nguyên La Mã Ngô Viết Thụ được mời thiết kế dự án tái thiết dinh. Trong buổi lễ
khai mạc dinh mới, kiến trúc sư Ngô Viết Thụ đã giải thích về kết cấu dinh. Khi
nói về những tấm rèm đá hình cây trúc, quốc huy của Việt Nam thời Tổng Thống
Ngô Đình Diệm, nằm khắp mặt dinh, ông nói những tấm màn đá này được thiết kế để
có thể đón ánh sáng mặt trời ùa vào hành lang. Báo chí thời đó nhạo việc đón
ánh sáng mặt trời này là “khều mặt trời”. Thời gian đó, tôi được nhật báo Dân Ý
mời viết mục phim trên trang nhất mỗi ngày, tôi đặt tên mục phim đó là “Khều Mặt
Trời” và ký tên “Thầy Khều”. Sau này, khi đứt phim, kiến trúc sư Ngô Viết Thụ
và tôi đều bị lùa vào trại học tập Long Thành, cùng ở chung nhà số 2. Tôi nằm
trong “tổ trang hoàng” chuyên vẽ bích họa trên tường và trồng cây cho trại, tổ
trưởng là Kiến trúc sư Ngô Viết Thụ. Khi đó, nghĩ tới chuyện khều mặt trời, tôi
cười một mình, chẳng dại chi mà khai với ông kiến trúc sư. Khi cả hai chúng tôi
được thả về, tôi vẫn lui tới chơi với ông tại nhà riêng trên đường Đoàn Thị Điểm
(?), gần vườn Tao Đàn.
Trong vỉa hè ca của Phạm Duy có câu: “Sức mấy mà buồn, buồn
ơi bỏ đi Tám”. “Bỏ đi Tám” cũng là một tiếng lóng của dân Sài Gòn. Sao không Bảy
hay Chín mà lại Tám? Tiếng lóng này xuất hiện tại Sài Gòn vào khoảng đầu thế kỷ
20. Thời đó chuyện xưng hô thứ bậc trong xã hội được phân chia theo giai cấp rất
cứng nhắc. Thứ nhất là các ông tây hay các vị quan lại người Việt, giới quyền
quý ăn trên ngồi trốc trong xã hội. Thứ hai là các công chức làm việc cho nhà
nước. Họ là dân có học, được gọi là các thầy Hai thông ngôn hay thày Hai ký lục,
thày Hai thư ký. Thứ ba là các thương gia Hoa Kiều, có tiền và có truyền thống
bang hội tương trợ liên kết với nhau. Họ không có quyền nhưng gần với giới cầm
quyền nên các “chú Ba” đương nhiên là một thế lực đáng vị nể của giới bình dân
Sài Gòn. Thứ tư là các đại ca giang hồ chuyên sống bằng nghề đâm chém nhưng có
tình nghĩa. Các “anh Tư dao búa” vừa là hung thần khiến dân chúng sợ sệt, vừa
được sự ngưỡng mộ của giới bình dân cũng như các tiểu thư khuê các. Thứ năm là
giới lưu manh hạ cấp, các “anh Năm” đá cá lăn dưa, móc túi giật đồ, cò mồi mãi
dâm mà dân chúng khinh nhưng sợ. Thứ sáu là các “thày sáu mã tà” tức các cảnh
sát phú lít có nhiệm vụ giữ trật tự bị dân buôn gánh bán bưng ghét vì chuyên đạp
đổ nồi cơm của họ, bị dân chúng khinh vì ăn hối lộ tạp nhạp lấy tiền nhẩm xà
nhưng cũng được dân sợ vì có uy có quyền. Thứ bảy là các “anh Bảy Chà Và”
chuyên cho vay nặng lãi, lại có thể dùng tiền tùng phùng với giới chức người
Pháp bị dân chúng ghét nhưng vẫn sợ, nhất là những người buôn gánh bán bưng phải
vay vốn nặng lãi. Thứ tám là giới bình dân nghèo khó, dân ngu khu đen, đổi sức
kiếm miếng ăn như phu bốc vác, chị ở đợ, gánh nước bồng em hoặc các phu kéo xe.
Tuy giới này có số đông nhưng yếu thế nhất vì thất học, không có quyền và có tiền
như thày Hai, anh Ba, không bặm trợn như các “anh Tư”, “anh Năm” nên bị bắt nạt,
áp bức từ mọi phía. Muốn yên thân phải cắn răng chịu thiệt, nhẫn nhục sống,
chuyện chi cũng “bỏ đi Tám”!
Thành phần thứ ba kể trên là các chú Ba. Đây là một lực lượng
đông đảo, đoàn kết. Chẳng thế mà họ có cả khu vực Chợ Lớn to đùng. Dân ta không
ưa nhưng vẫn nể phục họ, gọi họ bằng nhiều chữ: Ba Tàu, Các Chú, Khách, Chệt hoặc
Chệc. Gia Định Báo phát hành ngày 16/2/1870 giải thích như sau: “An-nam ta
kêu là Tàu, người bên Tàu, là vì khách thường đi tàu qua đây, lại dùng tàu chở
đồ hàng hóa qua đây buôn bán; nên kêu là Tàu, hàng Tàu, đồ Tàu v.v... Từ Ba-Tàu
có cách giải thích như sau: Ba có nghĩa là ba vùng đất mà chúa Nguyễn cho phép
người Hoa làm ăn và sinh sống: vùng Cù Lao Phố (Đồng Nai), Sài Gòn-Chợ Lớn, Hà
Tiên, từ Tàu bắt nguồn từ phương tiện đi lại của người Hoa khi sang An Nam,
nhưng dần từ Ba Tàu lại mang nghĩa miệt thị, gây ảnh hưởng xấu. Kêu Các-chú là
bởi người Minh-hương mà ra; mẹ An-nam cha Khách nên nhìn người Tàu là anh em, bằng
không thì cũng là người đồng châu với cha mình, nên mới kêu là Các-chú nghĩa là
anh em với cha mình. Sau lần lần người ta bắt chước mà kêu bậy theo làm vậy.
Còn kêu là Chệc là tại tiếng Triều Châu kêu tâng Chệc nghĩa là chú. Người bên
Tàu hay giữ phép, cũng như An-nam ta, thấy người ta tuổi đáng cậu, cô, chú, bác
thì kêu tâng là chú là cậu vân vân. Người An-nam ta nghe vậy vịn theo mà kêu
các ảnh là Chệc”. Dân ta còn kêu họ là Khựa, thím Xẩm hoặc Chú Ba.
Thành phần thứ tư là các đại ca trong giới giang hồ. Tiếng
lóng gọi là dân chơi, chúng ta có “dân chơi cầu Ba Cẳng”. Nghe tới “dân chơi cầu
Ba Cẳng” chúng ta dễ nghĩ là những tay giang hồ nghĩa hiệp trừ gian diệt bạo
nhưng không phải. Cầu Ba Cẳng là một cây cầu chỉ dành cho người đi bộ, được thiết
lập từ khi Sài Gòn mới hình thành. Tên chính thức của cầu là “Pont des
Trois Arches” (Cầu Ba Vòm), sau dân gian gọi là cầu Ba Miệng, cầu Ba
Chưn rồi Cầu Ba Cẳng, cái tên còn tồn tại đến ngày nay. Cầu nằm ở ngã ba của
con kênh Hàng Bàng đổ ra rạch Tàu Hũ. Ba chân cầu đáp xuống bến Bãi Sậy, bến
Nguyễn văn Thành và bến Vạn Tượng. Nhiều người, trong đó có tôi, không rành địa
thế khu vực Chợ Lớn nên nghe mà bù trất. Chỉ cần biết cầu Ba Cẳng chỉ cách chợ
Kim Biên vài trăm thước là đủ. Ông Năm Nghị, cư dân địa phương, 75 tuổi, kể lại:
“Thời ấy dân giang hồ chia nhau cát cứ những khu vực làm ăn đông đúc để bảo kê
thu lợi. Nhóm giang hồ ở cầu Ba Cẳng chuyên lừa đảo để kiếm tiền, kiếm tình
nhưng dám làm mà không dám chịu, luôn tránh né khi gặp chuyện. Nổi bật nhất
trong giới giang hồ cầu Ba Cẳng là Mã Ban, không chịu học hành, lao vào ăn
chơi. Bị mẹ la mắng, Mã Ban bỏ học, thu thập đàn em, làm bảo kê cho các cửa
hàng trong khu vực nên có tiền ăn chơi phủ phê. Vợ Mã Ban là con một thương gia
người Hoa giầu có. Khi Ban tới tuổi quân dịch, cha vợ dùng tiền lo cho Ban trở
thành cảnh sát. Có tiền, có thế, Ban tha hồ ăn chơi. Ông Năm Nghị nói: “Giới
giang hồ và cảnh sát như mặt trời với mặt trăng, thế mà Mã Ban chấp nhận trở
thành cảnh sát khiến đàn em không phục. Từ đó tiếng lóng “dân chơi cầu Ba Cẳng”
ra đời nhằm phân biệt với giới giang hồ thứ thiệt như Đại Cathay chẳng hạn”.
Giang hồ Đại Cathay chắc nhiều người đã nghe danh. Chuyện kể thời đó tướng Nguyễn
Ngọc Loan, Tư Lệnh Cảnh Sát, rất chịu chơi, quyết thực hiện chiến dịch bài trừ
du đãng. Ông lập ra biệt đội hình cảnh để hành động. Ông chiêu dụ Đại Cathay nếu
từ bỏ làm đại ca nhóm giang hồ, giúp ông dẹp được du đãng Sài Gòn, ông sẽ mời
gia nhập lực lượng cảnh sát với chức Đại Úy, Cảnh Sát Trưởng một quận ở Sài
Gòn. Đại Cathay khảng khái trả lời: “Tôi không thể làm hài lòng Chuẩn Tướng được.
Tôi chấp nhận như thế thì còn mặt mũi nào nhìn ai ở đời này”.
Không biết có bao nhiêu phần sự thật trong chuyện kể của tác
giả Duy Chính này nhưng nghe thấy khoái lỗ tai. Tháng 8/1966 Đại Cathay bị bắt.
Ngày 28/11/1966, một chiếc máy bay C47 chở Đại Cathay và nhiều du đãng khác ra
giam ở Phú Quốc. Không chịu khuất phục, tay giang hồ khét tiếng liên lạc với vợ
gửi 60 cây vàng ra lo lót cho cai ngục để đào thoát. Kế hoạch bị Tướng Loan biết
và cho cảnh sát mai phục bắn chết. Khi đó Đại Cathay vừa tròn 26 tuổi.
Tiếng lóng Sài Gòn nổi tiếng nhất có lẽ là “OK Salem”. Tôi
chắc là tới ngày nay mọi người vẫn chưa quên từ “OK Salem”. Có điều vui vui là
ngay chữ OK đã là một tiếng lóng của Mỹ. Có nhiều giả thuyết về tiếng lóng ngày
nay được dùng khắp nơi trên thế giới này. Một số người cho chữ này bắt nguồn từ
chữ “okeh” của bộ lạc da đỏ Choctaws ở châu Mỹ. Nghĩa của “okeh” là…OK. Theo
nhà ngôn ngữ học Allen Waiker Read, OK là dạng viết tắt của cụm từ “All
Correct”. Lại có người cho OK là chữ viết tắt bắt nguồn từ tiếng Hy Lạp.
Giả thuyết sau đây có vẻ bài bản hơn. Vào thập niên 1830, những nhà trí thức trẻ
ở Boston muốn có một cách giao tiếp đặc biệt nên quyết định tạo ra những mật mã
ngôn ngữ riêng nội bộ. Công thức tạo từ của họ là: cố tình viết sai chính tả những
cụm từ phổ biến để tạo ra từ đồng âm vô nghĩa, sau đó thì lấy hai chữ cái đầu
tiên dùng làm mật mã. Điều này dẫn tới xu hướng tạo ra những từ viết tắt như KC
là “Knuff Ced” (enough said – nói đủ rồi) và OW là “oll wright”
(alright - tốt). Trong đó từ viết tắt nổi tiếng hơn cả chính là
OK: “oll korrect” tức “all correct” - “tất cả
đều đúng”. “All correct” đã được sử dụng thường xuyên ở cuối
các văn bản với mục đích xác nhận những thứ nêu trên đều chính xác. Cách viết tắt
“OK” chỉ thật sự trở nên thông dụng khi được báo Boston sử dụng lần đầu tiên
vào thứ bảy ngày 23/3/1839. Những tờ báo khác cũng dần sử dụng “OK”, biến nó
thành một từ được hiểu biết rộng rãi chứ không còn là ngôn ngữ riêng của giới
trẻ Boston nữa. Tổng thống thứ 8 của Hoa Kỳ Martin Van Buren đã quyết định sử dụng
“OK” làm biệt danh tại các cuộc vận động tái tranh cử vào năm 1840. Ông đến từ
Kinderhook, New York và đã áp dụng khẩu hiệu: Old Kinderhook was “oll
korrect” (Người đàn ông già đến từ Kinderhook luôn luôn đúng), viết tắt
cực kì bắt mắt: OK was OK. Những người ủng hộ Martin còn lập ra những
“Câu lạc bộ OK”, còn những kẻ phản đối sẽ áp dụng công thức ban đầu của các nhà
tri thức trẻ Boston để tạo nghĩa mới cho OK như “Orful Katastrophe” (awful
catastrophe – thảm họa tệ hại) để làm nhục tổng thống. Martin sau đó
đã thua cuộc tranh cử này nhưng những hoạt động tranh cử của ông đã đủ làm từ
“OK” nổi tiếng khắp nước Mỹ. Khi KC hay OW dần đi vào quên lãng, “OK” ngày càng
phổ biến. Năm 1844, máy điện báo được phát minh và mọi người cần một cách ngắn
gọn và hiệu quả để xác minh đã nhận được tin nhắn. “OK” đã được chọn và các hướng
dẫn sử dụng điện báo ghi rõ rằng tất cả tin điện báo phải được hồi âm với tín
hiệu “OK” khi nhận.
Ngày 8/3/1965, những quân nhân đầu tiên của Tiểu Đoàn 3, Thủy
Quân Lục Chiến Mỹ, đổ bộ xuống Đà Nẵng, tiếng lóng OK đã theo chân các chú G.I.
du nhập vào Việt Nam. OK lập tức được Việt hóa thành “OK Salem” khi dân đạp
xích lô, trẻ đánh giầy chạy theo lính Mỹ chìa tay xin thuốc lá hay kẹo cao su.
Càng ngày số lính Mỹ tại Việt Nam càng gia tăng. Họ có mặt trên nhiều tỉnh
thành. Các quán snack bar mọc lên như nấm để phục vụ nhu cầu
giải trí của họ. Khác với các snack bar bên Mỹ là những cửa
hàng bán thức ăn nhẹ, xì-nách-ba ở Việt Nam là nơi uống rượu giải sầu của đám
thanh niên trai tráng xa nhà. Giải sầu phải có các cô gái ngồi bên cùng uống mới
có ép-phê nên một loạt các cô gái bán bar với áo quần cũn cỡn,
đổ xô nhau hành nghề. Họ không uống rượu mà mè nheo lính Mỹ mua “Saigon tea” với
giá khoàng 1 đến 2 đô một ly cho họ uống. “Saigon Tea” trở thành một tiếng lóng
mà anh lính Mỹ nào cũng nằm lòng. Các cô gái bán ba thường ít học, không biết
tiếng Mỹ nên sáng chế ra các tiếng lóng giả cầy mà anh lính Mỹ nào cũng hiểu
như “No star where” (Không sao đâu), “Buy me Saigon
tea” (Mua Saigontea cho em).
Tiếng Mỹ giả cầy còn có từ “mumber one” mà
ta gọi là “số dzách”. Thành phần bình dân giao dịch với lính Mỹ muốn khen anh
G.I. chi xộp chỉ cần giơ một ngón tay: “You number one”. Vậy
là hai bên đều hiểu là một câu khen. Trái ngược lại “number ten” là
câu chê. Thậm tệ hơn là câu chê “năm-bơ-ten tháo giường”. Đó là phiên âm của “number
ten thousand”!
Sài Gòn là thành phố rất sinh động nên thời nào cũng phát
sinh ra tiếng lóng của thời đó. Thời Pháp thuộc, nhà bưu điện gọi là “nhà dây
thép”, con tem gọi là “con cò”, cảnh sát trưởng một quận được gọi là “ông cò”,
nhân viên sửa morasse tại các tòa báo là “thầy cò”, tay môi giới
chạy việc là “cò mồi”, tiền môi giới chạy việc gọi là “tiền cò”. Không biết có
còn những “cò”nào khác không?
Khi kinh tế phát triển, xe hơi có tiếng lóng là “xế hộp”, xe
ngựa là “ôtô hí”, xe đạp là “xế độp”, đi nhảy đầm là “đi bum”, đi tán gái là
“chim gái” hoặc “cua gái” hay “o mèo”, cua gái với ý đồ xấu là “bắt bò lạc”, đi
ngắm gái là “đi nghễ”, quần là “quởn”, quần áo xịn diện đi chơi là “đồ vía”,
chơi tứ sắc là “đi xòe”, đánh chắn là “múa quạt”, chơi mạt chược là “đi xoa”,
đi uống rượu là “đi nhậu”, tiền bạc gọi là “địa”, nhiều tiền là “đông địa”, làm
tiền người khác là “bắt địa”, ăn cắp là “chôm chỉa” hay “nhám tay” hoặc “cầm nhầm”,
tuyệt vời là “hết sảy”, không giữ lời hứa là “xù”, bố mẹ là “ông bà via” hoặc
“khứa lão”.
Cái chết thường bị kiêng kỵ, ít được nhắc tới. Vậy mà tiếng
lóng Sài Gòn có tới 7 tiếng lóng chỉ cái chết: tịch, hai năm mươi, mặc sơ-mi gỗ,
đi ô tô bương, chầu Diêm vương, đi bán muối, hui nhị tỳ. Kể cũng…can đảm.
Dân làng báo chúng tôi hồi đó cũng là vua tiếng lóng. Báo
hàng ngày gọi là “nhật trình”. Nhật trình ra hàng ngày nên những giờ trước khi
báo ra tòa soạn nhộn nhịp như đánh vật. Kẻ chạy ra, kẻ đi vô, cột báo thiếu mấy
phân cần trám vô, vậy là “tin kho tiêu” được moi ra. Tin kho tiêu là tin không
cần thời gian, cứ vứt đó, khi nào có một khoảng trống cần ráp vô là moi ra xài.
Các nhật báo ngày đó thường có mục “Xe Cán Chó, Chó Cán Xe” đăng những tin hạng
nhì, vậy mà cột báo này lại ăn khách. Hầu như trong mỗi người chúng ta đều có
tính tò mò nằm vùng. Tin loại “chó cán xe” đáp ứng được cái tính đó. Những tin
quan trọng được gọi là “tin vơ-đét”, nhại từ chữ tây vedette, được
bưng lên trang nhất. Tóm tắt tài liệu thành một bài tóm gọn gọi là “luộc bài”,
chắp nhiều nguồn vào thành một bài gọi là “xào bài”. Tin tung ra để thăm dò dư
luận là “tin ba-lông”. Đây là một thứ tin có thể có thật chưa được tiết lộ,
tung ra để coi phản ứng của độc giả. Tin ba-lông khác với “tin phịa” là tin
hoàn toàn bịa đặt. Điển hình là phóng sự “Con Ma Vú Dài tại Khám Chí Hòa” của
báo Trắng Đen vào đầu thập niên 1960.
Báo hàng ngày hồi xưa đều phải có truyện dài hàng ngày, gọi
lả “feuilleton”, để giữ độc giả. Đây là chiêu cạnh tranh nhau
khốc liệt nhất. Đầu tiên chỉ một truyện, rồi leo thang lên dần tới cả chục truyện.
Có lúc ông Thứ Trường Bộ Thông Tin Trần Ngọc Huyến phải ra lệnh giới hạn mỗi
báo chỉ được đăng một truyện feuilleton thôi. Nhưng chỉ một thời
gian ngắn sau, khi ông Phạm Thái nắm bộ Thông Tin đã cởi trói cho đăng thả
giàn. Các nhà văn Mai Thảo, Văn Quang, Nguyễn Thụy Long, Duyên Anh và nhiều nhà
văn nổi tiếng khác đều đã cầm tiền feuilleton. Mấy ông nhà văn thường
lười, viết truyện feuilleton thì không lười được, mỗi ngày phải
trám đủ mấy cột báo. Nhờ vậy mà các ông có tác phẩm xuất bản sau khi đăng báo.
Phần lớn tiểu thuyết của Mai Thảo đều là sản phẩm mì ăn liền từ feuilleton.
Nhưng rầm rộ nhất của truyện feuilleton là ông nhà văn Kim
Dung sống ở Hồng Kông. Truyện của ông được đăng hàng ngày trên báo Hồng Kông bằng
tiếng Hoa, nhiều báo Việt Nam đăng lại. Người tiên phong dịch truyện Kim Dung
là Tiền Phong Từ Khánh Phụng. Ông này người Minh Hương, thường được gọi tên là
“Sìn Phoóng”, đọc chữ Hoa nhanh như chớp. Truyện đầu tiên ông dịch là Bích Huyết
Kiếm đăng trên báo Đồng Nai. Một dịch giả trẻ thông thạo chữ Hán là Tam Khôi “cạnh
tranh” dịch bộ Anh Hùng Xạ Điêu cũng của Kim Dung đăng trên tờ Dân Việt. Từ đó
báo chí Sài Gòn rộ lên truyện Kim Dung. Một loạt các dịch giả truyện Kim Dung từ
đó nổi lên được các báo trải chiếu hoa đón chào. Hàn Giang Nhạn, Từ Khánh Vân,
Phan Cảnh Trung, Đà Giang Tử, Tường Anh, Lã Phi Khanh, Vũ Ngọc, Dương Quân,
Khưu Văn, Cao Tự Thanh, Lê Khánh trường, Đông Hải, Hoàng Ngọc (Huỳnh Ngọc Chiến),
Vũ Đức Sao Biển, Ngọc Thạch Hữu Nùng, Phạm Tú Châu.
Truyện Kim Dung đăng trên Minh Báo ở Hong Kong, mỗi ngày chỉ
vài ngàn chữ. Nhưng vài ngàn chữ này là vàng ròng được gửi theo máy bay đi khắp
nơi trong đó có Việt Nam. Thời Đệ Nhất Cộng Hòa Sài Gòn chỉ có 9 nhật báo.
Tháng 12/1963, sau đảo chánh, có tới 44 tờ. Tất cả đều có đăng truyện kiếm hiệp
của Kim Dung. Có khi máy bay từ Hồng Kông qua chậm, các dịch giả, các chủ báo
và các độc giả vò đầu bứt tai như đỉa phải vôi. Hàn Giang Nhạn là dịch giả được
các chủ báo o bế nhất. Ông dịch cho cả chục tờ báo. Khi nhận được tờ Minh Báo,
ông nửa nằm nửa ngồi trên ghế trường kỷ, mắt đọc, miệng dịch cho người thư ký
ngồi bên cạnh ghi lại, chung quanh là các tay chạy bài của các báo có hợp đồng
ngồi chờ. Người thư ký ghi trên một sấp giấy có kẹp giấy than để viết thành nhiều
bản. Ngưởi thư ký đó là ông Nguyễn văn Tầm sau này kể lại: “Nhà của Hàn Giang
Nhạn tiên sinh ngày ấy ở Bàn Cờ. Buổi sáng, tiên sinh vừa uống cà phê xong là
đã có 12 anh tùy phái của các nhật báo tới chờ. Tiên sinh mở tờ Minh Báo ra và
cứ thế mà dịch và đọc cho tôi viết bằng tay. Tôi phải lấy 12 tờ giấy pelure loại
mỏng, lót 11 tờ carbon, cố gắng ấn đầu bút Bic xuống thật mạnh để
“lực đạo” có thể in qua 12 tờ giấy. Hễ tùy phái nào đến trước thì được bản ở
trên, ai tới sau phải chịu lấy bản ở dưới. Cho nên chữ nghĩa lộn xộn, cùng một
dịch giả mà báo này in khác báo kia”. Mấy ông sắp chữ ở các tòa báo hẩm hiu nhận
phải bản mờ căng mắt lên vừa đọc vừa đoán, có khi chữ tác đánh ra chữ tộ, nên bản
dịch do cùng một người dịch mà mỗi báo in một phách! Cũng từ truyện chưởng Kim
Dung, các nhà văn thứ thiệt khi viết phim đã dùng tên các nhân vật trong truyện
làm bút danh như: Kiều Phong (Lê Tất Điều), Hư Trúc (Nguyên Sa), Kha Trấn Ác
(Chu Tử). Truyện chưởng Kim Dung phổ biến như vậy nên có nhiều tiếng lóng ăn
theo. Như “Nhạc Bất Quần” chỉ người ngụy quân tử, “Đoàn Chính Thuần” chỉ đàn
ông đa tình nhiều vợ. Ngôn ngữ vỉa hè còn có “tẩu hỏa nhập ma”, “cho một chưởng”,
“nhất dương chỉ”.
Cuối cùng tôi không thể bỏ qua một tiếng lóng thời thượng
còn sống lay lất tới tận bi chừ: “xưa rồi Diễm”. Ai cũng biết chữ lóng này bắt
nguồn từ bản nhạc Diễm Xưa của Trịnh Công Sơn. Bản nhạc này là một trong những
bài nổi tiếng nhất của nhạc sĩ họ Trịnh, không chỉ ở Việt Nam. Tại hội chợ
Osaka năm 1970, ca sĩ Khánh Ly đã hát lời Nhật của Diễm Xưa dưới nhan đề: Utsukushii
mukashi. Dân Nhật kết bài hát này liền. Họ đã chọn Diễm Xưa Utsukushii
mukashi là một trong 10 tình ca hay nhất mọi thời đại tại Nhật. Ca sĩ
Nhật Yoshimi Tendo đã hát lời Nhật bản Diễm Xưa và được xếp hạng 11 trong 20 ca
khúc hay nhất trên truyền hình. Đài truyền hình Nhật NHK đã chọn bản Diễm Xưa
làm nhạc chính cho một bộ phim nói về cuộc hôn nhân của một ông Nhật lấy vợ Việt
Nam. Năm 2004, Đại học Kansai Gakuin đã xuất bản một cuốn sách viết về bản Diễm
Xưa có kèm theo DVD khi đưa bản nhạc này vào chương trình học môn “Văn Hóa và
Âm Nhạc” của trường.
Nhân vật của bản nhạc, Ngô Vũ Bích Diễm, sau khi tốt nghiệp
ban Đốc sự trường Quốc Gia Hành Chánh, đã về làm việc với tôi tại Bộ Xã Hội.
Trong những lần chuyện trò tâm sự, cô cho biết hồi đó còn nhỏ, ở gần nhà Trịnh
Công Sơn tại Huế, thường đi ngang qua nhà Trịnh Công Sơn, khiến người nhạc sĩ
đa tình cảm hứng viết thành nhạc. Khi tới tuổi, cô “tỉnh bơ” đi lấy chồng!
Tôi không sanh trưởng ở Sài Gòn nhưng là dân Sài Gòn. Mỗi lần
có dịp viết về những chuyện Sài Gòn tôi lan man không dứt ra được. Từ khi bị đổi
tên, thành phố làm mặt lạ với dân Sài Gòn xưa. Sài Gòn của tôi, trong tôi vẫn
là những kỷ niệm không bao giờ phai, trong đó có tiếng lóng của Sài Gòn.
06/2025