Bình minh
trên sông Thạch Hãn (Ảnh trên
internet)
Để biết ơn
Thương-Binh V.N.C.H.
Sau khi nghiệm ra, chiến trang không những đã hủy hoại một phần thân xác của chàng mà chiến tranh còn khiến cho tâm hồn nhạy cảm của chàng trở nên yếu đuối lạ lùng, Mạnh thường “chìm” vào cơn say để quên đi nỗi đau thầm kín của chàng!
Nỗi đau của
Mạnh khơi nguồn từ ngày mà những người trai miền Nam miệt mài trong cuộc chiến
do Bắc quân chủ xướng đều mong đợi. Đó là ngày đình chiến 27-01-1973. Mạnh và đồng
đội đều hiểu hiệp định ngưng bắn “da beo” là phi lý, đầy áp lực đối với
quân nhân Việt Nam Cộng Hòa (VNCH) và chỉ có lợi cho “phía bên kia”;
nhưng dù sao, trong một thời gian, giảm thiểu số thương vong cho cả hai phía,
cũng là một điều tốt.
Đối với đa số
quân nhân miền Nam khi xung trận, tâm trạng của họ như thế nào Mạnh không thể
hiểu được. Nhưng riêng Mạnh, chàng xã thân ngoài trận địa do bổn phận và trách
nhiệm thôi thúc chứ không phải được hun đúc bằng lòng thù hận như Bắc quân, khắc
vào người “sinh Bắc tử Nam” hay là “gào” lên mỗi khi chào cờ “thề
phanh thây uống máu quân thù”! Sở dĩ Mạnh không nuôi lòng thù hận những người
bên kia chiến tuyến vì, trong đoàn quân xâm lăng từ phương Bắc thế nào cũng có
Tuất – đứa em duy nhất mà Mạnh đã lìa xa khi Mạnh còn mang “tên cúng cơm” là
Mùi.
Mạnh nhớ
rõ, năm 1954, Mùi đã khóc sưng cả mắt nhưng Mẹ vẫn quyết định ở lại vì Mẹ ngại
ông bà Nội và ông bà Ngoại không biết nương tựa vào ai lúc tuổi già! Lý do Thân
– Bố của Mùi và Tuất – để Tuất ở lại vì ông bà Nội sợ sau khi ông bà Nội qua đời
không ai để tang, không ai nhan khói!
Từ ngày rời Hải-Phòng
đến ngày hưu chiến cũng gần 20 năm, Mạnh không biết ông bà Nội, ông bà Ngoại
còn sống hay đã về tiên cảnh và Tuất có được dịp chít vành khăn tang cho Ông Bà
hay không; nhưng Mạnh biết chắc chắn một điều là không thể nào Tuất được ở lại
làng để lo nhang khói cho Ông Bà; vì ngoài Bắc không có đạo luật như miền Nam:
Miễn dịch cho những người con trai duy nhất còn lại trong gia đình. Mạnh nghĩ,
Tuất, hoặc đã chết trên đường mòn Hồ-Chí-Minh, hoặc đang có mặt trong đoàn quân
vượt vùng phi quân sự để vào đến bờ sông Thạch-Hãn này. Vì nghĩ như vậy, cho
nên, mỗi khi lính bắt được tù binh, Mạnh thầm mong tù binh là Tuất để Mạnh biết
Tuất còn sống và có ngày Tuất sẽ được trao đổi tù binh chiến tranh. Cũng có khi
Mạnh mong tù binh không phải là Tuất để Mạnh tránh được cảnh đau lòng khi thấy
em vào tù mà chàng không thể can thiệp. Nghĩ quanh quẩn một klúc, Mạnh cười lớn;
bởi vì, dù trong hoàn cảnh nào đi nữa, làm thế nào Mạnh có thể nhận diện được
Tuất khi mà anh em xa nhau đến gần 20 năm!
Lệnh ngưng bắn chỉ
vừa truyền đi trên đài phát thanh được vài phút, Mạnh nghe nhiều tiếng reo hò,
rồi một giọng Bắc nghe rất rõ: “Ngưng bắn dzồi, anh em ơi!” Câu ấy được
lập lại từ nhiều hướng khác nhau khiến Mạnh nhận định được rằng đơn vị của
chàng đang ở vào thế “cài răng lược” với đơn vị địch. Mạnh rất yên lòng, vì
“con cái” của chàng đều im lặng, giữ nguyên vị trí.
Không gian
quanh bờ sông Thạch-Hãn trở nên tịch mịch, căn thẳng đến...rợn người! Bỗng một
giọng Bắc lại vang lên: “Các anh Quốc-Gia ơi! Ngưng bắn d…z…ồ…i… Thích quá!”
Đơn vị của Mạnh cũng vẫn im lặng. Một lúc sau lại có tiếng từ hướng khác: “Các
anh Quốc-Gia ơi! Thèm thuốc quá! Cho một điếu.” Sau nhiều lần lập đi lập lại
những câu ấy mà cũng vẫn không được đơn vị lính Cộng Hòa đáp ứng, Bắc quân im lặng.
Khi ánh nắng
mai vừa tỏa sáng cuối chân trời, những lời kêu gọi như lúc khuya lại vang lên.
Bất ngờ Mạnh nghe giọng Nam, sắc và gọn: “Đứng lại!” Mạnh chụp ống liên
hợp, chưa kịp bấm nút để liên lạc kiểm soát tình hình thì đã thấy – cao khỏi những
đọt tranh còn lóng lánh sương mai – lố nhố nhiều nón cối! Ngay tức khắc, Mạnh
và hiệu thính viên chụp vũ khí cá nhân. Vừa khi ấy Mạnh nghe nhiều tiếng “đứng
lại!” vang lên từ nhiều phía. Mạnh đứng bật dậy.
Thấy Mạnh đứng
lên, cả đơn vị của Mạnh cũng đứng lên, sẵn sàng trong tư thế cận chiến. Nhưng,
đồng loạt, Bắc quân đưa cao tay vẫy vẫy: “Ngưng bắn dzồi. Anh em cả. Chúng
tôi đâu có khí giới đâu. Đói và thèm thuốc quá, các anh ủng hộ tý.” Những
người lính miền Nam chất phát, đưa mắt nhìn nhau, khó xử. Bắc quân vừa từ từ bước
đến gần vừa cười cười: “Các anh biết không? Mấy hôm nay đói meo, mỗi ‘nần’
các anh ăn, mùi đồ hộp thơm ‘nừng’, tụi này thèm quá!” Thấy quả thật địch
quân không mang súng, người lính miền Nam cả tin, hạ nòng súng, ùa đến bắt tay
Bắc quân.
Sau vài phút vui
mừng, lính miền Nam lấy thức ăn và thuốc hút trong ba-lô tặng lính miền Bắc.
Lính miền Bắc cười, “khoe” hàm răng hô, rồi “hồ hởi” khui, ăn ngay tại chỗ. Có
người hút hết điếu quân tiếp vụ do lính miền Nam tặng rồi mới thong thả khui thức
ăn, ăn. Vừa ăn lính miền Bắc vừa nhìn từng đôi giày “sô” sờn gót, từng chiếc đồng
hồ cũ kỷ hoặc cặp kính mát được dắt hờ vào túi áo rằn ri của người lính Thủy-Quân
Lục-Chiến rồi trầm trồ một cách thèm thuồng: “Ôi Giời! Đồ đạc của các anh hiện
đại quá! Cho sờ tý.” Lúc này người lính miền Bắc trông ngây ngô, vui thích
và hiền lành như đàn cừu vừa tìm được cánh đồng cỏ non.
Bất ngờ một tiếng
“sát!” vang lên! Nhanh và “ăn khớp” nhau như đã được thực tập nhuần nhuyển, những
con cừu hiền lành ấy bỗng biến thành đàn hổ đói vừa ngửi được mùi thịt tươi! Bắc
quân phùng mang, trợn mắt, vung dao găm, đâm túi bụi vào chính những người vừa
cho chúng ăn! Nhiều thây người gục xuống. Mũ xanh, nón sắt rơi ơ hờ cạnh gốc
tranh câm nín. Máu đỏ vẽ thêm những đường kỷ hà trên quân phục rằn ri!
Vài tiếng súng rời
rạc vang lên trước khi Mạnh đủ sức quay sang hiệu thính viên, có ý dùng ống
liên hợp ra lệnh đừng bắn. Một tay ôm vết thương nơi lồng ngực bên trái, một
tay Mạnh cố sức hất thân người của hiệu thính viên – đã bị tử thương do đạn của
Bắc quân – sang một bên để Mạnh xử dụng máy truyền tin. Vừa khi ấy, một “anh
nón cối” chạy ngang qua. Nghe tiếng máy truyền tin “rè rè, rẹt rẹt”, “anh nón cối”
dừng lại. Thấy Mạnh nằm nghiêng, đang áp tai vào ống liên hợp trong tư thế liên
lạc, “anh nón cối” hươi dao găm lên, tính đâm vào lưng của Mạnh. Bất ngờ Mạnh
ngẫng lên, ánh mắt đầy thảng thốt. Khi ấy “anh nón cối” cũng vừa thấy trên vai
của Mạnh mỗi bên hai gạch trắng lớn dính sát vào một vòng tròn nhỏ cũng màu trắng và một vùng máu đỏ đang nhuộm thắm phần
trên của túi áo, nơi có bảng tên Nguyễn Văn Mạnh.
Lần đầu
tiên trực diện với sĩ quan quân đội miền Nam, “anh nón cối” hơi lúng túng.
Nhưng thấy Mạnh bị thương, “anh nón cối” lấy lại bình tĩnh ngay. “Anh nón cối”
đá ngược vào mặt Mạnh làm Mạnh bật ngửa ra. Ngay lúc đó “anh nón cối” đâm vào
vùng bụng dưới của Mạnh và tiện tay, hắn xoay lưỡi dao! Mạnh quặn người, nghiến
răng, dồn hết tàn lực vào đôi tay, chụp cánh tay của “anh nón cối”, bóp chặt.
“Anh nón cối” bậm bờ môi thâm sì, dùng tay trái trợ lực, ấn dao găm sâu xuống,
sâu xuống nữa! Trong nỗi đau tột cùng, Mạnh nhìn “anh nón cối” bằng ánh mắt ngỡ
ngàng đến khó hiểu rồi buông tay, khép mắt!
Mạnh tỉnh lại
khi chiếc trựa thăng mang dấu hồng thập tự “là đà”, sắp đáp xuống. Mạnh cảm thấy
ươn ướt nơi bờ môi. Mở mắt, Mạnh thấy y-tá đang dùng bông gòn thấm nước, “rà”
quanh bờ môi khô nứt của chàng. Thấy Mạnh tỉnh lại, y-tá dừng tay, giọng reo
vui: “Ông Thầy! Ráng đi ông Thầy! Trực thăng tản thương tới rồi, ông Thầy.”
Mạnh thều thào: “Con cái của tao bị nặng không?” Y-tá lắc đầu, tỏ vẻ thiểu
não: “Tơi bời hoa lá, ông Thầy!” Mạnh thở dài. Trước khi chìm lại vào
hôn mê, Mạnh còn nghe giọng bực tức của Cao, một hạ sĩ rất gan lỳ của đơn vị –
cũng bị thương – hỏi một tên thương binh cộng sản: “Đã có lệnh ngưng bắn, tại
sao các anh còn tấn công chúng tôi?” Vì thấy có sự hiện diện của vài tên Tiệp-Khắc
trong ủy ban liên hợp bốn bên, tên Việt cộng biết tính mạng của anh ta sẽ không
đến nỗi nào và cũng vì bản chất gian manh của người cộng sản, anh ta phát ngôn
không ngượng miệng: “Chúng tối tấn công các anh bao giờ? Vết thương nơi chân
tôi ‘nà’ do đạn M16 của các anh bắn chứ có ai nghe hoặc thấy súng của chúng tôi
nổ chưa? Các anh bắt tôi ‘nà’ các anh vi phạm hiệp định ‘Ba-Nê’. Chúng tôi sẽ
‘chanh’ đấu để đưa sự kiện này ‘nên’ ủy ban ‘niên’ hợp bốn bên.” Một
quân nhân thều thào: “Cao! Đang không, đ. m., sao mày dở nắp ống cống lên
chi vậy?”
Bao nhiêu năm rồi,
nhưng mỗi khi nhớ lại câu nói đầy ý nghĩa của một thuộc cấp, Mạnh cũng vẫn phải
cười vì sự thâm thúy của chàng “lính thủy đánh bộ”.
******
Chiếc phản lực của
hãng hàng không Northwest càng bay xa lục địa Hoa-Kỳ bao nhiêu Mạnh càng cảm thấy
bồi hồi bấy nhiêu. Mối tình cảm này tương tự như tâm trạng của Mạnh, năm 1982,
khi Mạnh được phóng thích khỏi trại cải tạo, ngoài Bắc, đáp xe lửa về Nam.
Khi chuyến
xe lửa vừa qua khỏi cầu Bến-Hải, nỗi buồn sâu kín không biết từ đâu “ùa” đến,
phủ ngập cả hồn chàng! Nghĩ ngợi một lúc Mạnh mới tìm ra nguyên nhân gợi buồn
là chiếc cầu Hiền-Lương! Ranh giới phân chia đất nước đã được xóa trên bản đồ,
cũng như hai vết sẹo nhăn nhúm trên cơ thể của Mạnh đã lành lặn; nhưng biết đến
bao giờ dòng sông đẩm máu này mới thoát khỏi tính chất oan nghiệt của nó; cũng
như biết đến khi nào những tế bào nơi hai vết sẹo của Mạnh mới trở lại trạng
thái bình thường!
Khi xe lửa
qua khỏi ga Tuy-Hòa một chốc, Mạnh khóc lúc nào Mạnh cũng không hay! Nước mắt của
Mạnh bây giờ chỉ âm thầm lăn dài trên hai gò má trũng sâu chứ không tuôn trào
cùng tiếng thét gào điên loạn của thằng Mùi trong một đêm hãi hùng cách nay xa
lắm.
Đêm hãi hùng đó,
trên chuyến tàu từ Tuy-Hòa về Nha-Trang, Mùi ngồi cạnh Bố, nhớ lại hương vị của
biển và những món ăn tuyệt vời mà người bạn gái của Bố ở Tuy-Hòa nấu đãi hai Bố
con nhân dịp Mùi thi đậu trung học đệ nhất cấp. Tội nghiệp Bố và người đàn bà
đang muốn chiếm vị thế của Mẹ! Bao nhiêu tiền dành giụm Bố và bà ấy đều vui
thích và hãnh diện đưa Mùi đi may áo quần, mua sách vở, dày dép, chuẩn bị cho
Mùi làm “cậu tú”, vì Mùi quyết định “học nhảy” lớp đệ tam. Nghĩ đến sách vở và
quần áo mới, Mùi cảm thấy thương Bố quá, vỗ nhẹ vào vai Bố: “Bố! Mai mốt học
xong con cũng đi Biệt-Động-Quân giống Bố, nha, Bố!” Thân giật mình: “Bố
mày! Cho mày ăn học để mày làm ông kia ông nọ chứ bộ để đi lính giống tao à?” Mùi
ngây thơ: “Thế Bố muốn sau này con làm gì?” Có lẽ đã “nuôi” ước vọng này
từ lâu, Thân đáp ngay: “Làm bác sĩ, kỹ sư, luật sư, thiếu gì nghề danh giá,
con.” Mùi lắc đầu: “Nhưng con muốn đi lính cơ! Đi lính như Bố oai thấy mồ,
ai thấy cũng phải chào.” Thân chấm dứt ước mơ của Mùi: “Thôi, về lo học
hành, đừng nói nhảm.”
Hai Bố con im lặng
được một chốc, bỗng xe lửa hãm nhanh tốc lực. Nhiều tiếng “lao xao” từ nhóm người
đi buôn: “Rồi! Tụi nó chận đường nữa rồi!” Thấy vẻ hốt hoảng hiện lên mặt
mọi người nhưng Mùi chẳng biết chuyện gì đang xảy ra. Bỗng Thân chụp cái xắc có
bộ quân phục giấu kín trong ấy, liệng qua cửa sổ toa xe, trước đôi mắt ngơ ngác
của Mùi. Thân nắm chặt tay Mùi, giọng lo âu, nói vào tai Mùi: “Coi chừng
chúng nó bắt thanh niên đi theo chúng nó. Có gì con cố chạy thoát, đừng để
chúng nó bắt, nghe chưa?” Lúc này Mùi mới lờ mờ hiểu và sợ.
Xe lửa dừng
hẳn. Những người ngồi gần cửa bắt đầu rời xe với thái độ rất sợ hãi. Những người
ngồi bên trong cũng tuần tự đi ra. Tất cả đứng gom lại nơi thửa ruộng khô. Mấy
người mặc đồ bà ba đen, tay xách đèn lồng – không biết xuất hiện từ đâu – bắt
đàn bà, người già và trẻ con đứng riêng; đàn ông đứng riêng, rồi “đồng chí
chính trị viên” bắt đầu tuyên truyền.
Giữa lúc
tinh thần mọi người bị chi phối và căn thẳng đến tột độ, một tiếng hô
“nghi…ê…m…” vang lên. Phản ứng tự nhiên của những người lính chuyên nghiệp,
Thân – cũng như những quân nhân khác đang mặc thường phục – vội đứng thẳng, cụp
hai chân vào nhau trong thế nghiêm thì nhóm Việt-Cộng nhận ra ngay ai là lính
miền Nam. Việt-Cộng nhào đến, bắt ngay những người lính không vũ khí ấy đứng
riêng ra!
Trong khi
Mùi run sợ, chỉ biết nhìn Thân lủi thủi tuân lệnh Việt-Cộng thì “đồng chí chính
trị viên” điểm điểm ngón tay trỏ vào toán lính V.N.C.H., mặt hắn xoay về nhóm
thường dân, lên án: “Đồng bào thấy rõ, đây là những tên phản động, tay sai của
đế quốc Mỹ, mang tâm liếm gót giày bọn ‘sen đầm’ quốc tế, phản lại dân tộc.
Chúng nó đáng tội chết! Chúng nó phải đền tội trước nhân dân!”
Nghe “chính
trị viên” phát biểu, toán lính V.N.C.H. đưa mắt nhìn nhau, ngầm hiểu rằng cuộc
đời của họ chắn chắn sẽ kết liểu tại đây! Đã vậy thì liều! Thân hô lớn “Biệt-Động-Quân!
Sát!” Như nghe một mệnh lệnh khi xuất quân, những người lính V.N.C.H. vừa
chồm tới, chưa kịp thực hiện chiến thuật cận chiến với toán Việt-Cộng thì khẩu
đại liên – không ai biết Việt-Cộng đặt trên mui xe lửa từ lúc nào – quạt từng
loạt đạn vào toán lính V.N.C.H. không khí giới, trước sự kinh hoàng của mọi người!
Mùi hét lên
“Bố! Bố ơi! Bố!” và dợm người muốn chạy đến ôm xác của Thân; nhưng một
phụ nữ kéo Mùi lại: “Im! Mày muốn tụi nó giết mày luôn hả?” Mùi hãi quá,
nín thinh. Đến khi mấy người mặc đồ bà ba đen thổi tắt mấy ngọn đèn lồng và biến
vào bóng đêm, mọi người mới ùa đến bên các nạn nhân. Mùi gục đầu lên xác của
Thân và kêu khóc thảm thiết. Người phụ nữ lúc nãy lại đến, ai ủi, dỗ dành Mùi.
Nhưng Mùi vẫn cứ khóc cho đến khi khan cả tiếng mới chịu lặng yên. Mùi ngồi giậy,
khoanh tay vòng hai đầu gối rồi gục đầu lên, thút thít. Thỉnh thoảng Mùi nhìn
xác thân bê bết máu của Bố rồi quẹt nước mắt!
Sau bao
nhiêu biến thiên của cuộc sống, Mùi tưởng Mùi đã quên được đêm kinh hoàng đó,
nhưng không! Mỗi khi nhớ lại Mùi vẫn còn xúc động, lặng lẽ lau nước mắt. Mùi thở
dài! Từ một thằng Mùi côi cút, Mùi lăng xả vào đời với tên mới – Mạnh – như ngầm
nhắc nhở mình luôn luôn hướng về tương lai với tinh thần cứng rắn và niềm tự
tin trong một cơ thể tráng kiện.
Nhưng, sau lần bị
thương vào ngày ngưng chiến để người vợ trẻ của chàng lặng lẻ ra đi – vì hình
hài của Mạnh đã mất khả năng thiên bẩm của người đàn ông – Mạnh tự biết rằng
lòng tự tin trong chàng không còn nữa! Và giờ đây, sau bao nhiêu năm tù đầy
ngoài Bắc-Việt, cơ thể chàng còm cỏi, tâm hồn chàng rã rời, mất hết sức phấn đấu,
Mạnh không hiểu chàng còn lý do gì để hướng vế ngày mai! Vì nghĩ như vậy, Mạnh
nhận biết rằng, lẫn trong những dòng nước mắt khóc Cha lần này còn có những giọt
lệ Mạnh khóc cho chính cuộc đời của chàng!
Để lòng bớt
ngậm ngùi với quá khứ, Mạnh đứng lên, chồm ra cửa sổ, hít vào buồng phổi luồng
gió trong lành của Vịnh Đại-Lãnh im lìm. Xe càng xa xứ “nẫu” bao nhiêu thì nỗi
buồn càng lui xa trong lòng Mạnh bấy nhiêu. Và cuối cùng là khối tình cảm bồi hồi,
xúc động âm ỷ nổi lên trong lòng Mạnh. Đến khi xe lửa dừng tại ga Nha-Trang, khối
tình cảm ấy mới biến thành sự lạc lõng, sự cô đơn như dạo nào chàng và Bố vừa rời
tàu “há mồm” sau nhiều ngày rời bến Hải-Phòng!
Ra khỏi ga xe lửa,
Mạnh ngơ ngác, không biết về đâu; vì Mạnh lớn lên và khởi sự binh nghiệp từ trường
Thiếu-Sinh-Quân! Thấy nhiều kẻ ăn xin bám theo hành khách, Mạnh chạnh lòng,
nhưng chợt nhớ số tiền quá ít trong túi, Mạnh lắc đầu, nhìn lơ chỗ khác. Bất ngờ
Mạnh chú ý đến tấm thẻ nhựa nhỏ được gắn nơi ngực của một hành khất mù đang ngồi
im lặng cạnh mấy chiếc xích-lô, tay đưa gáo dừa ra xin. Nhìn kỷ, Mạnh giật
mình. Tấm thẻ nhựa ấy là thẻ căn cước quân nhân V.N.C.H! Mạnh bước đến, hỏi nhỏ:
“Sao anh dám đeo căn cước quân nhân? Anh không sợ à?” Người hành khất
đáp: “Tôi còn gì để họ đầy ải nữa đâu mà sợ!” Mạnh lấy trong túi quần ít
tiền, khom người, nhét nhanh vào tay người ăn xin: “Anh cầm tạm. Tôi không
có nhiều.” Ngay lúc đó, một người ngồi trên Honda hỏi Mạnh: “Mới được thả
về hả? Muốn về đâu?” Mạnh ngạc nhiên, đứng lên: “Anh hỏi tôi, phải
không?” Người ngồi trên Honda cười: “Chứ hỏi ai nữa bây giờ! Anh nhìn
quanh đây xem ai giống anh không thì biết hà!” Mạnh ngần ngừ: “Tôi không
có nơi nào để về cả. Số tiền còn lại trong túi tôi chắc chắn không thể nào đủ
trả cho cuốc xe từ đây ra nghĩa trang Phật-Giáo.” Người ngồi trên Honda cười
lớn: “Bộ không có chỗ nào về rồi ra nghĩa trang ngủ nhờ sao, cha nội?” Mạnh
cũng cười: “Tôi muốn thăm mộ của Bố tôi.” Người ngồi trên Honda cho xe nổ
máy, thúc: “Trời đất! Thôi, lên lẹ đi, cha.” Trong khi cho xe chạy ra cầu
Hà-Ra, người lái tự giới thiệu là Vũ, cựu Mũ Nâu. Sau những chuyến xe thồ thường
nhật, trước khi về nghỉ, Vũ thích ghé ga xe lửa đón tù cải tạo mới được tha,
đưa họ về với gia đình mà không nhận thù lao. Trường hợp của Mạnh, vì thấy
nghĩa cử của Mạnh đối với người hành khất và hiểu hoàn cảnh của Mạnh, Vũ xúc động,
đề nghị Mạnh về ở tạm nhà Vũ, Vũ sẽ tìm người cho Mạnh dạy kèm Anh văn, kiếm tiền…
Dòng ý tưởng
của Mạnh vừa đến đây, bất chợt giọng nhỏ nhẹ của cô tiếp viên hàng không đưa Mạnh
trở về thực tại:
- Thưa ông,
ông dùng loại nước giải khát nào ạ?
Mạnh cười và xin
một ly Sprite. Vị ngòn ngọt, chua chua và cảm giác mát lạnh của vài ngụm Sprite
đem đến cho Mạnh sự dễ chịu và thoải mái. Nhìn ra cửa sổ phi cơ, thấy từng áng
mây trắng xóa, Mạnh có cảm tưởng như chiếc phi cơ bay rất chậm. Đôi lúc Mạnh tưởng
như phi cơ đứng yên và mây trôi lặng lờ. Mạnh nhận ra rằng, thân phi cơ, cũng
như thân xác của chàng, so ra rất nhỏ bé trong không gian bao la này.
Phi cơ lên cao,
lên cao nữa và vượt khỏi nhiều tầng mây để Mạnh thấy, phía trên phi cơ, bầu trời
trong xanh như biển của những ngày sóng lặng; và dưới lườn phi cơ, mây trắng kết
liền nhau, trông như cánh đồng tuyết. Cuối tầm mắt, bầu trời xanh và “cánh đồng
tuyết” tiếp giáp nhau trông như vòng chân trời mà Mạnh thường thấy vào những
chiều lang thang trên bờ biển ở trại tỵ nạn Ga-Lăng.
Thời gian ở trại
Ga-Lăng, tuy thiếu thốn, cô đơn, buồn nản nhưng Mạnh không phải lo bị mất việc,
không tiền trả bills; Mạnh cũng không phải làm quần quật như từ ngày đến
Mỹ.
Ở Việt-Nam,
trình độ Anh ngữ của Mạnh được kể là khá, dạy kèm học sinh để kiếm sống và để
dành tiền vượt biên. Vì vậy, Mạnh cứ hy vọng khi đến Mỹ, Mạnh sẽ tìm được việc
làm tương đối nhẹ nhàng và lương khá. Không ngờ, khi đến Mỹ, Mạnh chỉ tìm được
việc làm ở một body shop.
Khi một người bạn
về Bắc thăm nhà, Mạnh nhờ người ấy tìm cách liên lạc về làng xưa, tìm Mẹ và Tuất;
vì năm 1954 ra đi, Mạnh còn quá nhỏ, không thể nhớ địa chỉ. Cũng vì lý do đó,
khi bị cộng-sản Việt-Nam (csVN) giải ra Bắc, Mạnh không thể liên lạc về gia
đình.
Sau khi người bạn
giúp liên lạc được với bà Thân và Tuất, Mạnh phải làm thêm việc giữ an ninh cho
một nhà kho, vào cuối tuần, để có phương tiện giúp Mẹ và Tuất. Lúc này Tuất đã
có ba người con trai; đứa lớn tử trận khi bị csVN đưa sang Cao-Miên làm “nghĩ vụ
quân sự”.
Suốt thời gian
liên lạc được với Mạnh, bà Thân và Tuất chưa bao giờ cho Mạnh biết sự thật về
những cái chết đau thương của ông bà Nội/Ngọai. Và Mạnh cũng chưa dám cho bà
Thân và Tuất biết csVN đã dùng thủ đoạn đê hèn để giết ông Thân – vì ngại thơ bị
kiểm duyệt và “nhà nước” sẽ gây khổ nạn cho bà Thân.
Đến khi Mạnh về
làng xưa, lần đầu tiên chỉ có ba Mẹ con ăn cơm với nhau, tại nhà Tuất, bà Thân
mới bùi ngùi kể lại cho Mạnh nghe về sự “ra đi” của ông bà Nội/Ngoại và Mạnh
cũng có cơ hội thuật lại cái chết đầy bi thương của ông Thân!
Cái chết của ông
Thân đã khắc sâu vào tâm khảm của Mạnh. Giờ đây lại biết sự thật về bốn đại
tang, Mạnh bàng hoàng, đau xót vô cùng! Giữa khi gia đình đang đau buồn, bất ngờ
một công an phường xuất hiện, đưa giấy, bảo Mạnh sáng mai phải đến phường “làm
việc”. Mạnh sững sờ nhìn anh công an bằng đôi mắt mở lớn, đầy ngỡ
ngàng/hoảng hốt...
Thấy ánh mắt của
Mạnh, Tuất giật mình. Ánh mắt ấy như dội vào tâm thức để Tuất phải bận tâm, phải
nghĩ ngợi!
Đêm đó, sau khi
anh em nằm bên nhau trên chiếc phản, hàn huyên cho đến gần sáng, Mạnh rơi vào
giấc ngủ một cách dễ dàng. Riêng Tuất cứ trằn trọc mãi, không ngủ được, vì bị
ánh mắt khó hiểu của Mạnh lúc chiều ám ảnh. Tuất cố vận dụng trí nhớ để xem Tuất
đã thấy ánh mắt ấy ở đâu, vào dịp nào, nhưng đành chịu! Rồi Tuất hồi tưởng lại
những cuộc đụng độ dữ dội với quân miền Nam xem những nạn nhân của nòng súng, lựu
đạn và mũi dao/mã tấu của Tuất chết như thế nào và động tác của mỗi nạn nhân
trước khi chết ra làm sao! Nhưng vì giết nhiều “kẻ thù” quá, Tuất không thể nhớ
được “kẻ thù” nào có ánh mắt lạ lùng đó!
Khi Tuất
thiu thiu ngủ, ánh mắt ấy lại hiện về. Tuất không dám mở mắt, cố tập trung tư
tưởng vì ngại ánh mắt ấy sẽ biến đi. Tuất thấy sau đôi mắt dường như thấp
thoáng loại quân phục có tích cách ngụy trang của lính miền Nam. Tuất vận dụng
tâm trí nhiều hơn nữa và từ từ nhận ra những đường kỷ hà màu xanh, nâu, đen và
trắng chen lẫn nhau. Đúng rồi! Quân phục của Lính Thủy Đánh Bộ! Ô, lạ không! Tại
sao lại có vết máu tươi nơi ngực trái và ống liên hợp kêu “rè rè, rẹt rẹt”…Người
Tuất toát mồ hôi. Đúng là ánh mắt hoảng hốt/ngỡ ngàng của “tên” sĩ quan “Ngụy”
bị Tuất đâm chết cạnh máy truyền tin, bên kia bờ sông Thạch-Hãn, vào hôm có lệnh
hưu chiến!...
Vừa khi ấy, Mạnh
thức giấc, than nóng và đèn sáng Mạnh khó ngủ. Tuất tăng tốc độ quạt máy và
khuyên Mạnh nên cởi áo thun để ngủ cho mát. Tuất đến công tắc điện, có ý đợi Mạnh
cởi áo thun xong rồi mới tắt đèn. Nhưng, khi chiếc áo thun trắng vừa vuột qua
khỏi vai của Mạnh, Tuất nhíu mày vì thấy vết sẹo nơi ngực trái của Mạnh. Tuất hỏi:
- Anh “nàm” gì mà
có vết sẹo dài thế?
Như suốt mấy
ngày qua, với dụng ý không muốn nhắc đến quá khứ, Mạnh đùa:
- Anh có cả…ngàn
vết sẹo chứ phải một đâu, chú!
Biết Mạnh
đùa, Tuất cũng đùa theo:
- Người có
cả ngàn vết sẹo thì… “cái ấy” cũng mang sẹo rồi!
Hai anh em
cười vang. Trong phút giây vui với đứa em mấy mươi năm xa cách, Mạnh cảm thấy
trẻ lại như ngày nào hai anh em ở truồng tắm sông, cho nên quên giữ ý:
- Không phải ngay
“cái ấy” mà gần gần thôi.
Tuất cũng vô
tình, muốn kéo dài niềm vui:
- Đâu, đưa em xem
nào!
Mạnh trật lưng quần
đùi ra. Thấy vết sẹo màu nâu nổi cộm ở vùng bụng dưới của Mạnh, Tuất hoảng
kinh, đứng sững! Đầu óc của Tuất xoay vòng, muốn nổ tung! Ánh mắt lúc chiều, vết
sẹo bên trái của lồng ngực và vết sẹo ở bụng dưới…Lẽ nào! Tuất khổ sở, lắc đầu
nhiều lần rồi nghiêm giọng:
-Anh Mùi! (Tuy biết
Mùi đã đổi tên, nhưng bà Thân cũng như Tuất, đều muốn gọi Mạnh là Mùi; vì tên
Mùi nghe gần gủi, thân thiết hơn.) Hồi trước anh là Lính Thủy Đánh Bộ, đúng
không?
- Anh đã dặn chú
hoài. Tìm hiểu làm chi những chuyện ấy?
- Thôi được. Em
chỉ yêu cầu anh trả lời cho em một chữ “có” hay “không” mà thôi. Chịu không?
Mạnh quen miệng
“Okay”. Tuất hỏi:
- Ngày đình chiến,
đơn vị của anh có đóng ở bên kia sông Thạch-Hãn hay không?
Mạnh hơi hoang
mang về sự tò mò của Tuất, đành đáp “hang hai”:
- Nếu chú cho anh
biết lý do gì chú hỏi anh câu ấy thì anh sẽ trả lời.
Tuất không trả lời,
vội tắt đèn và hấp tấp mở cửa trước:
- Thôi, gần sáng
rồi. Anh nằm nghỉ. Em đi có
tý việc. Em sẽ về ngay.
******
Sau khi
nghe Tuất kể rõ câu chuyện, bà Thân lặng người một lúc rồi thở dài:
- Tuất à! Bất cứ
điều gì xảy ra trên đời đều do “duyên” và “nghiệp” cả. Trường hợp của con và
anh Mùi cũng chỉ là một trong muôn vàn cảnh oái ăm trên đất nước điêu linh này.
Con biết hối và biết thương anh Mùi, thế là đủ.
- Nhưng làm thế
nào con có thể sống với sự ray rức này, Mợ?
- Ý con muốn như
thế nào?
- Con muốn nói thật
với anh Mùi.
- Không nên, con
à! Có bao giờ anh Mùi muốn nhắc chuyện cũ đâu. Vả lại, bây giờ chỉ con và Mợ biết
chuyện, Mẹ con mình đau lòng; nếu anh Mùi biết nữa, chỉ thêm một người nữa đau
lòng chứ có giải quyết được gì đâu, con!
- Nhưng con cũng
có nhiều chuyện ấm ức, con muốn nói với anh Mùi.
Nhờ những lá thư
ngày trườc Tuất thường gửi tay từ trong Nam về cho Bà, bà Thân hiểu tâm trạng của
Tuất. Bà đáp:
- Con có thể nói
với anh Mùi những chuyện ấm ức đó. Nhưng, Mợ nghĩ, con không cần phải nói
với anh Mùi về lỗi lầm của con ở bên kia sông Thạch-Hãn, vào hôm ngưng chiến!
- Vâng. Con hiểu.
******
Trên chuyến xe lửa
Thống Nhất, Mạnh và Tuất ngồi uống bia nơi toa hàng ăn vào lúc xế trưa, vắng
khách. Nhìn quanh không thấy ai khác, ngoài người ngồi xa xa sau quày tính tiền,
Tuất tiếp, giọng vẫn nhỏ và đều:
- Trong hàng ngũ
bộ đội, biết bao nhiêu thằng như em, nhưng chỉ sợ gia đình bị trả thù cho nên
ít đứa dám ra hồi chánh; bởi thế, anh đừng tưởng ai ở ngoài Bắc cũng đều là cộng-sản
cả đâu.
- Nếu anh nghĩ
như thế, anh đã không về.
Ngưng một chốc, Mạnh
tiếp:
- Dù sao thì họ
cũng là kẻ đã thắng.
- Thắng mẹ gì! Hồi
đó nếu Mỹ cho B52 “rải thảm” thêm một hai trận nữa là bọn chúng đầu hàng vô điều
kiện, cũng giống như Nhật hồi thế chiến thứ hai rồi!
- Thế Tuất không
hãnh diện được có mặt trong đoàn quân chiến thắng à?
- Hãnh diện gì!
Thời chiến, ngoại trừ con cháu bọn “chóp bu”, thằng thanh niên miền Bắc nào khỏi
vào bộ đội? Khi đã xung trận thì giết hoặc bị giết chứ có ai muốn thế đâu, anh!
Mạnh cười cười,
liết chỗ xâm bốn chữ “sinh Bắc tử Nam” trên tay Tuất. Hiểu Mạnh nghĩ gì, Tuất
xòe bàn tay, nhìn vào rồi bưng chai bia, “tu” một hơi, tiếp:
- Anh đã thấy những
thằng bộ đội bị xích chân vào xe tăng, vào thân cây hoặc vào trọng pháo chưa? Đấy,
vô nhân đạo thế ấy mà tụi bộ đội vẫn phải để cho xích, huống chi xâm bốn chữ định
mệnh này!
Mạnh bóp nhẹ tay
Tuất. Tuất xoay ngược bàn tay, nắm tay Mạnh rất lâu. Hai anh em đều yên lặng.
Không phải đến bây giờ Tuất mới cảm nhận được tình anh em ruột thịt nơi Mạnh;
nhưng quả thật bây giờ Tuất mới cảm thấy nhẹ nơi lồng ngực, vì Tuất đã nói ra
được phần nào những điều ray rức trong lòng chàng!
Tuất đứng lên, đến
bên cửa sổ, nhìn mong ra vùng không gian bát ngát. Cánh đồng xa xa lúa đã chín
vàng. Từ lúc đó, trên chuyến tàu Thống-Nhất theo Mạnh về Nam để cải táng hài cốt
của ông Thân, lòng Tuất thanh thản như những áng mây cuối trời./.
Điệp Mỹ Linh
