Hạnh phúc là chữ được viết nhiều trong văn học và được ngườì đời thường xuyên nhắc đến. Nhưng khi hỏi: hạnh phúc là gì và do đâu mà có thì chẳng biết trả lời làm sao cho trọn vẹn. Từ xưa đến nay chưa thấy có một định nghĩa phổ quát nào về chữ hạnh phúc được mọi người đồng thuận.
Có người bảo: hạnh phúc là sự mãn nguyện một ước mơ, an vui
trong cuộc sống; làngười khác nói: hạnh phúc không có tiêu chuẩn, không
do ban phát, không mua bán hay đổi chác mà có. Nó là một trạng thái cảm xúc từ
con tim của mỗi cá nhân trong khoảnh khắc làm người ta hài lòng với những gì hiện
hữu - nó rất riêng tư và phát sinh từ sự tỉnh thức của tâm hồn… Vậy, xem ra: đi
tìm hạnh phúc ở tương lai với những mơ ước hay quay về quá khứ mà quên những
giây phút hiện tại thì con người khó lòng bắt gặp hạnh phúc đích thực.
Nhớ lại những ngày đầu mới đến Hoa Kỳ, gia đình tôi được văn
phòng An sinh Xã hội quận Fairfax, tiểu bang Virginia tìm cho chỗ ở trong khu
chung cư đa số là người Mễ, Ấn Độ và dân Phi châu, trong đó có thêm hai gia
đình người Việt Nam nữa là gia đình ông Năm Đại Lãnh và gia đình ông giáo Lộc.
Trong môi trường có sự khác biệt về ngôn ngữ và tập quán, ba
gia đình người Việt chúng tôi tìm đến với nhau trong tình đồng hương - chia sẻ
vui buồn và hết lòng giúp đỡ lẫn nhau như anh em ruột thịt. Thời đó, cách
nay trên bốn mươi năm, những người Việt Nam tỵ nạn cộng sản đến Mỹ được hưởng
những phúc lợi an sinh xã hội khá dồi dào, cộng với tấm lòng bác ái và hào sảng
của người dân Hoa Kỳ giúp những người tỵ nạn sớm ổn định đời sống và nhìn thấy
tương lai tốt đẹp trên đất nước có nhiểu cơ hội để thực hiện những ước
mơ.
Ông giáo Lộc nhờ khá tiếng Anh, sau ba tháng định cư, tìm được
một chân bán hàng cho tiệm 7-Eleven - làm việc từ 6:00 giờ sáng đến 2:00
chiều. Sau đó ông vào Đại học Cộng đồng (Community College) học ngành kế toán
(accounting). Hai vợ chồng chỉ có một đứa con trai duy nhất, trên bảy tuổi.
Khi thằng con được xe buýt đón vào trường, bà Lộc đến làm phụ bếp cho một nhà
hàng Việt Nam gần đó - kiếm thêm thu nhập. Sau giờ làm phụ bếp, bà đi học Anh
văn (lớp ESL) để chuẩn bị xin học ngành y tá. Trước năm 1975, bà đã là một cán
sự y tế điều dưỡng làm việc ở Quân y viện Nguyễn Huệ, Nha Trang, nay sang Hoa Kỳ
bà mong muốn được làm công việc mà bà yêu thích. Ở Mỹ học ra nghề y tá không dễ
- bà biết, nhưng vẫn nuôi hy vọng.
Vậy là vợ chồng ông giáo Lộc đang đi tìm hạnh phúc ở tương
lai.
Ngược lại, ông Năm Đại Lãnh luôn luôn có vẻ ưu tư. Những
buổi chiều, ngồi trên ban công (balcony) của căn apartment, ở tầng ba, ông nhìn
mông lung với ánh mắt đăm chiêu… thật buồn! Ông nhớ về những ngày hạnh phúc ở
xóm chài Đại Lãnh. Ông nhớ biển!
Mùi xăng nhớt thoát ra từ những chiếc xe vội vã ra vào ở chỗ
đậu xe dưới sân khu chung cư - khét lẹt! Làm ông khó chịu! Ông Năm nhớ mùi biển
mặn quê ông - sao mà đậm đà! Hít căng buồng phổi vẫn còn thèm cái mặn mòi của
hơi nước biển. Ông Năm thường bảo: Ở trong căn chung cư hai phòng này, như chui
vào cái hộp, ông cảm thấy tù túng! Ông nhớ căn nhà lộng gió ở làng chài Đại
Lãnh. Ôi! Nó mát mẻ làm sao!
Cái máy quạt trần, hệ thống điều hoà không khí trong căn
chung cư này làm sao sánh được với cái mát mẻ của ngọn gió nam non mỗi sáng thổi
về từ núi cao Đèo Cả. Và ngọn gió nồm dìu dịu phảng phất mùi rong biển, thổi nhẹ
qua khu rừng dương tạo nên âm thanh vi vút như tiếng sáo diều, có lúc du dương
như bản nhạc êm dịu của thiên nhiên ru ngon giấc ngủ vào những buổi trưa
hè… Nhiều lần ông Năm tự thán: Trên đất Mỹ này, khó lòng bắt gặp được
ngọn gió nam non hay ngọn gió nồm như ở làng chài Đại Lãnh quê ta!
Ông Năm còn bảo, cái máy truyền hình (TV) ở đây vô dụng đối
với ông. Tin tức phát ra tiếng Anh, ông không hiểu! Còn chương trình giải trí với
những bản nhạc disco làm ông nhức óc. Đôi khi xem mấy cuốn
băng Paris By Night với những bài hát điệu bolero rất “mùi”, ông vẫn thấy không
hay bằng nghe giọng hò kéo lưới - mộc mạc nhưng rộn rã như tiếng lòng ngư
phủ kéo lên món quà của biển - những mẻ lưới đầy cá …
Nhìn cái tủ lạnh, bên trong chứa thịt cá đông lạnh, ông nhớ
đến nồi canh cá liệt - những con cá liệt vừa vớt lên từ biển nấu với cà chua -
chỉ nêm chút muối, mắm và thêm vài cọng hành, ngò… Thế mà ngon tuyệt! Ông
cũng thường nói: Cái hamburger không ngon bằng món cá nục kho mặn ăn với cháo
trắng vào buổi sáng. Ông nhắc đến những buổi chiều cả nhà quây quần bên lò than
hồng, nướng những con cá ồ tươi rói quấn lá chuối, rồi xé ra cuốn với bánh
tráng, rau sống chấm nước mắm nhĩ pha ớt, tỏi… Ôi! Nó ăn đứt món gà rán KFC
(Kentucky Fried Chicken).
Xem ra, ông Năm đang nhớ về quá khứ và tiếc nuối cái hạnh
phúc của những ngày trước năm 1975 ở quê nhà. Hiện tại tất cả thính giác, xúc
giác, khứu giác, vị giác của ông chưa quen với phong thổ trên đất lạ quê người.
Chỉ còn cái thị giác giúp ông thấy được sự tự do trên đất khách. Tuy vậy, ông
luôn tư lự và đôi khi muốn quay về với làng chài Đại Lãnh.
Một hôm, tôi nghe ông Năm tâm sự:
- Nếu như không có cái ngày “Giải phóng 30-4-1975” thì tôi
đâu có sang đây làm gì để đêm đêm đi rửa chén cho nhà hàng, một công việc tôi
không thích tí nào; còn bà vợ phải ngồi may những lố áo thun thâu đêm suốt
sáng… Tôi muốn trở về với biển, với làng chài Đại Lãnh quê tôi. Nhưng về, chắc
gì mấy ông “cách mạng” để tôi sống yên thân với biển. Họ sẽ kết tội những người
bỏ nước ra đi như tôi là thành phần phản quốc, sẽ bắt vào tù. Nhớ lại những
ngày lên núi chăn dê trong trại cải tạo sau ngày gọi là “giải phóng” mà tởn đến
già! Thôi đành sống kiếp tha hương… ông ạ!
Tôi hỏi ông Năm:
- Nghe kể hồi đó ông chỉ làm nghề chài lưới, không tham gia
chính quyền hay quân đội trong chế độ cũ. Tại sao lại bị bắt vào trại trại cải
tạo?
- Chỉ làm dân mà bị bắt đi cải tạo mới tức chớ! Tréo ngoe
như chuyện Phong Thần chỉ xảy ra dưới chế độ Cộng sản. Ông Năm trả lời, rồi kể
tiếp:
- Trước năm 1975, tôi nhận thằng Báo, con bà hàng xóm nghèo
khổ làm con nuôi. Nó mồ côi cha từ lúc lên năm, mẹ con nó đùm bọc nuôi nhau.
Khi thằng Báo vừa tròn mười tám tuổi, sợ thằng con bị bắt lính, bà mẹ mới đến
tha thiết năn nỉ tôi cho nó theo ghe ra biển để trốn đi quân dịch. Thương tình
mẹ góa, con côi, tôi nhận nó làm con nuôi, nhưng trả tiền công đầy đủ như những
người bạn chài khác để nó nuôi mẹ già.
Khi ghe rời bãi, lênh đênh trên biển cả, không lo bị bắt
lính. Khi ghe vào bãi, nếu có bố ráp, nó trốn trong hầm ghe. Thời gian trôi
qua, thằng Báo sống bình an bên mẹ già và vui với nghề chài lưới.
Bỗng ngày 30-4-1975 ập đến - thằng Báo đổi đời! Sáng hôm đó,
nó mang băng đỏ trên cánh tay trái, tay phải cầm loa, hướng dẫn một đám người,
đầu đội nón tai bèo, cổ quấn khăn rằn, chân mang dép râu, vai mang súng AK, đi
khắp làng chài kêu gọi dân chúng bỏ bãi đến miếu thờ Cá Ông dự lễ “Mừng Ngày Giải
Phóng” và nghe chỉ chỉ thị của chính quyền mới.
Từ hôm ấy, thằng Báo trở thành “ông quan cách mạng” ngang
xương. Nó không còn phải xuống ghe lo chuyện kéo lưới, chở xăng dầu … Công việc
của nó bây giờ không còn dùng đến chân tay mà chỉ xử dụng cái tai và cái miệng
- cái tai để nghe các chỉ thị, còn cái miệng để loan truyền các chỉ thị của
“cách mạng” để dân chúng chấp hành.
Một hôm, thằng Báo ghé qua nhà, nói với tôi: “Bây giờ nước
nhà được giải phóng, nhân dân ta không còn bị Mỹ, Ngụy kềm kẹp, bóc lột nữa. Nước
ta sẽ tiến nhanh, tiến mạnh lên Chủ nghĩa Xã hội, một xã hội công bằng,
không còn cảnh người bóc lột người. Tài sản, vật tư chủ yếu thuộc sở hữu chung
của toàn dân, nhân dân sẽ làm chủ đất nước. Trước tiên là phải cải tạo công
thương nghiệp, đánh tư sản mại bản, chuyển các tư liệu sản xuất của tư nhân về
cho nhân dân và nhà nước quản lý…”
Tôi nghe nó nói những tiếng lạ hoắc, không hiểu, nên hỏi:
“Tư sản mại bản, tư liệu sản xuất…. là gì vậy mậy?” Nó trả lời: “Trên nói sao,
tui nói lại vậy thôi… chứ rạch ròi chữ nghĩa làm chi thêm rắc rối! Cấp trên chỉ
thị thế nào thì thi hành thế ấy thôi. Cụ thể là nay mai các ghe tàu, giàn
lưới sẽ sung công đưa vào Hợp Tác Xã, làm ăn tập thể. Cấp trên ra chỉ thị cho
các cán bộ địa phương bình chọn và chuẩn bị kiểm kê tài sản của các chủ ghe lớn.
Ở xóm chài này, có ba gia đình bị xếp vào hạng tư sản mại bản, chiếm giữ tư liệu
sản xuất và bóc lột sức lao động của dân chài. Tía biết ba gia đình đó là ai
không?” - “Làm sao tao biết được!” Nó ghé vào tai tôi nói nhỏ: “Tía là một, ông
Ba Râu là hai, thứ ba ông Út Trọc. Đây là chuyện bí mật, tui chỉ cho tía biết,
tía chớ nói lại với ai, nguy hiểm lắm.”
Tôi nghe mà rụng rời tay chân, nhưng cũng cố lấy giọng bình
tĩnh nói với nó: “Giỡn chơi sao mầy? Tao đánh lưới hơn mười năm, không dám ăn,
dám tiêu mới dành dụm mua được chiếc ghe bầu, bây giờ sung công ngang xương coi
sao được mậy? Mầy nhớ lại xem: những bạn ghe, ngay cả với mày, tao có bóc lột
ai không? Tao cũng đổ mồ hôi, sôi nước mắt, ra biển kéo lưới như mọi người, mẻ
được, mẻ không… Nhưng làm chủ ghe tao phải lo trả tiền công trả cho bạn chài,
lúc lời, lúc lỗ… Mày biết quá mà! Có lúc tao sai mày đi vay tiền bên ngoại trả
lương cho bạn chài khi biển động lâu ngày để họ có cái ăn. Làm chủ ghe, nếu trời
cho thì khấm khá, nếu mất mùa cá, coi như sạt nghiệp, đói cả đám! Chứ bóc lột nỗi
gì?”
Thằng Báo có vẻ suy tư, hình như nó đang nhớ về quá khứ, nó
nói với giọng buồn buồn: “Thì biết vậy, nhưng bây giờ thời kỳ cách mạng, phải đổi
mới tư duy. Tài nguyên thiên nhiên phải thuộc về sở hữu của toàn dân. Cá trên
biển bây giờ cũng là của nhân dân đó. Cấp trên giải thích rằng: Các chủ ghe, có
tư liệu sản xuất, lợi dụng sức lao động của dân chài, ra biển bắt cá về bán làm
giàu cho riêng mình. Bây giờ bắt họ phải hợp tác với nhân dân làm ăn tập thể,
làm theo năng suất, hưởng theo nhu cầu! Như thế mọi người mới tìm được hạnh
phúc dưới chế độ xã hội chủ nghĩa…”
Nghe nó nói mà ứa gan, tôi bảo: “Chim trời, cá nước là của
nhân dân, vậy nhân dân ra biển hốt về, làm giàu… tại sao bắt các chủ ghe phải hợp
tác với nhân dân, mà cái ghe đâu phải từ trên trời rơi xuống hay của nhân dân
đóng góp. Nó là mồ hôi, nước mắt, là sự chắt chiu, cần kiệm bao năm mới mua được
chiếc ghe. Bây giờ, bắt vào hợp tác xã, ăn đều chia đủ, là nghĩa lý làm sao vậy
mầy?
Thằng Báo im lặng một lúc, rồi nói: “Cấp trên bảo tui về đả
thông tư tưởng, vận động để tía xung phong tự nguyện hiến ghe cho Hợp Tác Xã,
như thế là giác ngộ cách mạng sẽ được tuyên dương và ưu đãi…”
Tôi trả lời thẳng thừng: “Tao chẳng cần ai tuyên dương, ưu
đãi. Tao chỉ mong yên phận làm ăn với nghề chài lưới như tao với mày đã làm ăn
lúc trước.”
Thằng Báo nói câu cuối cùng trước khi ra về: “Lúc này: khôn
cũng chết, dại cũng chết, biết thì sống! Tùy tía suy nghĩ…”
Cái thằng ngày nào có vẻ khờ câm, ít nói. Bây giờ, mới theo
“cách mạng” có mấy tháng mà nó nói những câu dạy đời y chang mấy ông cán bộ Việt
Minh lão luyện đã dạy tôi cách sống dưới thời “chín năm kháng chiến” ở vùng
Liên khu 5.
Ngẫm ra “cái nghề làm cách mạng” cũng dễ học, mà sướng tấm
thân. Bao nhiêu năm nay, các cán bộ cộng sản chỉ cần học thuộc năm, bảy câu căn
bản, rồi đi truyền bá, vận động cho dân chúng làm, cán bộ cách mạng chỉ huy,
nhà nước quản lý. Thế là trong ấm, ngoài êm… Ai chống đối thì chụp cho cái mũ
“phản động” cho vào tù. Thế là hết cãi…
Ông Năm nhấp ngụm trà, rồi kể tiếp cuộc “đổi đời” của dân
xóm chài sau ngày “giải phóng”:
- Hai ngày sau khi thằng Báo đến nhà vận động tôi xung phong
đem ghe hiến cho Hợp Tác Xã, tôi nghe tin ông Tư Râu nhảy lầu tự tử.
Trong xóm chài này, chỉ có nhà ông Tư Râu xây gạch hai tầng.
Ông ở nhà mới này hơn một năm, thì quân “giải phóng” vào. Họ “mượn” tạm căn nhà
hai tầng - tầng trên dành cho bộ chỉ huy bộ đội biên phòng; tầng dưới làm trụ sở
Ủy ban Nhân dân xã. Họ cho vợ chồng ông ta ở căn chái sau bếp. Còn hai chiếc
ghe bầu và vựa cá của ông, họ kiểm kê và tịch thu tất. Họ bảo: ông Tư Râu là
thành phần tư sản mại bản gộc, ác ôn, bóc lột, ức hiếp dân chài! Nhưng qua
chính sách khoan hồng của đảng và nhà nước, chỉ tịch thu tài sản, không bắt vào
tù!
Có lẽ ông Tư Râu chưa được ai “đả thông tư tưởng…” nên ức
quá! Đêm khuya vắng vẻ, ông lẻn lên lầu hai, nhảy xuống tự tử.
Thằng Út Trọc, hay tin ông Tư Râu tự tử, tối hôm đó nó lén lấy
ghe ra khơi, dông luôn…
Thế là “thằng khôn” đã tự tử, “thằng biết” đã dông ra nước
ngoài, còn lại “thằng dại” là tôi bị bắt vào trại tù cải tạo một cách lãng xẹt.
Chưa chết là may.
Tôi kể ông nghe chuyện họ bắt tôi vào tù như thế này có oan
không:
- Sau cái chết của ông Tư Râu và thằng Út Trọc biến mất, chỉ
mình tôi là chủ ghe lớn còn bám trụ, nên dân xóm chài xôn xao bàn tán, rồi đến
hỏi ý kiến của tôi. Chính quyền nghi tôi có âm mưu sách động dân chài chống lại
chủ trương, đường lối của “cách mạng”, nên họ mời tôi ra trụ sở Ủy ban Nhân dân
xã, hạch hỏi đủ điều. Cuối cùng họ bảo tôi ký giấy hiến chiếc ghe bầu và vào Hợp
Tác Xã. Tôi không chịu ký. Thế là, họ không cho tôi về nhà, đưa thẳng vào trại
cải tạo.
Trại này có khoảng ba trăm sĩ quan và viên chức của chế độ
cũ. Ngày đầu tiên vào trại, một tên cán bộ dẫn tôi đến gặp tên trưởng trại. Tên
này có vẻ hòa nhã với tôi. Mở đầu hắn bảo: “Tôi biết anh không phải là thành phần
có nợ máu với nhân dân, cũng không thuộc phần tử phản động, nhưng anh chưa
thông suốt đường lối, chính sách của cách mạng, nên chính quyền địa phương gởi
anh vào đây để học tập cải tạo tư tưởng, khi nào tiến bộ và thông suốt đường lối
chính sách của cách mạng thì chúng tôi cho anh về sum họp với gia đình, làm ăn
bình thường và giúp ích cho xã hội.” Tôi hỏi lại hắn: “Vậy, tôi là người
tù không có tội?” - “Đừng nói thế, đây là Trại Cải Tạo.”
Hắn trả lời, rồi nói tiếp: “Tạm thời, tôi bố trí cho anh ở
cái chòi, gần chuồng dê, tự do đi lại trong khuôn viên của trại. Công việc của
anh là chăn mấy chục con dê. Sáng mở cổng cho chúng nó ra ngoài kiếm ăn, chiều
lùa chúng vào chuồng. Tối anh ngủ luôn ngoài chòi, không phải vào buồng giam
như đám ngụy quân, ngụy quyền. Loài dê khôn lắm, chúng nó sống theo bầy đàn -
sáng ra rừng kiếm ăn, tối tự động trở về chuồng - anh chỉ trông chừng, theo dõi
con “dê chúa” là con dê đầu đàn, đang ở đâu thì bầy dê ở đó, chứ không phải
chăn dắt từng con.”
Chấm dứt cuộc gặp gỡ, hắn nhìn tôi cười đểu: “Mong anh tìm
được ‘cái thú’ chăn dê mà an tâm học tập cải tạo.” Hắn bấm chuông gọi tên
vệ binh dẫn tôi ra ngoài. Từ hôm đó, tôi bắt đầu nếm trải cuộc sống của người
tù cải tạo mà Việt Cộng gọi là “trại viên”.
Chúng nó bắt tôi chăn dê gần ba năm thì thả. Không phải do học
tập tiến bộ đâu - có học tập cái khỉ khô gì đâu mà tiến bộ, suốt ngày chỉ có
chăn dê! Nhưng nhờ hai cây vàng của bà xã tôi “cúng” cho thằng trưởng trại, qua
sự móc nối của thằng Báo.
Tôi được về nhà thì mọi việc đã an bài- coi như mất trắng!
Nhớ lời thằng Báo: “Thời buổi này khôn cũng chết, dại cũng chết, biết thì sống”.
Cái “biết” ở đây là “biết không sống nổi” với đám “cô hồn Việt Cộng,” Thế là,
tôi tìm cách đưa vợ con “dông” sớm!
Ông Năm ngưng một chút, rồi có vẻ hóm hỉnh, nhìn tôi, nói tiếp:
- Chuyện đói khổ trong tù, chuyện vượt biên nguy hiểm, ông
đã trải qua và rành sáu câu… hơn nữa đã có nhiều người nói đến rồi, khỏi kể!
Nhưng chuyện chăn dê của tôi trong trại cải tạo rất ly kỳ và hấp dẫn. Nếu ông
muốn nghe, tôi sẽ kể. Không hay, không lấy tiền…
Tôi cười, gật đầu! Chờ đợi lắng nghe… Ông Năm bắt đầu:
- Ôi! Cuộc đời “dê chúa”, nó sướng làm sao! Trông nó vừa
uy nghi, vừa ngộ nghĩnh và có lắm chuyện ly kỳ…
Nói đến đây thì bà Năm xuất hiện, bưng lên hai tô cháo trắng
với đĩa cá nục kho mặn, mời chúng tôi ăn sáng. Ông Năm ngưng ngang câu chuyện
“dê chúa” và chuyển đề tài. Ông tỏ ra đạo mạo có vẻ gia trưởng, nói với Bà
Năm:
- Cảm ơn bà, chỉ có bà kho cá nục là tôi chịu…
Rồi xoay sang tôi: - Mời ông ăn cháo. Cháo trắng ăn với cá nục
kho mặn do bà nhà tôi kho, ông sẽ nhớ đời…
Có lẽ được khen, bà Năm khoái chí đem hết chuyện nhà ra kể,
hết chuyện này sang chuyện nọ. Tôi thì nóng lòng, mong bà rút lui, để được nghe
tiếp chuyện con “dê chúa”. Nhưng bà nói miết, nào là: “Ngày trước ông Năm dụ dỗ
bà đẻ nhiều con để khi ra biển ‘đông có mày, tây có tao’. Bây giờ sang đây, người
ta chỉ thuê chung cư một phòng là đủ, nhà bà phải thuê đến ba phòng, trả tiền mệt
nghỉ!” Rồi bà than: “Ngày trước bà vá lưới dưới gió mát trăng thanh, sướng hơn
bây giờ, ngồi may những lố áo thun.” Cuối cùng bà tiết lộ: “Tháng tới, gia đình
bà sẽ dọn xuống Louisiana làm công cho thằng Út Trọc. Thằng Út Trọc mới gọi điện
thoại… bảo gia đình bà, xuống dưới đó, nó bao ăn, bao ở, trả lương gấp đôi, gấp
ba số tiền ổng đi rửa chén và tôi may vá. Bây giờ nó giàu lắm, có đến hai chiếc
tàu đánh cá.”
Bà Năm vừa dứt câu chuyện, cũng là lúc đến giờ tôi đi làm ca
chiều. Tôi chào ra về mà lòng cứ tiếc - chưa nghe hết câu chuyện ly kỳ về con
“dê chúa”. Một tháng sau, gia đình tôi và gia đình ông giáo Lộc làm bữa tiệc tiễn
đưa gia đình ông Năm Đại Lãnh về với biển Louisiana.
Thời gian thấm thoát trôi qua, mười mấy năm sau khi gặp lại,
tuy mỗi người một cảnh, nhưng cả ba gia đình chúng tôi đều bằng lòng với cuộc sống
hiện tại và cảm thấy hạnh phúc khi những ước mơ đã thành hiện thực.
Vợ ông giáo Lộc tốt nghiệp y tá, được vào làm ở bệnh viện
Inova Fairfax Hospital, lương cao. Ông giáo Lộc lấy bằng CPA (Certified Public
Accoutants) được sở thuế Liên Bang tuyển dụng. Thằng con trai theo gót mẹ học
ngành Y, ra bác sĩ. Cuộc sống coi như thuộc vào tầng lớp trung lưu ở Mỹ.
Còn tôi, sau một thời gian làm cu li, dành dụm ít tiền mở tiệm
giặt ủi - kiếm sống được và đủ tiền nuôi hai đứa con ăn học thành tài.
Riêng gia đình ông Năm, có đuợc cơ may, làm ăn khấm khá nhất.
Ông Năm thỏa mãn ước mơ trở về với biển và làm giàu rất nhanh. Lúc đầu xuống
Louisiana, làm công cho thằng Út Trọc trong hai năm, sau đó ông ra riêng. Nhờ sự
giúp đỡ của Út Trọc ông mua được một chiếc tàu đánh cá, hai năm sau mua chiếc
thứ hai. Bốn đứa con trai, ngày nào còn là mối âu lo của ông bà Năm, làm sao
nuôi nổi bốn đứa con ăn học. Bây giờ, hai đứa con lớn, theo nghề của cha, mỗi đứa
trông coi một chiếc tàu đánh cá; thằng con thứ ba tốt nghiệp kỹ sư cơ khí, mở
hãng sửa tàu; thằng út học ra bác sĩ.
Trông bốn đứa con của ông bà Năm làm nên sự nghiệp, tôi nghĩ
đến chuyện “tứ quý”, “ngũ long”. Ông bà mình ngày xưa thường bảo: vợ chồng đứa
nào sinh năm đứa con gái liên tiếp - gọi là ngũ long, hay bốn đứa con trai liên
tiếp - gọi là tứ quý thì sẽ làm ăn nên nổi. Nay ở Mỹ mà khuyên con cháu như thế,
chắc chúng nó sẽ lắc đầu.
Mùa hè năm rồi, gia đình tôi và gia đình ông giáo Lộc xuống
Louisiana dự lễ mừng thượng thọ tám mươi của ông Năm, do các con ông tổ chức rất
xôm tụ. Trong tiệc vui, tôi hỏi ông Năm:
- Bây giờ chính quyền Việt Nam không còn coi những người bỏ
nước ra là phản quốc nữa mà coi như “khúc ruột ngàn dặm”. Họ còn khuyến khích
những người đang ở nước ngoài về thăm quê hương, hoặc đem tiền về đầu tư làm
ăn, không làm khó dễ nữa… Vậy ông có tính về thăm quê hương một chuyến “trối
già” không?
Ông Năm không “gật!” không “lắc!” Chỉ nói một câu nghe
như lạc đề, nhưng ngẫm ra thấy thấm:
- “Khúc ruột ngàn dặm” mới nghe thấy “mùi”, nghe lâu thấy “đểu”,
nghe hoài thấy “thúi” vì khúc ruột có thơm bao giở? Vậy chớ vội nghe “những gì
Cộng sản nói …”
Ông Năm nói tiếp:
- Bây giờ tôi mới hiểu tại sao trước đây dân ta liều chết bỏ
quê hương có “chùm khế ngọt” để tìm đến cái xứ mà mấy ông Việt Cộng thời đó bảo
rằng: “cái nước tư bản sắp dãy chết” này.
Tôi cảm thấy, ông Năm vẫn còn ấm ức về sự vừa bị mất của vừa
phải đi tù cải tạo mấy năm trời, sau ngày “giải phóng”. Bấy lâu nay, có lẽ nó
chìm trong ký ức, bây giờ trổi dậy, khiến ông Năm có những lời cay cú trong tiệc
vui.
Để hạ nhiệt, tôi nhắc cái thú chăn dê trong trại cải tạo mà
ông đã từng khoe với tôi là rất ly kỳ và hấp dẫn … Tôi bảo:
- Ông còn nợ tôi câu chuyện về con “dê chúa”.
Ông Năm cười khì khì:
- Chuyện đó sẽ kể, khi nào chỉ có hai ta.
Ông Năm vui trở lại với niềm hạnh phúc đang có…
