xin chào nhau giữa con đường
mùa xuân phía trước, miên trường phía sau
(Bùi Giáng)
1. Bến đò chợ Giữa nằm ở ngã ba sông, một bên là chợ huyện, bên kia xuôi về kinh Cấm. Không ai còn nhớ tự bao giờ đã tên gọi khó nghe, đầy bí ẩn như vậy. Chỉ biết từ ngày giải phóng, chính quyền địa phương đã đổi tên đơn vị mới là phường An Lạc. Nhưng vài năm sau, dân chúng trong huyện lại trở lại gọi tên cũ là phường kinh Cấm. Rồi kể cả chính quyền, cũng chẳng ai màng đến tên của cái xóm nghèo xơ xác đó... Hầu hết dân trong vùng kinh Cấm sống bằng nghề đan và vá lưới gia truyền. Lưới kinh Cấm nổi tiếng cả tỉnh đẹp, bền và rẻ. Vậy mà dân chúng trong huyện không ai muốn léo lánh và cấm đoán cả con cái không được bén mãn đến gần. Người lớn kể lại rằng kinh Cấm là xóm của người cùi, thành lập từ thờI Pháp thuộc. Trải qua nhiều đời, đến nay ngườI ta cũng rất thận trọng và ái ngại phải nhắc đến. Chính quyền cách mạng đã tổ chức nhiều chiến dịch cải cách, giáo dục dân chúng trong vùng về ấn tượng chia rẽ đó. Rằng kinh Cấm không còn là xóm cùi nữa, là bà con của chúng ta và đã có nhiều công trạng với cách mạng trong suốt hai cuộc chiến tranh. Những cố gắng, kêu gọi đó chừng như không thay đổi được nhiều trong ý thức sinh hoạt của dân chúng huyện. Cuộc sống cứ lặng lẽ trôi theo sự tái lập của nề nếp và thói quen. Nhưng nếu chỉ chừng ấy, đã không thành chuyện...
Cuối dãy chợ huyện là hàng bán và nhận đan vá lưới. Phần lớn
là ngườI kinh Cấm, trong đó không ai không biết đến hàng lưới của Mây. Không phải
nghề đan vá lưới của Mây khác với ngườI chung quanh, nhưng chỉ
vì Mây đẹp nỗI tiếng cả huyện, cả tỉnh. Không những với nhan sắc rực
rở, mặn mà Mây lại được cả nết hiền dịu, đảm đang.
Mỗi ngày dập dìu trai tráng, đàn ông vảng lượn gian hàng lưới
của Mây. Từ căn chòi lụp xụp, mẹ con nàng xây nhà gạch và thêm được vườn trầu
sau nhà. Cũng không phải vì vậy mà Mây được lấy lòng người. Con gái trong huyện
đã đành, đằng nầy cả những đám đàn bà và dân bán chợ ganh ghét, tị hiềm nàng ra
mặt. Họ chuyền tai nhau về cái đẹp của Mây là dấu hiệu thời kỳ cuối, trước khi
chứng bệnh cùi tàn phá. Họ chờ đợi và thầm mong cho mọi rũi ro, tai hoạ giáng
xuống đời nàng không thương tiếc. Nhưng ngày qua tháng lại, Mây càng đẹp lộng lẫy
và buôn bán tấp nập hơn... Vậy mà ngoài hai mươi, Mây vẫn âm thầm nhìn thời
gian lướt qua bóng sắc mình trong gương cô độc. Họ, đám đàn ông thanh niên, chỉ
lượn quanh ngắm nghía hay buông lời trêu ghẹo xuông xuông, nhưng chưa một ai dừng
lại, cho nàng buổi hẹn hò hay ước hẹn sâu đậm hơn trong đời con gái. Nàng là
bông hoa rực rỡ của những buổi chợ, nhưng đêm đêm bên dòng kinh Cấm nàng lặng lẽ
khóc thầm cho thân phận nghiệt ngã, cho định mệnh trớ trêu. Thượng đế quá xa
xăm còn người đời thì không ai nghe tiếng khóc nàng nức nở. Nỗi bất hạnh, cô
đơn cứ cuộn tròn thắt chặc nỗi đau trong nhan sắc lộng lẫy của Mây. Chỉ vì nàng
là con gái kinh Cấm.
'... Thương con, ông bà ngoại cẩn thận gởi mẹ cho vú nuôi từ
nhỏ. Đến năm mười sáu tuổi, bà ngoại qua đờI, ông ngoại mới đem mẹ về nhà. Bấy
giờ mẹ đã là cô gái trẻ, bình thường và khoẻ mạnh. Không đầy hai năm sau, ông
ngoại cũng qua đời, để lại với căn nhà và nghề đan bán lưới kinh Cấm. Vừa tươi
trẻ vừa giỏi giang, nhưng không ai dám đến gần để yêu thương hay dạm hỏi chuyện
trăm năm. Mười mấy năm thoăn thoắt trôi qua, mẹ vẫn ngồi đơn độc, âm thầm đan
vá những chiếc lưới mặn khô bên bờ kinh Cấm. Cho đến một hôm, người đàn ông
nghèo, lãng tử đến hát rong ở cuối hông chợ. Họ quen nhau và lấy nhau trong
mãnh đời tương ngộ. Rồi đến em chào đời, ba mẹ cũng theo nếp ông bà giao vú
nuôi em. Mẹ nói sau đó cha mất sớm, bà đành đem em về lúc mới đầy tám tuổi. Sống
chung nhà nhưng mẹ và em ăn không cùng mâm, ngũ không cùng giường, đồ dùng từ
nhỏ đến lớn mẹ đều sắm riêng. Mấy chục năm nay không có dấu hiệu nào của căn bệnh
hiểm nghèo đó... Nhưng gần đây, mẹ đau nhức từng khớp xương và tai, mặt bắt đầu
chai sượng. Em muốn anh biết và hiểu rõ điều nầy trước khi anh dừng lại hoặc bỏ
đi. Mãi mãi, em sẽ không trách cứ gì đâu..!
'
Bến Trống chạy dài theo bãi sông, nối liền với biển mặn. Dọc
bờ là rừng mắm, loại cây thân võ khô, rễ tua tủa lên trên mặt đất bùn non. Giọng
nói nhỏ, đều của Mây như khuất chìm trong gió biển. Tôi cúi xuống hôn những giọt
nước mắt nàng mằn mặn, long lanh khoảng trời xanh nhạt cuối ngày. Mọi hoang
mang, do dự chợt tan biến giữa niềm yêu thương tràn ngập chung quanh. Tôi hiểu
mình đang giữ hạnh phúc trong tay, như một định mệnh thiết tha, không lựa chọn.
Nhìn thật sâu vào đôi mắt Mây, tôi vẫn không tìm thấy được bóng dáng của thử
thách và nghiệt ngã. Cả tôi và nàng. Bên cạnh Mây chừng như tôi dễ tin hơn với
cuộc đời không rộng lượng nầy. Trong tay tôi, nàng bỏ quên những nổi sợ hãi và
khinh miệt của con người, lòng độc ác và chật hẹp chung
quanh.
Thế hệ tôi lớn lên và trưởng thành bằng kinh nghiệm của khả
năng sinh tồn và lòng nghi kị. Từ đó, mọi ước mơ dù bé nhỏ đến đâu cũng được
che dấu kỷ dưới bộ mặt giả tạo của đời sống. Tôi về chợ Giữa sống chung với gia
đình Hai Chài đã hơn nửa năm. Gần như bạn bè, hàng xóm không ai còn nhớ và biết
tên thật của Hai Chài, ngoài đám công an địa phương và tôi... Sau sáu tháng học
tập chính trị và triết học Mác Lê-nin, tôi được 'công lệnh' về dạy
trường trung học phổ thông huyện. Khu nội trú của giáo viên là ba lớp học được
ngăn chia bằng mấy tấm vách phên tre vừa che khỏi đầu. Ba cô một phòng, ba thầy
một lớp. Mọi người sống co cụm, dòm trước ngó sau...
Tôi quen với Hai Chài trong dịp tình cờ chiếc xe đạp thổ tả
của tôi đứt 'xênh' nằm đường. Lớn hơn tôi vài ba tuổi nhưng trông Hai Chài già
dạn, phong sương hơn nhiều. Phần do nắng gió vùng biển mặn, phần khác đầu trần
mình trụi hằng ngày với chiếc ghe chài, anh nuôi cả gia đình một vợ bốn con. Tô
Văn Trợt, tên khai sinh của Hai Chài, là con trai lớn của gia đình đông con
sinh sống bằng nghề chài lưới dọc theo vùng biển hòn. Trước đó, Trợt là lính địa
phương quân. Sau ngày giải phóng, anh trở về đây tiếp tục nghề đánh lưới truyền
thống của cha ông mình. Cái tên Hai Chài đẻ ra từ
đó.
Sau vài lần đến trường thăm tôi, Hai Chài nì nằn cho bằng được
để tôi dọn về ở trọ nhà anh. Cũng không xa trường, tôi vừa cải thiện đời sống vừa
giúp anh dạy kèm mấy đứa nhỏ ở nhà. Mỗi ngày từ bốn năm giờ sáng, Hai Chài đã
xuống ghe đi lưới tận đến chiều chạng vạng mới về tới ngõ. Đời sống lúc càng
khó, một con cá đến năm bảy người lưới, anh đi sớm về tối nhiều hơn. Vợ anh
cũng đầu tắt mặt tối, nuôi con nhóm chợ, làm mắm làm khô, không phút nghỉ tay.
Đến nổi anh phải nhờ tôi đi bỏ vá lưới rách hoặc đi lấy lưới đã mạng rồi. Tôi
có dịp quen Mây và rơi vào tình nàng tha thiết...
- Vĩnh ơi, hãy nhìn em thật kỹ. Em không muốn chúng ta
bị cảm xúc lừa dối để một đời luôn sợ hải và mọi người lánh
xa.
- Ngoài tình yêu của Mây, cuộc đời đã không còn trong anh và
nỗi sợ hải đó to lớn hơn cả cái chết.
- Nhưng anh có cả cuộc đời trước mặt. Còn em chỉ có bóng tối
của ngày mai. Và cả định mênh, định mệnh cũng không dành cho em được sự rủi may
! Em đã quen rồi sự chấp nhận cho mọi nỗi bất hạnh. Sự bất hạnh biết
trước....
Còn anh, tình yêu em nhỏ bé biết chừng nào, với một đời anh
vùi chôn trong sự ghê tởm của mọi người chung
quanh..!
Mây nói thật nhanh, nghẹn ngào trong tủi nhục. Tôi như một
con thú vùng vẫy trong chiếc lưới bẫy của chính lòng mình, xức trầy những vết
thương tuyệt vọng.
- Anh không cần thế giới to lớn, xa lạ đó. Anh chỉ cần em,
tình yêu của em mà thôi. Tình em là hơi thở trái tim anh, mất nó, đất trời nầy
sẽ là một khoảng trống mênh mông, vô nghiã. Mây ơi, đừng để anh phải chết mòn
trong tuyệt vọng.
-Tôi nói như lời cầu kinh vang vọng trong gió biển. Mây hiểu.
Hơn bao giờ hết, tôi biết Mây hiểu tấm lòng tôi và những gì nàng đang đối diện.
Mây đang giả dối với chính mình ! Tôi là mọi yêu thương, mọi ước vọng, là tất cả
ý nghĩa cuộc sống đời Mây. Tôi đã đến và đã dừng lại. Đã nhìn thấy được trái
tim nóng bỏng thiết tha, xuyên qua lớp vỏ nhan sắc tầm thường kia của nàng. Tôi
đã chuẩn bị sẵn sàng cho những cay nghiệt, đớn đau có thật. Tôi nâng khuôn mặt
Mây và nhìn thật sâu. Thật sâu như để cố tìm kiếm sự ghê tởm hoặc kinh hải mà
người đời đã dành cho nàng. Tuyệt nhiên không. Mà trái lại, tôi thấy nàng thật
đáng yêu, thật trong sáng và thánh thiện. Chỉ có những ý nghĩ thoáng qua của
tôi với Mây, là đáng khinh tởm.
Thời gian ngưng đọng, nhẹ tênh. Trước mắt tôi hiện lên một mặt
biển xanh thẳm màu hy vọng. Ở đó sẽ là tương lai, một định mệnh chờ đợi mà tôi
không màng biết tới. Vì sẽ có Mây, vì sẽ có
tôi. -
Mây, đây sẽ là tất cả số phận cuối cùng cho tình yêu chúng ta. Đêm mai là đúng
thời điểm của kế hoạch, anh cùng gia đình Hai Chài rời bến...
Em hãy treo ngọn đèn bão làm hiệu trước hiên nhà và đợi ở cuối
kinh Cấm vào lúc một giờ khuya. Thấy ngọn đèn bão, anh Hai Chài sẽ ghé đón em ở
cuối bờ kinh. Nếu không thấy ngọn đèn, là em khước từ cùng anh trong chuyến
hành trình vô định nầy. Tất cả ở em, trái tim anh không còn thuộc về anh nữa.
Nó sẽ thuộc về ngọn đèn bão đêm nay, trước hiên nhà và bóng hình em ở cuối dòng
kinh Cấm.
Mặt trời đã khuất dần phía sau dãy rừng mắm. Tất cả lặng im,
chỉ còn lại hơi thở dồn dập, nặng nề của tôi và Mây. Gió từ biển thổi vào bắt đầu
trăn trở lạnh. Khuôn mặt Mây trắng lờ mờ, huyền hoặc từng đường nét liêu trai.
Không kềm chế được xúc cảm tràn ngập, tôi cúi xuống hôn nhẹ lên đôi môi nàng hé
mở. Mây như lòng biển đêm bất chợt chuyển mình trước cơn giông bão.
Môi nàng bám chặc môi tôi, đầu lưởi nàng cuốn lấy đầu lưởi tôi tê dại, không rời...
Và, bàn tay tôi tự lúc nào, đang mơn trớn, dẫy dụa trên bờ ngực Mây vung tròn,
căng cứng. Thảm lá chết, nực mùi bùn lợ như đan tấm thảm lụa bằng những sợi
nhung của da thịt nồng ấm, cháy rực. Tôi như cánh diều vun vút gió bốc cao, thật
cao căng đầy xúc cảm. Cưỡng chế. Dồn cứng. Vỡ tan trong muôn vàn tiếng kêu vang
của tận cùng hạnh phúc và tuyệt vọng...
2.
Quá nửa khuya, đêm tối đen không thấy mặt người. Dọc bờ kinh
Cấm, những dãy nhà lạnh câm, chìm sâu trong giấc mơ hải hùng truyền
kiếp. Không có ngọn đèn bão trước hiên nhà.
3.
Giọng kể đều đặn của tôi chìm dần, mất hút trong căn phòng
khách sạn lờ mờ sáng. Bên cạnh, đứa con gái ngườI Phi-líp-pin giương đôi mắt
đen tròn nhìn
tôi.
- Câu chuyện xảy ra bao lâu rồi ông
?
- Vào đêm không trăng, cuối tháng Mười năm
1978.
- Ông có trở về và gặp lại cô ấy nữa không
?
- Không. Tôi đã không trở về kinh Cấm hơn hai mươi năm
nay.
- Vậy câu chuyện tình của ông đến đó là hết.
- Phải. Đến đó là hết.
Đứa con gái thở dài nhè nhẹ. Tôi đưa mắt nhìn con số đồng hồ
màu đỏ tươi để trên mặt bàn. Đã hơn hai giờ sáng. Tôi bật ngồi dậy,
nói nhỏ:
- Tôi phải đi bây giờ. Cô có thể về được rồi.
- Nhưng... em chưa làm được gì cho ông ! Vả lại, ông đã trả
tiền bao em hết cả đêm nay kia
mà.
- Tôi biết. Thật cô không sợ tôi sẽ mang chứng bệnh cùi và
lây qua cho cô sao ?
- Ông nghĩ rằng em tin câu chuyện của ông là có thật…? Đến
bây giờ , ông đã có vợ con gì chưa?
- Tôi đã có vợ
lâu rồi. Xin cảm ơn cô đã lắng nghe hết câu chuyện của tôi.
- Tin hay không,
tùy cô… Tôi đã có vợ lâu rồi. Xin cảm ơn cô đã lắng nghe hết câu chuyện của
tôi.
- Em cảm ơn ông mới
phải chứ. Vì ông trả tiền, mà em thì chỉ nghe câu chuyện kể của ông thôi. Như vậy
em thấy không công bằng...
Đứa con gái nắm
tay tôi giữ lại. Dưới ánh đèn mờ đục, khuôn mặt nó thật giống
như Mây với mái tóc buông xõa nửa vai. Tôi cúi xuống nâng mặt đứa
con gái người Phi, thấy cả hình ảnh xinh đẹp của Mây hơn hai mươi năm về trước.
Bây giờ tôi gần bốn mươi bảy tuổi, tóc đã bạc râm hơn nửa mái đầu...
Tôi hôn vội, phớt
nhanh trên đôi môi nhỏ nhắn, hé mở dễ thương của cô
gái.
- Nếu ông không
muốn làm tình, ông hãy nằm xuống, nhắm mắt lại và mơ về cô ấy. Em sẽ làm cho
ông thỏa mãn, tận cùng khoái cảm
!
- Không. Tôi
không muốn gì hết... Xin chào tạm biệt và chúc cô nhiều may mắn.
- Cám ơn ông và
chào tạm biệt.
4.
Dãy phố đêm đã
chìm sâu, vắng lạnh. Như bao nhiêu lần khác, tôi lại nói dối với đứa con gái điếm
người Phi. Đến nay tôi vẫn sống một mình, không vợ không con. Và, tôi đã trở về
kinh Cấm vài năm trước đây, để mong tìm gặp lại Mây. Tất cả không
còn nữa. Không còn ai nhắc đến cái tên kinh Cấm. Không ai biết Mây ở đâu và sống
hay chết... Nhưng phần cuối câu chuyện do người hàng xóm kể lại, sau ngày tôi
ra đi và mẹ Mây mất. Phần cuối chuyện nầy, tôi không kể ai nghe và sẽ giữ riêng
cho mình, mãi
mãi.
... Đêm đó biển động,
gió thổi về kinh Cấm lồng lộng. Người đàn bà nằm yên lặng, lắng nghe từng tiếng
thổn thức của con gái mình. Bây giờ không phải một, mà hai. Mây mang thai hơn
năm tháng nay, bụng đã đội cao. Chẳng bao lâu, mầm sống trong bụng Mây sẽ trở
thành một kiếp người xương thịt. Sẽ là nguồn sống, tình yêu và niềm hạnh phúc
vô biên của Mây, như chính của bà ngày xưa...
Bà nhớ rõ như mới
hôm qua, khi gặp người đàn ông đó cất tiếng hát đầu tiên ở cuối hông chợ. Họ đã
thuộc về nhau, bất chấp thế giới chung quanh, bất chấp mọi rủi may cuộc đời. Họ
đã tìm thấy ý nghĩa thật sự của tình yêu, của hạnh phúc đời nầy. Thời gian với
họ chỉ là sự tồn tại tạm bợ của xác thân. Với tình yêu họ đã tìm thấy được sự
vĩnh cửu. Người đàn ông đó đang đợi bà bên kia phần thế giới mênh mông, vô xác
vô thân, vô hình vô tướng...
Nhưng bây giờ,
trước mặt bà không chỉ là đứa con gái thân yêu duy nhất của bà, mà chính là hai
cuộc đời của mẹ con Mây. Bà hiểu thật rõ, Mai là tất cả đời bà.
Nhưng bà cũng thấm thía hơn, khi bà mất đi, Mai sẽ hiểu được sự thật về chính
thân phận của mình. Bà đã trở thành con người ích kỷ, độc ác vì tình yêu bà
dành cho Mây. Nỗi đau đớn dày vò lòng bà hơn cả cái chết. Những cánh cửa địa ngục
mở rộng chờ đợi, bà không chút sợ hãi. Nhưng, giữ kín sự thật đời Mây là nỗi ám
ảnh nặng nề và ghê gớm nhất đang trừng tâm hồn bà. Làm sao bà quên được, ngày vợ
chồng bà tìm thấy đứa trẻ sơ sinh cuốn tròn trong chiếc khăn bàn, nằm khóc khan
góc chợ vắng tanh. Như một thiên thần đem lại biết bao tình yêu, hạnh phúc cho
suốt cuộc đời vợ chồng bà. Đứa trẻ thơ đó là Mây... Bà nghẹn ngào nuốt từng
giòng nước mắt khô lặng lẽ chảy ngược vào lòng. Thời gian đã điểm, cái chết tầm
tay. Bà ra dấu con gái lại gần, thật gần. Mẹ con chỉ còn cách nhau lớp vải mùng
mỏng manh. Bà trút hết sức tàn, mở mắt nhìn thật sâu khuôn mặt con với niềm yêu
thương trời biển:
- Mây, con
hãy đem đứa con trong bụng rời khỏi nơi nầy... Con và nó không thuộc
về kinh Cấm. Vì... vì, con không phải là con ruột của mẹ.
Sau ngày chôn cất
mẹ, người kinh Cấm không còn thấy bóng dáng của Mây đâu nữa. Có người
đồn rằng Mây lên sinh sống ở vùng cao nguyên và sinh được đứa con gái cũng xinh
đẹp như mẹ. Lại có tin đồn khác, dân đánh cá địa phương vớt được xác cô gái có
thai, trôi dạt tận vùng biển hòn. Nhưng dù thế nào, mọi người trong huyện đều
xót xa, thương tiếc cho người con gái đẹp vùng kinh Cấm.
Đến nay hư thực
ra sao, không ai biết rõ và cũng không ai còn nhắc đến nữa. Có điều lạ là, vào
những đêm không trăng tháng Mười, mọi người ở dọc bờ kinh đều treo ngọn đèn bão
trước hiên nhà.
