Hình Nhà Trắng chụp từ trên cao: phần chính Nhà Trắng (giữa),
hướng Bắc, tầng dưới có phòng ăn lớn, tay mặt; phòng hội họp hay tiếp khách
đông người, mang tên Đông Phòng (East Room) bên trái. Tầng trên là nơi cư ngụ của
tổng thống và gia đình. Phía trước là Đại lộ Pennsylvania. Phía trái hình là
Cánh Đông (East Wing), nơi có văn phòng Đệ Nhất Phu Nhân. Phía mặt là Cánh Tây
(West Wing), nơi làm việc của văn phòng tổng thống; và Phòng Bầu Dục (Oval
Office), nơi làm việc chính của tổng thống; có thể nhìn thấy mái trắng hình bầu
dục của căn phòng này nhô lên trên hai mái mầu hồng, cạnh toà nhà Cánh Tây.
Phía sau, hướng Nam, có sân cỏ hình bán nguyệt, nhìn thẳng ra Tháp Washington.
(Hình chính thức của Nhà Trắng)
Đến từ Việt Nam khi đã trưởng thành, người viết may mắn được sống liên tục tại đây trong nửa thế kỷ; một phần năm tuổi thọ của lịch sử Hoa Kỳ, đã có dịp theo dõi các thay đổi và sinh hoạt đáng chú ý liên quan đến Nhà Trắng.
Mới ra khỏi trại Indiantown Gap ở Pennsylvania ngày 13 tháng
Sáu, 1975, chưa có nơi ở nhất định, còn đang tạm trú cùng gia đình tại một ngôi
trường của xứ đạo bảo trợ ở Alexandria, Virginia, ngoại ô Washington, nhạc phụ
là cụ Nguyễn Ngọc Thư và người viết đã được mời vào nhóm tham vấn cho Ban Cố Vấn
của Tổng Thống về Người Tỵ Nạn (The President’s Advisory Committee on
Refugees), Chủ Tịch là Đại Sứ John Eisenhower, con trai Cố Tổng Thống Dwight
Eisenhower. Trong nhóm người Việt này, ngoài cựu Đại Sứ Bùi Diễm, còn một số
các ông bà mà chúng tôi không được biết trước.
Thời gian này, bố con người viết mới làm cho Colonial
Parking ở Washington, D.C., công việc hàng ngày gọi chung là “bảo trì”, gồm những
việc vặt như lau chùi, cắt cỏ, đổ rác…, phải xin nghỉ ngày thứ Năm hàng tuần, để
đi họp ở Nhà Trắng. Nhờ đó, trước phiên họp đầu tiên, được thăm Nhà Trắng với
tư cách VIP, thong thả coi nhiều nơi hơn các du khách thường.
Còn nhớ, một trong những phiên họp, có người nêu ý kiến,
Chính Phủ Mỹ nên kiếm một vùng nào thuận tiện, hay một hải đảo, tái định cư
càng nhiều càng tốt những người tị nạn vào một nơi, để những người cùng chủng tộc,
phong tục và ngôn ngữ sống gần nhau, cùng nhau lập lại cuộc đời mới. Làm được
như vậy, vừa thoải mái cho cộng đồng tị nạn, vừa nhẹ gánh cho chính quyền sở tại.
Ý kiến này đã bị đại diện Nhà Trắng bác, với lý do kinh nghiệm quá khứ cho biết
điều này không lợi cho người tị nạn, cũng như cộng đồng sở tại. Cả hai bên cùng
mất cơ hội học hỏi lẫn nhau, giúp nhau, để cùng tiến bộ. Tuy nhiên, người cũng
như nước chảy chỗ trũng, khi ra khỏi trại tạm cư, tự động quy tụ tại những tiểu
bang có nhiều người quen và dễ sống, như California, Texas.
Gọi là đi họp ở Nhà Trắng, thật ra không phải Nhà Trắng. Cạnh
Nhà Trắng về phía Tây, đường 17, có căn nhà đồ sộ hơn cả Nhà Trắng, được hoàn
thành từ năm 1888, theo kiểu cổ ở Âu châu, có tên là Old Executive Office
Building, cũng thuộc quyền xử dụng của Phủ Tổng Thống, tức Nhà Trắng. Tại đây,
có văn phòng của Phó Tổng Thống, Văn Phòng Quản Trị và Ngân Sách, Văn Phòng Hội
Đồng An Ninh Quốc Gia… Từ năm 1999, toà nhà này được đổi tên là Eisenhower
Executive Office Building, để vinh danh Tổng Thống thứ 34. Trước toà nhà này,
bên kia đường, nhìn ra Công Viên Lafayette đối diện Nhà Trắng, là một building
kiểu mới, cao 10 tầng, mầu gạch đỏ, mới hoàn thành năm 1969, mang tên New
Executive Office Building. Hàng tuần, chúng tôi họp ở một căn phòng của toà nhà
này.
Công việc chỉ kéo dài gần ba tháng, chấm dứt vào đầu tháng
9, với thư cảm ơn của Đại Sứ Eisenhower, và bằng tưởng lệ với chữ ký của Tổng
Thống Gerald Ford. Mới chân ướt chân ráo tới Mỹ đã có bằng khen do Tổng Thống
ký, trông rất cảm động. Sống lâu ở đây mới ngộ ra rằng, chắc chỉ là chữ ký bằng
máy. Đời sống Mỹ, người với máy giống nhau; người hoạt động như máy, và máy ký
thay người. Lúc đầu, được cho biết, thời gian nghỉ làm để đi họp ở Nhà Trắng sẽ
được trả lương, 50 năm sau vẫn đợi, như Tổng Thống Thiệu đợi gói viện trợ quân
sự trước 30 tháng 4.
Luân lý Nhà Trắng
Tổng Thống đầu tiên George Washington không phải là người đầu
tiên làm chủ Nhà Trắng. Nhưng không thể nói về Nhà Trắng mà bỏ qua George
Washington. Trong suốt chiều dài lịch sử, nước Mỹ đã có đầy tài liệu ca tụng những
đức tính tốt đẹp của Cha Già Dân Tộc. Một trong những câu chuyện nổi tiếng nhất
nhằm mục đích đề cao đức tính yêu sự thật của George, là câu truyện về vụ chặt
cây cherry. Truyện kể rằng, khi cậu George lên sáu, được cha tặng một cái búa,
loại dùng để chặt cây. Cậu thử búa bằng cách chặt vào thân cây cherry bên lối
đi. Cha tức giận khi biết chuyện, hỏi ai đã chặt cây. Cậu George can đảm thưa
“Con không thể nói dối…chính con đã chặt để thử búa”. Truyện kể tiếp, cha cậu
đã ôm con, nói rằng sự thành thật của con đáng giá hơn cả ngàn cây cherry.
Theo sưu tầm và tìm hiểu từ The Mount Vernon Ladies’
Association, một hội bất vụ lợi của quý bà, có mục đích bảo
tồn di tích lịch sử về George Washington tại Mount Vernon, tác giả nguyên thuỷ
câu truyện là Mason Locke Weems. Sau khi Washington qua đời năm 1799, nhu cầu
biết về cuộc đời niên thiếu của Đệ Nhất Tổng Thống lên cao. Vốn là một nhà truyền
giáo lưu động kiêm bán sách dạo, Weems đã viết cuốn The Life of
Washington (Cuộc đời của Washington), xuất bản lần đầu năm 1800. Sách bán
chạy như tôm tươi, trong đó chưa có truyện chặt cây cherry. Mãi đến lần tái bản
thứ 5, vào năm 1806, mới có thêm truyện này. Sách của Weems ngày càng nổi tiếng,
mấy chục năm sau, trên đường tới Thủ Đô Washington tuyên thệ nhậm chức, Abraham
Lincoln cho biết ông cũng đọc sách này, và sẽ cố theo gương vị tiền nhiệm đầu
tiên. Vào thập niên 1830, William McGuffey, một mục sư phái Presbyterian kiêm
giáo sư đại học, đem những câu truyện của Weems vào sách giáo khoa để dậy luân
lý và đạo lý cho trẻ em. Xuất bản lần đầu năm 1836, loại sách McGuffey
Readers, trong đó có truyện chặt cây cherry, tiếp
tục tái bản trong cả thế kỷ, bán trên 120 triệu cuốn. Ngoài sách, truyện chặt
cherry còn xuất hiện qua hình thức khác, như phim ảnh và TV show.
Một câu truyện luân lý đề cao đức tính thật thà, liên hệ tới
cha đẻ của Nhà Trắng, đã lan rộng và tồn tại một phần tư thiên niên kỷ, đến nay
vẫn còn nhiều người nhắc lại trong tin tưởng. Nhưng qua các tài liệu đứng đắn
đã được công bố, đó chỉ là câu truyện bịa. Qua vụ này, chúng ta ghi nhận được
những gì?
Trước hết, người dân Mỹ yêu chuộng câu truyện về tính thật
thà và can đảm nhận lỗi của George Washington; họ chưa biết là truyện bịa; chứng
tỏ, theo họ, thành thật là đức tính quan trọng hàng đầu của vị nguyên thủ quốc
gia. Rồi 250 năm sau, người dân Mỹ đưa vào Nhà Trắng một nguyên thủ quốc gia nổi
tiếng nói dối, và không bao giờ chịu nhận lỗi. Cử tri Mỹ đã thay đổi, bị lừa,
hay họ đã không nhìn ra sự thật?
Cả hai tác giả đã bịa đặt, phổ biến và giảng dậy câu truyện
chặt cây cherry như một gương sáng, đều là nhà truyền giáo. Bịa truyện để rao
giảng sự thật, còn gì mỉa mai hơn! Thống kê cho biết, lá phiếu của các cử tri
Thiên Chúa Giáo, gồm Công Giáo và các môn phái Tin Lành, đã đóng vai chính
trong kết quả cuộc bầu cử năm 2024.
Nhà Trắng qua thời gian
Về vật chất, Nhà Trắng của Mỹ không to lớn, hay nguy nga
tráng lệ sánh với cung điện các vua chúa thời quân chủ, như ở Tầu, ở Nga, hay ở
Pháp. Điều đáng nói là tư cách và việc làm của những người đã được dân bầu vào
cư ngụ ở đó, và những gì đã diễn ra ở đó. Một dinh thự mọc lên từ vũng lầy bên
bờ sông Potomac, lớn lên trong hơn hai thế kỷ, trải qua vài cuộc chiến trong nước,
và hai cuộc thế chiến, trở thành cái rún của vũ trụ, được cả thế giới nể trọng
như biểu tượng của dân chủ toàn cầu. Rồi bỗng nhiên biểu tượng ấy trờ thành nơi
xuất phát những mưu toan chống lại nền tảng dân chủ, và trở thành mục tiêu của
những cuộc biểu tình phản đối.
Sau khi ký ban hành đạo luật D.C. Residence Act ngày
16 tháng 7, 1790, quy định về Thủ Đô mới của Hoa Kỳ, địa điểm xây dựng Nhà Trắng
đã được Tổng Thống đầu tiên George Washington lựa chọn, nhưng ông không phải là
chủ nhân đầu tiên. Tổng Thống thứ nhì John Adams, vốn là Phó Tổng Thống của
Washington, đã đắc cử và dọn vào Nhà Trắng tháng 11, 1800, khi đã gần hết nhiệm
kỳ 1; cũng là nhiệm kỳ duy nhất. Thời gian quá ngắn, ông chủ đầu tiên chẳng làm
được gì nhiều cho ngôi Nhà Của Dân này, trước khi chính thức mang tên Nhà Trắng,
mặc dù nó vẫn còn trong tình trạng ngổn ngang, chưa hoàn toàn xong.
Thomas Jefferson, tuy vốn là vai Phó của Adams, nhưng hai
người thuộc hai chính đảng khác nhau. Trải qua cuộc bầu cử đầy rắc rối và kéo
dài, cuối cùng, ông Phó thắng ông Chánh, trở thành Tổng Thống thứ ba, tuyên thệ
nhậm chức ngày 4 tháng Ba, 1801. Vào ngày này, không muốn nhìn mặt kẻ thắng,
Adams đã một mình một ngựa, lủi thủi rời Nhà Trắng trước rạng đông. Tuy vậy,
hai ông này sau đó đã nêu gương xoá bỏ hận thù, thành bạn chí thân, cùng qua đời
ngày Lễ Độc Lập thứ 50, mùng 4 tháng 7, 1826.
Jefferson, ông chủ thứ nhì của Nhà Trắng, chỉ là người tự học
kiến trúc, nhưng có biệt tài, những công trình xây dựng của ông còn đến ngày
nay, vẫn được trân trọng gìn giữ.
Thiết kế thủ đô mới của Mỹ là Pierre L’Enfant, một người
Pháp. Về Nhà Trắng, George Washington đã tuyên bố bản vẽ kiểu của James Hoban
trúng giải nhất, năm 1792. Có cơ hội thực hiện ý định của mình bằng công quỹ,
Jefferson đã thiết lập hai cánh Đông và Tây, nối với hai đầu Nhà Trắng, là nơi
làm việc của các nhân viên, còn phần chính Nhà Trắng chỉ là nơi ở của tổng thống
và gia đình, tầng trên. Tầng dưới, phía Đông, có phòng tiếp khách đông người,
phòng đại tiệc, phía Tây. Khoảng giữa là các phòng trưng bầy, Phòng Xanh, Phòng
Đỏ… Đó mới chỉ là dự án đầu. Ý muốn kế tiếp của Jefferson là nối Cánh Đông với
Bộ Ngân Khố ở Đường 15, và Cánh Tây với Bộ Chiến Tranh ở Đường 17. Như vậy, khối
Hành Pháp sẽ có cả một khu rộng lớn, từ Đường 15 đến 17, với Nhà Trắng chính giữa,
nằm chặn Đường 16.
Nhưng trong hai nhiệm kỳ, Jefferson chỉ thực hiện được dự án
đầu, gồm Cánh Đông và Cánh Tây, và một số việc nhỏ khác, như mang nhà vệ sinh từ
ngoài vào nhà, xây hầm lạnh chứa rượu, lập vườn trồng rau cho nhà bếp, chuồng
nuôi gia súc, bò, dê, ngỗng, gà… Phần còn lại của dự án không được thực hiện,
vì Quốc Hội không cấp ngân sách.
Nhà Trắng cháy đen
Jefferson rời Nhà Trắng đầu năm 1809, ba năm sau, cuộc chiến
1812 bùng nổ giữa Mỹ và Anh, dưới thời Tổng Thống thứ bốn, James Madison. Năm
1814, cả Nhà Trắng và Quốc Hội đều bị quân Anh đốt, thiệt hại nhiều. Hai cánh
Đông và Tây được xây lại năm 1818.
Người chọn chỗ, người vẽ kiểu, người chỉ huy việc xây dựng
Nhà Trắng đều da trắng, nhưng đa số công nhân xây cất đều da đen; da đen nô lệ
không được trả lương, da đen tự do được trả công thấp. Các Tổng Thống, kể cả
Washington và Jefferson, đã chiến đấu giải phóng đất nước khỏi ách nô lệ, và
nêu cao tín điều mọi người sinh ra đều bình đẳng, đều là những chủ nhân có nhiều
nô lệ.
Xung khắc về chủ trương duy trì hay bãi bỏ chế độ nô lệ đã
giúp Abraham Lincoln, một luật sư tự học, thuộc Đảng Cộng Hoà, chủ trương giải
phóng nô lệ, đã được bầu làm Tổng Thống thứ 16, dọn vào Nhà Trắng năm 1861. Cao
nhất (6 feet 4 inches=1.93 mét) trong số các tổng thống, Lincoln vào Nhà Trắng
với hai con trai nhỏ, Tad 8, và Willie 11 tuổi. Đó là hai con nhỏ của tổng thống
đầu tiên sống ở Nhà Trắng. Trái với Willie ngoan và chăm học, Tad rất nghịch ngợm
và vô kỷ luật; gia sư được mượn vào dậy phải xin nghỉ, vì em này phá quá, không
dậy nổi. Oái oăm thay, Willie đã mất sớm chỉ sau một cơn sốt.
Gia đình Lincoln đã vào ở Nhà Trắng đúng một trăm năm trước
gia đình Kennedy, cả hai Tổng Thống Lincoln và Kennedy cùng bị ám sát. Xác
Kennedy được đặt tại Đông Phòng Nhà Trắng, trên bệ từng đặt quan tài Lincoln
100 năm trước.
Tổng Thống đầu tiên qua đời tại Nhà Trắng là William
Harrison. Với người Đông Nam Á, như Tầu và Việt Nam, 9 là con số hên, có được
nó là điềm may mắn. Harrison là Tổng Thống thứ 9 của Hoa Kỳ, nhưng chỉ được ở
Nhà Trắng một tháng. Tuyên thệ nhậm chức ngày 4 tháng 3, qua đời ngày 4 tháng
4, 1841. Lý do qua đời là diễn văn sau lễ tuyên thệ của ông dài quá, dài kỷ lục,
8445 chữ, do chính ông thảo ra, và nói lâu tới 1 giờ 45 phút dưới trời lạnh
giá. Ông bị cảm, sưng phổi, rồi qua đời. Tuy làm chủ Nhà Trắng thời gian ngắn
nhất, Ông đã để lại bài học muôn đời: nói nhiều, dễ chết! Điều này có thể áp dụng
cho một trong các thượng khách của Nhà Trắng hơn thế kỷ sau. Tổng Thống Diệm của
VNCH, tuy là người tốt, nhưng có tật nói dài, khiến nhiều người không ưa.
Thời thế tạo anh hùng
Những khó khăn trước và trong Đệ Nhị Thế Chiến Mỹ phải đối
phó, đã biến Franklin Roosevelt, Tổng Thống thứ 32, từ một chính trị gia khuyết
tật thành nhân vật lịch sử vĩ đại. Xuất thân là luật sư và chính trị gia chuyên
nghiệp, lần lượt đảm nhận các chức vụ từ lập pháp tới hành pháp, từ tiểu bang
New York tới chính phủ liên bang. Khi Thế Chiến II bùng nổ, Mỹ trong tình trạng
đại khủng hoảng kinh tế, nạn thất nghiệp cao, cuộc sống khó khăn. Mặc dù từ Âu
đến Á, phát xít và độc tài quân phiệt tung hoành khắp nơi, Mỹ vẫn đứng ngoài cuộc
chiến. Nhưng Roosevelt đã chuẩn bị sẽ đến lúc phải nhập cuộc, cứu người trước để
tự cứu mình.
Với chính sách New Deal gồm 3R:
Relief: Trực tiếp giúp các nạn nhân trong kinh tế
khủng hoảng về thực phẩm, nhà ở, và cơ hội tìm việc.
Recovery: Kích thích hoạt động kinh tế trở lại
tình trạng trước khủng hoảng.
Reform: Thực hiện các thay đổi cần thiết để
tránh khủng hoảng trong tương lai.
Roosevelt đã đưa ra nhiều biện pháp quyết liệt và táo bạo để
đối phó với tình thế. Đồng thời, chuẩn bị sẵn sàng về sức mạnh quân sự. Gia
tăng sản xuất súng đạn, chiến xa, máy bay, chiến hạm… vừa phát triển kinh tế, vừa
sẵn sàng về quân sự. Đến khi Quân Phiệt Nhật tấn công Trân Châu Cảng ngày 7
tháng 12, 1941, Mỹ đã có lý do chính đáng để tuyên chiến với Nhật, nhập cuộc Thế
Chiến II, trở thành lãnh đạo cuộc chiến bảo vệ tự do, dân chủ và nhân quyền
trên thế giới.
Cùng với chuẩn bị tham dự Thế Chiến, Roosevelt còn có quyết
định bất ngờ về nội tình Mỹ. Do nhiều dự án của ông bị tư pháp ngăn cản, ngày 5
tháng 2, 1937, ông công bố thông điệp thêm vào Tối Cao Pháp Viện 6 thẩm phán,
nâng tổng số từ 9 lên 15, và buộc các Thẩm Phán Tối Cao phải về hưu khi đến tuổi
70. Thành phần Quốc Hội khoá 75 thời ấy, chủ Nhà Trắng ngày nay nằm mơ cũng
không có được: Thượng Viện, 76 Dân Chủ/16 Cộng Hoà; Hạ Viện, 331 DC / 89 CH.
Roosevelt là Tổng Thống Dân Chủ, nhưng ý muốn của ông không được thực hiện. Đại
diện dân thời đó không phải đều là nghị gật.
Hiến Pháp nguyên thuỷ của Mỹ không cấm tổng thống làm nhiều
nhiệm kỳ. Sau nhiệm kỳ đầu, George Washingtopn đã muốn về hưu, nhưng nể lời yêu
cầu, ông đã tái cử nhiệm kỳ 2. Sau đó, nhất định rút lui, dù trong tình thế nếu
muốn, ông có thể tái cử mãi, hoặc tự xưng hoàng đế và cai trị đến hết đời. Theo
gương ông, những người kế nhiệm cũng làm như vậy. Roosevelt phá lệ, tái ứng và
đắc cử 4 lần liên tiếp, từ 1932 đến 1944, qua đời ngày 12-4, 1945, ở đầu nhiệm
kỳ 4. Thay ông làm chủ Nhà Trắng là Phó Tổng Thống Truman.
Dù một người có nhiều khả năng lãnh đạo như Roosevelt, cai
trị quá lâu không tốt. Đó là lý do xuất hiện Tu Chính Hiến Pháp thứ 22, năm
1951, quy định “không ai được đắc cử chức Tổng Thống quá hai lần”. Trên bảy chục
năm sau, cử tri Mỹ đã hồ hởi, đưa vào Nhà Trắng một người chưa đắc cử nhiệm kỳ
2, đã công khai háo hức tìm cách có nhiệm kỳ 3. Ông này phục Putin của Nga như
thần tượng, người đã làm tổng thống từ năm 2000, vẫn còn đang tại chức.
Nhà Trắng tiếp tục thay đổi qua các thế hệ. Giữa Thế Kỷ 20,
với tuổi thọ trên 100, nhìn từ bên ngoài, chưa đến nỗi nào, nhưng bên trong đã
xuống cấp nhiều. Một hôm, vào năm 1948, một chân chiếc dương cầm Steinway của Tổng
Thống thứ 33, Harry Truman, đã lọt qua sàn phòng làm việc ở tầng 2, vì sàn nhà
quá yếu. Cũng may là trước đó, cơ thể lớn kỷ lục của Tổng Thống thứ 27, William
Howard Taft, nặng trên 300 pounds, vẫn được an lành.
Tổng Thống Truman được Quốc Hội cấp ngân quỹ thực hiện cuộc
đại tu bổ Nhà Trắng, kéo dài 4 năm, từ 1948 đến 1952. Thời gian này, Truman dọn
sang ở Blair House, nơi thường dành cho quốc khách trong các chuyến thăm viếng
chính thức, ở bên kia đường, xế cửa trước Nhà Trắng. Cuộc đại tu bổ này để lại
một thay đổi có thể nhìn thấy từ bên ngoài. Đó là Truman Balcony, nằm ở tầm giữa
6 cột lồi ra phía sau, nối với sàn tầng 2 Nhà Trắng. Đây là nơi lý tưởng để gia
đình tổng thống và khách quý ngồi ngắm pháo bông nở hoa cạnh tháp Washington,
vào mỗi dịp Quốc Khánh.
Sau vụ đổ bộ thất bại lên Vịnh Con Heo ở Cuba năm 1961, Tổng
Thống thứ 35 là John Kennedy thấy cần phải có một trung tâm thường trực theo
dõi, phối hợp hành động, để có thể đối phó với tình thế một cách mau lẹ và hữu
hiệu. Đó là lý do ra đời của Phòng Tình Hình (Situation Room)
tại Nhà Trắng. Gọi là “phòng”, thật ra là một khu vực gồm nhiều phòng, có diện
tích rộng gấp đôi một căn nhà trung bình, 5500 square feet (511 mét vuông), nằm
dưới tầng hầm Cánh Tây. Thiếu thoáng khí và ánh sáng, cơ sở quan trọng hàng đầu
tại Nhà Trắng theo sát và đối phó với tình hình thế giới, đã bị nhiều người,
trong đó có Kissinger, chê là nơi thiếu tiện nghi, thiếu mỹ thuật về trang trí.
Hình trái: Từ trái, Phó Tổng Thống
Biden, Tổng Thống Obama, và thành viên Hội Đồng An Ninh Quốc Gia thời chính quyền
Obama, từ Phòng Tình Hình, ngày 1 tháng 5, 2011, theo dõi qua màn ảnh TV cuộc đột
kích của nhóm biệt kích Hải Quân (Seal Team) tại Pakistan, giết Osama bin
Laden, lãnh tụ al-Qaeda, người chủ mưu vụ khủng bố 11-9-2001.
Hình mặt: Tổng Thống Trump, ngồi tại đầu
bàn họp Phòng Tình Hình, ngày 21 tháng 6, 2025, theo dõi tình hình vụ các pháo
đài bay B-2 oanh kích ba cơ sở nguyên tử tại Iran, trong nỗ lực ngăn cản nước
này chế tạo võ khí nguyên tử.
(Cả hai hình đều do Nhà Trắng công bố, qua AP)
Từ khi thành lập, Phòng Tình Hình đã được nâng cấp nhiều lần,
mới nhất vào năm 2023, với chi phí 50 triệu Mỹ Kim. Trang bị thông tin ở đây
thuộc loại tối tân nhất, trừ cellphones bị cấm ngặt đối với mọi người, kể cả
nhân viên Nhà Trắng, vì lý do an ninh; chỉ được dùng loại điện thoại có đường
giây.
Nhân viên phục vụ gồm cả quân và dân sự. Hoạt động liên tục,
không ngừng nghỉ. Buổi chiều ngày nổ ra cuộc đảo chính 1-11-1963 ở Sài Gòn, Tổng
Thống Ngô Đình Diệm gọi cho Đại Sứ Mỹ Cabot Lodge hỏi về thái độ của Tổng Thống
Kennedy, Lodge đáp bây giờ là ban đêm ở Washington, không thể trả lời. Nói dối,
vì Phòng Tình Hình theo dõi sát tình hình, 24/7.
Phòng Tình Hình căng thẳng cao độ vào cuộc đấu hoả tiễn mang
đầu đạn nguyên tử giữa Liên Xô và Mỹ vào tháng 10, 1962. Sau vụ đổ bộ Vịnh Con
Heo, Lãnh Tụ Cuba là Fidel Castro yêu cầu Liên Xô có biện pháp đề phòng.
Krushchev cho chở hoả tiễn tới đặt tại Cuba, chỉ cách Mỹ hơn trăm cây số. Mỹ biết
được, nhờ hình chụp từ các phi cơ trinh sát U-2, Kennedy ra lệnh cho Hải Quân
phong toả Cuba. Trong gần hai tuần lễ, thế giới lên cơn sốt, chờ đợi Thế Chiến
III bùng nổ. Tai hoạ đã tránh được, nhờ hai bên thương lượng và nhượng bộ lẫn
nhau. Liên Xô gỡ hoả tiễn mang về, Mỹ gỡ hoả tiễn đã đặt ở Thổ Nhĩ Kỳ, gần Nga.
Từ sau biến cố 11 tháng 9, 2001, hệ thống thông tin từ Phòng
Tình Hình được nối kết với các phương tiện chuyên chở Tổng Thống, Air Force
One, trực thăng, limousine, để Tổng Thống có thể biết rõ tình hình từ bất cứ ở
đâu. Đồng hồ điện tử treo trên tường, cùng lúc chỉ giờ Washington và các nơi
trên thế giới.
Ngày 2 tháng 7, 2023, vào cuối tuần nghỉ Lễ Độc Lập, một gói
ma tuý cocaine đã được tìm thấy tại một hốc nhỏ thường để vật dụng gần lối vào
Phòng Tình Hình. Cả Mật Vụ và FBI đều tham dự cuộc điều tra tìm xem ai đã để của
độc này ở đó. Cho đến nay, đúng hai năm sau, vẫn chưa biết ai là thủ phạm. Từ
Phòng Tình Hình có thể biết rõ mọi chuyện tại khắp nơi trên thế giới, nhưng
không biết ai để lại gói cocaine ngay trước cửa. Một bài học luân lý sơ đẳng đã
được các nhà hiền triết nhắc đến từ vài ngàn năm trước: Thấy được vật nhỏ như
cái gai trong mắt người khác, nhưng không thấy vật to như cái xà nhà ngay trước
mắt mình!
Nhà Trắng bị bôi đen
Cha đẻ Nhà Trắng George Washington đã đặc biệt được đề cao về
đức tính thành thật. Sử gia đương thời còn bịa ra câu truyện chặt cây cherry, để
nhấn mạnh Washington là người thành thật từ khi còn nhỏ. Nhưng người kế nhiệm
thứ 37, Richard Nixon, đã bôi đen Nhà Trắng bằng sự dối trá trắng trợn. Kết quả,
ông này là Tổng Thống đầu tiên trong lịch sử Mỹ phải từ chức, rời Nhà Trắng
trong nhục nhã.
Dưới thời Nixon với vụ Watergate, Nhà Trắng được vẽ
giống bộ máy ghi âm
Muốn chắc ăn trong vụ tái cử cuối năm 1972, bộ hạ thân tín của
Nixon ở Nhà Trắng đã lén đột nhập trụ sở Đảng Dân Chủ ở chung cư cao cấp
Watergate, Washington, D.C., đêm 17-6, 1972, để đặt các dụng cụ nghe lén, theo
dõi đường đi nước bước của đối phương. Nhóm đột nhập bị bắt, nội vụ đổ bể nhờ kết
quả điều tra của hai nhà báo Wasington Post là Carl Bernstein và Bob Woodward,
theo đó, những kẻ đột nhập Watergate bị bắt có liên hệ với Ban Vận Động Tái
Tranh Cử của Nixon. Lúc đầu, Nixon chối rằng mình không biết, và không can dự
gì tới chuyện này.
Qua các tiết lộ được công bố, Nixon càng chối, nghi ngờ về sự
thành thật của ông trong dư luận càng lên cao. Để đối phó với tình thế, trong
cuộc họp báo tại Orlando ngày 17 tháng 11, 1973, Nixon không còn tránh né, đi
thẳng vào đề, cố gắng lấy lại lòng tin của dân chúng, ông nói: “… vì
dân chúng phải được biết, liệu tổng thống của họ có phải là kẻ man trá không. Vậy
thì, tôi không phải là một kẻ man trá” (… “because people have got to know
whether or not their president is a crook. Well, I’m not a crook”).
Rồi chuyện nọ dẫn tới chuyện kia, cuối cùng lòi ra chuyện có
hệ thống tự động ghi âm tại ba nơi Nixon làm việc: Phòng Bầu Dục, Phòng Họp Nội
Các, và một phòng riêng của Nixon ở Old Executive Office Building. Tối Cao Pháp
Viện bắt Nixon nộp các cuốn băng ghi âm làm tang chứng trong cuộc điều tra. Mặc
dù một số đoạn đã bị xoá, Nixon hết đường chối, chính ông là kẻ man trá. Chính
ông đã ra lệnh bao che vụ phạm pháp ở Watergate. Man trá tồi tệ nhất, là chính
ông, đã công khai nói trước quốc dân rằng mình không phải là một Tổng Thống man
trá, trong khi chính ông là kẻ man trá. Để tránh bị buộc tội qua thủ tục đàn hạch
(impeachment), ông tự chọn giải pháp từ chức.
Cần ghi một điểm son ở đây dành cho Quốc Hội thời đó. Khi
Nixon hết đường chối cãi, guồng máy đàn hạch tại Quốc Hội bắt đầu chuyển động,
các dân biểu và nghị sĩ lãnh đạo khối Cộng Hoà, cùng đảng với Nixon, tại Hạ và
Thượng Viện, đã nói thẳng với Nixon rằng họ sẽ không ủng hộ ông, nếu nội vụ
chính thức mang ra xét xử theo thủ tục đàn hạch. Ngày 6 tháng 8, 1974, Nghị Sĩ
Trưởng Khối Cộng Hoà Barry Goldwater đã nói với các Nghị Sĩ cùng Đảng rằng: “Nixon
nên vác đít ra khỏi Nhà Trắng hôm nay”. Biết không thể thoát nếu bị
đàn hạch, hai hôm sau, Nixon họp báo tuyên bố từ chức.
Dân Biểu, Nghị Sĩ thời đó, chưa đóng vai gia nô cho chủ Nhà
Trắng.
Một thế hệ kế tiếp, Bill Clinton, do lưu tâm nhiều tới quyền
lợi dân da màu, có người trong giới truyền thông gọi ông là Tổng Thống da đen đầu
tiên, mặc dù ông ta da trắng trăm phần trăm. Đúng ra, ông này là người thứ nhì,
sau Nixon, đã bôi đen Nhà Trắng. Nixon gian dối vì tham vọng tái cử. Clinton
man trá vì dục vọng cá nhân.
Chỉ cần kể từ sau Thế Chiến II, đã có nhiều Tổng Thống nổi
tiếng bê bối về tình dục, như Kennedy, Johnson. Riêng Clinton đã hành lạc với một
nhân viên tập sự, cô Monica Lewinsky, ngay tại nơi quan trọng nhất ở Nhà Trắng,
là Phòng Bầu Dục, trong nhiều năm; từ 1995 đến 1997. Đến tháng 1, 1998, nội vụ
mới đổ bể trên báo.
Từ vụ Paula Jones tố Clinton quấy rối tình dục ngoài Nhà Trắng
rồi được bồi thường $850,000, đã dẫn tới vụ này. Lewinsky, từ vai trò nhân chứng
trong vụ trước nhằm chứng minh có hay không tiền lệ quấy rối tình dục của
Clinton, trở thành vai chính trong vụ án dâm dục tại Phòng Bầu Dục, là trọng
tâm thảo luận trên truyền thông cũng như trong dư luận quần chúng suốt một năm;
từ đầu năm 1998 đến 1999.
Lúc đầu, cả Clinton và Lewinsky đều chối không có chuyện
liên hệ tình dục. Về sau, qua những tang chứng khả tín và lời khai hữu thệ của
các nhân chứng quan trọng, kể cả Mật vụ gác Phòng Bầu Dục, cả hai đều thay đổi
lời khai. Clinton vẫn chối không có sex, nhưng thừa nhận đã có mối liên hệ
không chính đáng với cô Lewinsky. Cô này nhận có “yêu nhau bằng mồm” với
Clinton. Khi được công tố cho miễn nghị về những lời khai thiếu trung thực trước,
cô đã tỉ mỉ kể hết mọi chuyện trong mối liên hệ với chủ Nhà Trắng Clinton, có
chi tiết mùi mẫn hơn cả dâm thư.
Cuối cùng, thủ tục đàn hạch được tiến hành; 19-12, 1998, Hạ
Viện biểu quyết đàn hạch Clinton về hai tội: (1) Khai man trước đại bồi thẩm
đoàn, và (2) Ngăn cản cùng gây trở ngại hoạt động của ngành tư pháp. Clinton
không từ chức như Nixon, ông cam kết tại chức cho đến giờ chót của ngày chót
nhiệm kỳ.
Clinton có thể làm như vậy, vì được các dân biểu và nghị sĩ
cùng Đảng Dân Chủ ủng hộ.
Ngày 7-1, 1999, Thượng Viện bắt đầu xử Clinton.
Ngày 12-2, 1999, phiên xử kết thúc. Clinton không bị kết án
là có tội. Tất cả Nghị Sĩ Dân Chủ đều bỏ phiếu ủng hộ Clinton. Tuy Cộng Hoà đa
số, nhiều phiếu buộc tội hơn, nhưng không đủ hai phần ba để kết án Clinton.
Có vài điều đáng ghi nhận ở đây:
– Trong giai đoạn cuối của vụ Watergate, uy tín của Nixon xuống
rất thấp, mức độ ủng hộ của dân chúng theo kết quả thăm dò công luận qua hãng
Gallup chỉ còn dưới 30%. Đồng thời, nhiều nhà lập pháp cùng đảng Cộng Hoà đã thẳng
thắn chống lại ông. Sự thành thật và tư cách của nhà lãnh đạo quốc gia được coi
trọng hàng đầu.
– Một phần tư thế kỷ sau, trong vụ luận tội Clinton, những
nhà lập pháp như Goldwater không còn nữa, và mức độ chấp thuận Clinton qua công
luận rất cao, quá gấp đôi so với Nixon. Kinh tế phát triển tốt đẹp hơn dưới thời
Clinton hơn thời Nixon. Giá trị tinh thần đã bị giá trị vật chất qua mặt!
Một ghi chú phụ cũng nên thêm vào ở đây: Năm 2016, Đệ Nhất
Phu Nhân Hillary Clinton là ứng cử viên tổng thống đại diện Đảng Dân Chủ. Ban vận
động của bà đã chi một số tiền lớn để phổ biến trên TV khắp nước một mẩu quảng
cáo quan trọng: Mở đầu là tiếng chuông điện thoại reo lên lúc 2 giờ sáng. Bà là
người nhấc máy lên nghe. Lời dẫn đi kèm cho biết đại ý, dù giữa đêm khuya,
chính bà ở Nhà Trắng, là người sẵn sàng kịp thời đối phó với mọi chuyện quan trọng.
Nhưng trước đây, những gì diễn ra giữa chồng bà và cô tập sự ở Phòng Bầu Dục,
không phải lúc 2 giờ sáng mà thường vào buổi chiều, chỉ cách nơi ở của bà mấy
chục thước, khi mọi người còn thức, kéo dài hàng năm, sao bà không biết? Tệ
hơn, bà còn đổ lỗi cho người khác đã bịa chuyện để hại chồng bà!
Chủ Nhà Trắng đổi màu
Đa số công nhân góp phần xây Nhà Trắng đều thuộc thành phần
da đen. Và từ khi Nhà Trắng hoàn thành, khách viếng thăm thường chỉ gặp da đen
trong số những người phục dịch, từ nhà bếp tới bảo trì hay săn sóc cỏ cây ngoài
vườn. Như một nền nếp cứ như vậy kéo dài qua thời gian. Ngay cả sau cuộc giải
phóng nô lệ, mọi sự vẫn như vậy, chỉ dần dần khá hơn chút ít. Nhất là tại Nhà
Trắng, các chủ nhân nối tiếp nhau, vẫn hoàn toàn da trắng.
Đầu Thế Kỷ 21, bỗng Nhà Trắng có chủ da đen; với họ và tên
cũng… đen luôn! Đa số dân trắng bỗng giật mình, như bị chấn động bởi một vụ nổ
bom nguyên tử. Đồng thời, thống kê cho biết, chỉ một thế hệ nữa, từ 2050, dân số
Mỹ trắng thuần tuý sẽ trở thành thiểu số. Khi đó, chủ Nhà Trắng lại đổi màu là
cái chắc.
Sau tám năm, ông chủ mới không để lại dấu vết cụ thể nào bôi
đen Nhà Trắng, hú vía! Nhưng phải nghĩ tới tương lai. Sau một cú sốc, tỉnh lại,
đa số thành phần da trắng nghĩ rằng họ phải làm một cái gì, để tự cứu, và cứu
nước. Phải lập một nước Mỹ vĩ đại trở lại, với giá trị cũ, trật tự cũ, mầu sắc
cũ. Chủ Nhà Trắng phải có mầu da trắng, như hàng trăm năm cũ.
Từ mối lo âu sống còn trên, đã xuất hiện một vị cứu tinh, tự
cho mình vai trò là người duy nhất có đủ khả năng cứu nhân độ thế. Tự đánh giá
mình cái gì cũng vào hạng nhất. Trong lúc hoang mang lo sợ, có người đóng vai cứu
tinh, nhiều người thuộc loại tự cho mình là khôn hơn người, nghĩ rằng, “Có ngu
mới không theo!”
Thế là Nhà Trắng có chủ mới, da trắng, nhưng không giống ai,
cả trắng lẫn đen.
Nhà Trắng, Nhà Xanh
Đầu năm 2025, có hai sự việc nổi bật, lần đầu tiên xảy ra
trong lịch sử Mỹ: Một can phạm đại hình người Mỹ, đã bị kết án có tội, vẫn được
ứng cử, đắc cử, nhậm chức, trở lại làm chủ Nhà Trắng, và một người Mỹ thứ hai,
được bầu làm Giáo Hoàng, lãnh đạo hơn một tỷ giáo dân Công Giáo toàn cầu.
Hai nhân vật xuất chúng cùng là người Mỹ, cùng đạt địa vị
cao chót vót này, một đời, một đạo, có gì giống, và khác nhau?
Trước hết, cả hai đều được kính yêu của cùng một thành phần,
là các bổn đạo Thiên Chúa Giáo.
Ngoài điểm giống nhau nêu trên, có rất nhiều điểm quan trọng
hai người hoàn toàn khác nhau, như nước với lửa. Xin kể vài thí dụ:
Giáo Hoàng đại diện Chúa ở thế gian, Lời Chúa là quan điểm của
Giáo Hoàng. Chúa dậy phải thương yêu và giúp đỡ người nghèo khó, chủ Nhà Trắng
chủ trương xua đuổi người nghèo khó là thành tích đáng đề cao. Chúa dậy nếu mắt
nhìn thấy điều khiến ta phạm tội, tay làm sự tội thì hãy móc mắt, chặt tay mà vất
đi. Chủ Nhà Trắng tuyên bố: “Tôi tự động bị lôi cuốn bởi sắc đẹp, như nam châm
hút. Cứ hôn, không thể đợi, cứ móc vào chỗ kín của [phụ nữ]”. Điều răn thứ 10 của
Chúa dậy “Chớ muốn vợ chồng người”. Chủ Nhà Trắng nói: “Tôi đã ráng để đ. nàng.
Nàng đã có chồng”. Chúa dậy người giàu vào nước Thiên Đàng khó hơn lạc đà chui
qua lỗ kim, Chủ Nhà Trắng đuổi người nghèo về nước, ưu tiên chấp nhận và cho nhập
tịch những ai mua thẻ vàng 5 triệu trở lên.
Một ngày đẹp trời nào đó, liệu Giáo Hoàng có áo trắng về Mỹ,
thăm Nhà Trắng?
Nếu người viết không sai (nhiều phần sai), tháng Mười tới,
Giáo Hoàng sẽ về New York, đọc diễn văn trước Đại Hội Đồng Liên Hiệp Quốc, và
Ngài sẽ cử hành thánh lễ tại Nhà Thờ St. Patrick, rồi từ đây, trở lại Rome, mà
không thăm Nhà Trắng. Nếu Ngài thăm Nhà Trắng trong tình trạng hiện nay, khác
gì Đức Khổng Tử ngày xưa, sau khi rời Lỗ sang Tề rao giảng đạo lý, đến khi được
trọng dụng, xúng xính mũ cao áo dài về thăm Nhà Xanh nổi tiếng ở quê cũ.
