Nguyên Nghĩa sinh năm 1952 tại Sài
Gòn, Trước 1975 học Đại học Luật khoa, Sài Gòn. Nhập ngũ khóa 3/72 Sĩ Quan Trừ
Bị Thủ Đức. Sau 1975 định cư tại Canada. Cộng tác với nhiều tạp chí văn chương
dưới các bút hiệu Nguyên Nghĩa, Trương Thanh Thùy, Cổ Chí Kim, Hoàng Đặng, Nguyễn
Đặng Hoàng. Chủ nhiệm kiêm chủ bút tạp chí Tự Do, Toronto (1993-2003). Tác phẩm:
Chờ Chết (tập truyện, Xuân Thu xuất bản), Tứ Tuyệt Vời (tập thơ, Thân Hữu xuất
bản).
Ngày thứ nhất.
Khu rừng có vẻ như bị bỏ hoang từ nhiều năm. Cây cối mọc chằng
chịt, gai góc và cỏ dại tràn lan không còn lối đi. Đây là một khu rừng thưa, ít
cổ thụ, xen lẫn với những cây già là những thân cây còn non yếu, thấp.
Từ dưới
nhìn lên, người ta vẫn thấy được trời, nhận ra những đám mây không bị ràng buộc
đang mặc tình thong dong. Từ trên nhìn xuống, giả dụ như nhìn từ một chiếc phi
cơ đang bay, chắc khó ai biết phía dưới, che khuất bởi những chòm lá, có hàng
bao nhiêu ngàn con người đang lau nhau lui tới như những con sâu, cái kiến. Dưới
tàn những cổ thụ là các chòi nhỏ lợp tranh, vách cũng bện bằng tranh. Trong
chòi, mấy chục mạng người đang chen chúc nhau đứng, ngồi, nằm dài trên nền đất
hay toòng teng trên võng mắc từ cột này sang cột kia. Hình như chẳng ai ngủ được.
Mỗi người đều có ý nghĩ riêng, nhưng tựu trung là nỗi hoang mang trước một đổi
thay quá bất ngờ. Giống như ngay sau một cơn mơ dài, người ta giật mình thức dậy
và phân vân không biết họ đang ở đâu. Hàng đoàn xe Molotova phủ bạt kín mít đã
mang họ đổ xuống vùng này. Khi bạt phủ được kéo lên, họ bỗng nhận ra mình đang
đứng giữa rừng, trước những họng súng AK. Ngoài cây cối và một vài chòi tranh
thấp thoáng, chẳng còn gì khác chứng tỏ nơi đây có thường dân cư trú. Đây chỉ
có thể là giang san của những con vượn người.Trong vài chòi tranh rải rác, cách biệt với khu đông người,
một hai kẻ mặc đồng phục màu ô-liu rộng thùng thình, chân mang dép loại cao su
bánh xe hơi, mặt mũi non choẹt, nước da tái mét bệnh hoạn, đang nằm đong đưa
trên võng, súng đặt trên ngực, miệng hát lảm nhảm những bài ca lạ hoắc được soạn
theo lối nhạc Tàu pha nhạc kịch Tây phương. Trông những kẻ này có vẻ nhàn nhã đến
chán ngấy vì chẳng có việc làm. Bắt được chúng nó rồi, để xem đảng ta làm thịt
chúng nó cách nào. Đại thắng rồi, tưởng được ra khỏi rừng về phố cho sung sướng
tấm thân, ai ngờ lại vào rừng mà ở nữa.
Trời không nóng lắm, mùa mưa chỉ mới bắt đầu. Những cơn mưa
tới bất thường rồi bỏ đi thật nhanh. Tù nhân không biết làm gì để giết thì giờ
và xua bớt nỗi lo âu dồn dập, bèn bày ra đủ thứ việc: kẻ thì lấy đồ đạc mang
theo ra xếp lại cho thứ tự, người thì tìm vài sợi dây nối vào nhau rồi cột vào
chiếc lon guigoz làm thành gầu múc nước. Vài kẻ ngồi quanh chiếc bếp dã chiến
nhìn củi ẩm cháy nhẩn nha, chờ nước trong lon Guigoz sôi để pha trà hay cà phê.
Đôi ba người khác cởi trần mặc quần đùi, kiên nhẫn múc từng lon nước từ giếng
lên xối từ đầu tới chân ướt đẫm như muốn phủi sạch những thứ vô dụng đang bám
vào người. Vài câu đùa bỡn xỏ xiên, rồi tiếng cười nổ ra giòn tan như pháo.
Đúng là bọn điếc chưa sợ súng!
Giữa mặt đất có một cái lỗ sâu hoắm, đường kính cỡ một thước.
Chung quanh cái lỗ đó, đất được đắp lên hơi cao hơn mẻ ngoài. Hai thân cây cưa
ngắn được gác ngang qua miệng lỗ để làm chỗ đứng cho người. Lâu ngày, cỏ mọc
lên chung quanh miệng lỗ, rêu bám đầy hai thân gỗ và cả phía dưới sâu của nơi
được gọi là giếng này. Nhìn xuống đó, chỉ thấy một màu đen ngòm. Lá mục nổi lều
bều thành lớp dầy trên mặt nước.
Tù nhân thả chiếc lon xuống, quơ tay qua lại cho lớp lá mục
dạt sang một góc rồi hất tay mạnh một cái cho chiếc lon lật sang bên, cắm chúi
xuống nước. Khi chiếc lon chìm hẳn thì kéo dây lên, cùng lúc phải khỏa cho lá đừng
chui vào lon. Động tác đơn giản đó giờ đây trở nên hiện đại, tân kỳ. Không bị
chở tới bỏ ở khu rừng này thì làm sao tận dụng được hết khả năng của một chiếc
lon Guigoz tầm thường vốn dùng để đựng sữa bột trẻ em do “thực dân” Pháp chế tạo?
“Cách mạng” vốn lo xa, đã nghĩ ra bao nhiêu kế hoạch năm năm, theo đó, đến năm
thứ bao nhiêu thì loài người sẽ có thứ gì; nhưng những tù nhân hôm nay cũng lo
xa không kém. Mọi thứ cần thiết cho một con người để có thể sinh tồn, dù là sẵn
có mang theo hay tự chế cũng đều do chính tù nhân chuẩn bị. “Cách mạng” lấy của
họ nhà, xe… đuổi cổ họ vào rừng, không cho họ bất cứ thứ gì, trong mười ngày.
Thông báo của Ủy ban Quân quản đã nói rõ đó thôi: “Đi học tập, tự túc lương thực
trong mười ngày.” Con vượn người không cần đánh răng, tắm rửa, không cần cơm gạo
vẫn sống được kia mà.
Ngày thứ mười một.
Tù nhân kháo nhau:
– Bỏ mẹ rồi, hết cha nó mười ngày trong này mà vẫn chưa thấy tụi nó nói gì về
chuyện thả!
– Cứ từ từ. Thế nào tụi nó cũng phải đề cập tới số phận tụi mình chứ.
Kẻ bi quan nhận xét:
– Tao tin là tụi mình bị lừa một vố nặng. Cá vô rọ rồi, đừng hòng trở ra!
Kẻ lạc quan mơ mộng:
– Tụi nó chỉ muốn xem phản ứng của mình thôi. Không thấy gì, tụi nó sẽ thả hết
nay mai…
– Tao nhớ nhà quá! Chắc vợ tao đã sanh con đầu lòng rồi! Bả sắp sanh thì tao phải
đi.
– Lương khô sắp cạn rồi! Biết lấy gì mà gặm đây? Một kẻ khác la hoảng:
– Sao tao cảm thấy ngứa ngáy khắp người… Hồi nào tới giờ đâu có bị như vậy.
Ngày thứ hai mươi tám.
Tù nhân được lệnh tập hợp tại một bãi trống để nghe chỉ thị.
Một kẻ mặc quân phục màu ô-liu, đội mũ cối, không rõ cấp bậc vì không có gắn
sao trên cổ áo, bước tới từ một góc rừng. Tiếng xầm xì nổi lên:
– Lần đầu tiên tao thấy quân đội của một xứ không mang giày mà mang dép.
– Sao không có chào tay gì hết trọi?
Tới trước những hàng tù, gã dừng lại quay mặt về phía họ. Tự nhiên tiếng ồn ào
im bặt:
– Thưa các đồng chí!
Như sực nhớ ra, hắn im lặng một hồi rồi nhắc lại:
– Chào các anh. Tôi là thủ trưởng tiểu đoàn này, xin thay mặt đảng và nhà nước
thông báo để các anh rõ: trong thời gian tới, các anh sẽ bắt tay vào việc dựng
hội trường, làm nhà ở để chuẩn bị học tập chính sách khoan hồng của cách mạng.
Mọi người lại bắt đầu bàn tán:
– Cha nội này là ai vậy kìa? Tao đếch hiểu thủ trưởng là cái quái gì.
– Thì chắc là một thứ xếp gì đó.
– Mày đoán xem, nó mang cấp bậc gì ?
– Ai mà biết. Nó có mang sao, tao cũng chịu thua. Thằng nào cũng mang sao, toàn
là cấp tướng. Cóc có thằng nào chịu mình binh nhì.
– Sếp gì mà coi lè phè quá trời. Quần áo rộng rinh, giống tân binh quân dịch.
Ở một góc khác của đám đông, đề tài có vẻ nóng bỏng hơn:
– Hắn vừa nói cái gì? Tai tao nghe lầm chăng? “Trong thời gian tới sẽ dựng hội
trường, làm nhà, học tập chính sách.” Vậy tức là mình còn ở đây dài dài?
– Mày đâu có nghe lầm. Nhưng ở đây bao lâu nữa thì phải hỏi nó chứ sao lại hỏi
tao.
Một tù nhân giơ tay xin phát biểu ý kiến:
– Thưa anh thủ trưởng, xin anh trả lời cho chúng tôi biết, phải chăng có chuyện
lầm lẫn về vấn đề thời gian? Ủy ban quân quản đã ra thông cáo nói rằng chúng
tôi chỉ phải đi học tập mười ngày mà giờ này đã là tuần lễ thứ tư…
Tên thủ trưởng nở nụ cười khó hiểu, nửa trông nham hiểm, nửa như cười thương hại
bọn tù nhân ngây thơ. Sau đó hắn nghiêm mặt trả lời:
– Để rồi tôi sẽ phản ánh việc này lên để trên giải quyết. Tạm thời bây giờ tôi
tiếp tục tiến hành chỉ thị của trên là thu tiền ăn mười ngày của các anh để sẽ
lo lương thực cho các anh bắt đầu từ ngày mai.
Ngừng một chút, hắn tiếp:
– Các anh nhà trưởng có nhiệm vụ thu tiền ăn của mỗi người trong nhà mình và
đem nộp cho tiểu đoàn ngay hôm nay. Nhớ lập danh sách rõ ràng những ai không nộp
tiền ăn.
Và hắn cho lệnh giải tán. Tan hàng xong, mọi người bắt đầu nhốn nháo. Kẻ móc
túi, người nhét tiền vào túi giùm “cách mạng.” Cảnh đếm tiền, thối tiền lại diễn
ra giống như một cái chợ. Kẻ nhát gan thì nộp đủ số tiền nhà nước đòi hỏi,
ngươi to gan lớn mật lắc đầu nguầy nguậy:
– Cứ thử không đưa xem tụi nó làm đếch gì được tao. “Cách mạng” dặn tao tự túc
lương thực sao lại còn bắt tao trả tiền? Lột nhau kỹ thế, cướp cạn à?
– Câm cha cái mồm mày đi! Bộ muốn tụi nó nhốt đến mãn đời hay sao mà chửi vung
vít lên? Nín thở qua sông cho rồi. Tao chịu cảnh này hết nổi, bực bội trong người
quá, lại thêm cái màn “khảy đờn” mỗi đêm, ngủ ngáy gì được đâu.
Ngày thứ ba trăm sáu mươi lăm.
Đôi ba tù nhân vừa cắt tranh về, áo quần ướt đẫm vì mồ hôi lẫn
nước mưa. Người nào người nấy mặt mũi, tay chân lấm lem do đất trộn lẫn với tro
của những khu rừng bị cháy rụi. Họ liệng đánh phịch những bó tranh được cột vào
nhau xuống đất, đứng thở một hồi lâu. Người này xắn tay áo lên, kẻ kia giơ ống
tay áo bẩn và rách bươm lên nhìn vào cánh tay mình. Ở đó nhiều vết xước đủ hình
dạng và đủ kích thước, chỗ nông, chỗ sâu, ửng lên màu đỏ tươi. Một người tặc lưỡi:
– Phải chi gãi được thì đã biết mấy…
– Lỡ gãi cho nó tóe máu là vô phương lành nghe mậy. Tốt nhất là đi hơ lửa.
– Hơ lửa thì chỉ được hai cái tay hay cùng lắm là lưng quần, hai ống quyển. Cái
ót cũng ngứa chịu không được.
– Mình nghỉ một chút rồi đi tắm, nghe?
Người kia trả lời:
– Còn phải bện nữa. Không đủ chỉ tiêu là bị bắt làm thêm giờ chứ chơi sao. Tao
không thích nhịn đói làm phụ trội.
Một người bước vào gian nhà tranh, định tới bên giường nằm của mình tìm cái gì
đó, khi đi ngang chiếc mùng giăng kín mít bỗng dừng lại:
– Ê vua ghẻ, mày làm cái giống gì mà ở hoài trong đó?
Người nằm trong mùng cười hềnh hệch, đáp lại:
– Tao đang ngâm thơ cụ Hương đây.
– Thơ gì?
– Ngồi buồn gãi háng d… lăn tăn.
– Vậy sao? Bữa nay thấy đỡ hơn chưa?
– Đỡ mẹ gì, càng ngày càng tệ!
– Mày có xin thuốc gì xức không ?
– Thuốc “khắc phục.” Nó bảo tao ngâm nước muối. Càng ngâm càng thấy lở thêm, lở
trên lở dưới, chỉ còn chừa có cái mặt để tao còn nhận ra tao trong gương thôi.
Người đứng ngoài cười khẩy, nói thêm một câu trước khi bước về phía giường hắn:
– Còn bày đặt soi gương! Con vợ mày mà gặp lại mày ngay bây giờ chắc cũng phải
chạy xa cả thước.
– Được vậy còn phước. Sợ tao bỏ xác ở đây chỉ vì cái thứ bệnh quái quỷ này quá…
Nắng bỗng lên, mặt trời chui ra khỏi mây nhìn xuống đám tù nhân lố nhố bên dưới
cười thông cảm. Toán đi cắt tranh khi nãy lục tục kéo nhau ra sân ngồi bện
tranh thành tấm. Người đang làm việc thì sợ ánh nắng mặt trời làm họ chảy mồ
hôi. Càng ra mồ hôi, cơ thể họ càng nhớp nháp làm những chỗ đứt, trầy trụa trở
nên bỏng rát thêm. Lại gặp phải cỏ tranh, thứ cỏ lá dài và có răng cưa li ti,
không ai chịu được sự ngứa ngáy do loại cỏ đó gây ra.
Trong lúc đó, những người đang nằm trong mùng mừng vô hạn khi thấy ánh nắng. Họ
bò ra khỏi chỗ, lết tới đứng vịn vào lớp hàng rào ngăn lối đi và vườn rau. Họ
đang làm những con nhộng, phơi trần tất cả các phần thân thể ra giữa trời. Chẳng
ai cảm thấy xấu hổ cả. Chỉ có cách tiêu diệt phần nào đỡ phần nấy những con vi
trùng, những con cái ghẻ đang bám trên cơ thể họ bằng ánh nắng mặt trời thôi,
ngoài ra làm gì kiếm được thuốc chữa trong giai đoạn này. Vả chăng, chỉ có giống
đực với nhau, ngại gì kia chứ?
Để giết thì giờ, những kẻ đồng bệnh bèn gợi chuyện:
– Mới hai tuần trước còn thấy ông đi lao động mà?
– Đúng vậy. Đùng một cái nó nổ ra tung tóe đỡ không kip.
– Phơi đã chứ?
– Không có gì quý hơn được phơi tự do ! Hồi xưa tôi cứ chửi mấy thằng Tây no
cơm ẩm cật, bày trò trở về với thiên nhiên. Nay nhờ có “cách mạng” tôi mới thấy
bọn mình được dịp làm người Tây phương theo kiểu không cần quần áo.
Người vừa nói xong câu đó bỗng quơ tay như muốn chụp bắt vật gì.
– Nhưng chỉ chào thua mấy con ruồi. Sao mà chúng nó đánh hơi khá quá, hở ra là
chúng bu lại.
Rồi hắn cười thương hại, nhìn theo con ruồi bay đi đậu lên hàng rào:
– Tao cũng còn đói, huống chi mày…
– Ông bạn nè, hồi xưa ông có đọc cuốn sách dành cho con nít mà trong đó có một
nhân vật mang biệt danh Vọng ghẻ Tàu chưa?
– Có. Rồi sao?
– Tụi bạn của thằng Vọng cho rằng Mã Viện mang thứ ghẻ này qua Việt Nam nên gán
cho nó cái tên ghẻ Tàu. Ông nghĩ thứ ghẻ này cũng là tàn dư của Mã Viện?
Người nọ lắc đầu:
– Ghẻ Tàu sao được? Con cháu Mã Viện ở ngay trong lòng thủ đô Sài Gòn bao nhiêu
năm mà có ai thấy chứng ghẻ tràn lan như bây giờ đâu?
– Cái bệnh quái đản! Lẽ ra, nếu như “người anh em” chơi đẹp thì đã phát cho tụi
mình xà phòng đen để làm cỏ ba con cái ghẻ..
– Đào đâu ra xà phòng đen? Dân Sài Gòn còn bị ghẻ nữa huống hồ gì tụi mình. Tôi
mới nghe gia đình nói lại như vậy. Ông có nghĩ là tại mình ở bẩn mà sanh ghẻ
không?
– Ở bẩn thế nào được? Ngày nào lại không tắm? Nhưng càng tắm càng chết. Này
nhé: nước độc, nhựa cây độc, gai góc có mủ độc, thiếu dinh dưỡng… Bữa cơm, bữa
khoai bắp, cả năm mới thấy một miếng thịt heo bằng ngón chân cái thì cơ thể lấy
gì chống đỡ lại vi trùng? Làm gì có cái bàn hòa đàm Paris trong cơ thể mà hòng
thằng yếu thắng thằng mạnh!
– Vậy ông muốn bảo rằng đây là loại ghẻ thời đại?
Người nọ nhìn quanh một vòng xong rồi trả lời:
– Ghẻ Hà Nội chứ gì nữa. Không có quý ngài đó vào đây năm bảy mươi lăm thì đâu
xảy ra cớ sự!
Nói dứt câu, hắn ta ngẩng mặt nhìn trời cười khoái trá như một kép hát đang thủ
vai Thành Cát Tư Hãn. Nhìn lâu quá nên sau đó hắn nhảy mũi liên tiếp mấy cái.
– Ông bạn có thấy tên trông như người Đại Hàn đang đứng ở cuối rào phơi nắng
kia không?
– Ai vậy?
– Nguyên vô địch nhu đạo Đông Nam Á đó. Giờ này tả tơi như cái mền. Cũng mang hỗn
danh vua ghẻ như ai.
– Nghe danh anh ta từ lâu, nay mới biết mà tiếc quá, người hùng đã thành kẻ ruồi
bu.
– Có đồ sộ như mấy thằng chơi wrestling trên băng tần số mười một thì giờ này
cũng gục như thường ông ơi.
Ngày thứ vài ngàn.
Tù nhân bị bệnh tập trung vào hội trường để được y sĩ “cách
mạng” cho thuốc. Đứng ngoài nhìn vào, chỗ đó giống như một nhà lồng chợ. Kẻ đứng
người ngồi hoặc chống gậy đi đi lại lại, nhìn nhìn ngắm ngắm. Y sĩ là một tên
lùn tịt, mặt búng ra sữa, mặc đồ trận theo thời trang của năm bảy mươi lăm,
chân đi dép lốp xe hơi và không đeo ống nghe trước ngực. Lần nào như lần nấy,
khi đi cho thuốc người bệnh, hắn cẩn thận yêu cầu một bác sĩ tù đi kèm. Ông bác
sĩ này trước đây phục vụ tại một bệnh viện tiểu khu, từ ngày vào rừng được giao
cho công tác sưu tầm và nấu thuốc nam kiêm soạn sách y khoa liệt kê các loại
thuốc tây phiên âm ra tiếng Việt, theo kiểu “pê-ni-xi-lin, xì-trếp-tô-mi-xin…”
cho các y sĩ từ miền Bắc vào dễ đọc hơn, cùng công dụng của các thứ thuốc đó. Mỗi
khi sắp hạ bút ghi vào sổ, chú y sĩ thường kề tai ông bác sĩ nói nhỏ một câu gì
đó. Hễ ông bác sĩ gật đầu là mắt chú y sĩ sáng hẳn ra, tay ngoáy cây bút nhanh
như chớp trên tờ giấy. Cuối giờ cho thuốc, bao giờ chú ta cũng dặn ông bác sĩ:
“Tí nữa anh lên gặp tôi nhé!”
Thủ tục tiến hành hôm nay không khác gì những ngày trước đó.
Tù ghẻ được hỏi tên để ghi sổ và được phát một lọ thuốc đỏ dùng thoa da. Tù “liệt
sĩ” và tù phù thủng kém may mắn hơn, chỉ được cho nuốt một viên thuốc bé tí xíu
màu hồng thường được gọi là “thuốc động viên,” rồi sau đó phải nghe lời khuyên
nên chạy tới chạy lui lăng xăng và nên lấy cám gạo mà nấu uống hoặc ăn cho có
sinh tố. Bỗng dưng, tù ghẻ được lệnh ngồi lại chờ cho tới khi chấm dứt cuộc cho
thuốc.
Chú y sĩ đuổi tù “liệt sĩ” và tù phù thủng ra khỏi hội trường
xong, lục lấy trong ba lô ra ít lọ thuốc chích trụ sinh, một ít gòn, một lọ thuốc
đỏ và hai ống chích. Lần lượt, từng người tù ghẻ được gọi tên tiến tới trước mặt
hắn. Họ phải sắp hàng một, khỏi cần vén tay áo lên vì hầu như không ai mặc quần
áo gì mà chỉ quấn quanh bụng bằng cái khăn tắm hoặc tấm vải trải giường. Ghẻ lở
đầy người, chỗ nào cũng mưng mủ, ngứa ngáy, đau rát nên chỉ còn cách dẹp áo quần
sang một bên, trần truồng được càng tốt. Chú y sĩ vừa rút thuốc từ lọ vào ống
chích vừa gãi lấy gãi để, bộ dạng như sắp sửa đến ngày chính chú ta phải được
chích trụ sinh như đám người đang xếp hàng kia. Tay giơ ống chích lên, tay cầm
miếng gòn tẩm thuốc đỏ để sát trùng thay cồn, chú ta quát tháo luôn miệng:
– Các anh đứng xa tôi ra xem nào. Đừng chạm vào người tôi!
Mũi kim vừa mới đâm vào cánh tay người tù ghẻ thì chú y sĩ đã vội rút ra, không
hiểu có tí thuốc nào lọt được vào thớ thịt chưa.
– Đến lượt anh kế tiếp!
Cứ thế, chích mãi mà thuốc vẫn còn trong ống. Nhưng lạ nhỉ, người nào bị ghẻ có
mặt tại đó cũng đều được chích. Ông bác sĩ tù thấy vậy xòe bàn tay ra trước mặt
như đang thề trung thành tuyệt đối với tổ quốc xã hội chủ nghĩa:
– Khoan đã anh!
– Cái gì thế?
– Tôi đề nghị thế này: Anh chọn ra một vài người bị nặng nhất mà chích cho mỗi
người một ống nguyên. Chứ chích như thế này sẽ chẳng ai khỏi bệnh cả mà lại
thêm quen thuốc, khó chữa hơn.
Chú y sĩ dừng tay lại suy nghĩ. Bình thường hắn vẫn xem ông bác sĩ tù như sư phụ,
nhưng hôm nay hắn cho rằng ông bác sĩ này sai đường lối, bèn trả lời
– Anh nói thế mà nghe được à? Ai cũng như ai, tất cả đều bình đẳng trong xã hội
mới. Người nào cũng được chích một tí trụ sinh, thế mới công bằng chứ!
Vài người tù ghẻ rời khỏi hàng bỏ đi ra ngoài hội trường. Vừa đi họ vừa cởi
phăng tấm vải quấn ngang bụng, đưa những cặp mông ghẻ lở về đằng sau.
Nguyên Nghĩa
(Trong
tuyển tập truyện ngắn “Chờ chết” [“Waiting for their names being called”], Xuân
Thu xuất bản năm 1989)