Phố núi, mấy ngày
nay mưa tầm tã.
Bà Linh ngồi nhìn
ra ngoài, trời đang mưa, lòng có chút bồn chồn. Quán cà phê giờ này vắng khách.
Mấy nhân viên phục vụ đã về, để chiều trở lại phụ bán giấc tối, chỉ còn lại mỗi
Huệ. Thúy, con gái bà đã đi chợ rồi ghé qua trường đón con về luôn. Trong quán
chỉ còn vài người khách và thằng Tâm bên xóm Chùa trốn học ngồi đó từ sáng đến
giờ dán mắt vào điện thoại di động. Bà Linh vội đứng lên khi nhìn thấy một người
khách lạ mặt bước vào, điệu bộ và cách ăn mặc trông không giống người địa
phương. Bà đến chào khách và trao cho khách bản thực đơn. Chờ đợi khách xem qua
một lúc, bà mới hỏi:
- Cậu uống gì?
Ngần ngừ một
chút, khách mới trả lời.
- Cho một ly cà
phê sữa nóng.
Bà đưa tay nhận lại
bản thực đơn. Nhìn thoáng qua mặt khách, một cái gì đó chợt lóe lên trong tâm
trí bà, rồi tắt ngấm.
Bà Linh gọi Huệ
làm cà phê cho khách, rồi quay ngay về ngồi nơi vị trí cố hữu nhìn ra ngoài đường.
Trời vẫn mưa lất phất, xe cộ qua lại làm nước mưa văng tung tóe.
Ngồi nhâm nhi ly
cà phê, vị khách nhìn quanh trong quán.
Quán không gian khá rộng, trang trí tinh tế hài hòa. Bàn ghế đều bằng gỗ
quý chạm trổ rất mỹ thuật. Trên sân khấu nhỏ đặt một chiếc dương cầm, dàn trống,
một vài loại nhạc cụ khác nhau và các hệ thống âm thanh ánh sáng. Đây đó, những
chậu kiểng được cắt tỉa khéo léo.
Vị khách nhìn về
hướng bà Linh, cất giọng hỏi:
- Nhà thờ Thiên
An, có xa đây không bác?
- Gần thôi, cậu
quẹo phải đi khoảng ba trăm mét, đến ngã ba quẹo trái đi thẳng lên đồi thông là
đến. Khi khách sạn Gia Thanh chưa có, ngồi ở đây vẫn nhìn thấy nhà thờ trên đồi.
Bà Linh biết đây
không phải là khách địa phương nên muốn bắt chuyện qua loa cho đỡ hiu quạnh.
- Chắc cậu nghe đến
tên quán cà phê này nên đến uống cho biết?
- Dạ kiếm trên
Google, thấy nhiều khách du lịch bình luận đây là quán cà phê nhất định phải
ghé qua khi đến với thành phố núi này.
- Quán này có đặc
sản cà phê chồn, ngon lắm! Đáng lẽ cậu nên uống thử cho biết. Nếu cậu còn ở lại
đây đến cuối tuần, đến nghe đêm ca nhạc “Mưa Phố Núi” vào tối thứ bảy. Thời chiến
tranh, đây là một thị xã nhỏ “đi dăm phút đã về chốn cũ”. Cũng có nhiều nhà
thơ, nhà văn, nhạc sĩ đã ngồi uống cà phê tại quán này, rồi viết bài nhắc về
nó, nên nó thành có tiếng.
Bà Linh chuyển đề
tài, hỏi:
- Cậu lên đây là
đi du lịch hay công việc làm ăn?
- Thì cũng có
chút việc, thưa bác.
Vị khách trả lời
cho qua chuyện, rồi quay đầu nhìn ra ngoài đường. Trời bỗng đổ mưa nặng hạt.
Vài khách bộ hành chạy vội vào núp trên vỉa hè. Lúc này bà Linh mới có cơ hội
nhìn kĩ cậu khách. Thật ra cậu không trẻ, cũng ở độ tuổi gần bốn mươi, có lẽ do
cách ăn mặc và nước da trắng trẻo nên nhìn trẻ. Có điều khuôn mặt vị khách làm
bà Linh nhớ tới một chàng trai lính chiến, cũng sóng mũi dọc dừa, đôi môi dày
tình cảm như thế, mà thuở ấy mỗi khi đi học về đều thấy ngồi ở góc quán chờ đợi
Linh. Ký ức xa xưa lại kéo về, bà Linh hồi tưởng lại những tháng ngày truân
chuyên trong đời mình.
Pleiku ngày đó là
phố của dân tứ xứ. Phố lính nên đi đâu cũng thấy lính. Ban ngày trên những con
đường dốc dọc ngang, nhìn quanh lúc nào cũng có thể thấy quân cảnh, binh lính,
hay xe nhà binh GMC/Jeep chạy qua lại. Thỉnh thoảng, mới có một nhóm người Thượng
từ các buôn xếp hàng đi vào phố, vai mang gùi với những thứ như bắp, sắn,
khoai, gà, thịt rừng… để bán. Phố núi đất đỏ, nắng thì bụi đỏ mưa thì bùn lầy,
với những con đường dốc, những hàng thông già, những hàng phượng rực đỏ vào hạ,
những mảng vàng rực rỡ của loài hoa dã quỳ nở rộ khắp các triền đồi vào những
tháng cuối năm. Buổi sáng sương mù bàng bạc, chiều mây giăng bồng bềnh trên đỉnh
núi. Sáu tháng mùa khô bụi đỏ bay ngập trời, phố và con người như được phủ lên
một lớp phấn mỏng màu đỏ nhạt. Để rồi đến những ngày đầu mùa mưa, người và phố
như được tẩy trần bởi những cơn mưa như thác đổ suốt mấy ngày đêm. Mưa xuống
cây cối trở nên xanh tươi. Nhìn xa xa, thung lũng núi đồi một màu xanh mướt.
Gia đình ông Quỳnh
dọn lên sinh sống làm ăn ở đây vào đầu năm 1960, lúc Thùy Linh được 6 tuổi. Ông
là thầu khoán xây dựng. Khi đó thị xã đang trên đà phát triển, nên công việc
làm ăn của ông gặp nhiều thuận lợi. Về sau mở thêm quán cà phê, để mẹ và chị em
Linh đứng bán. Quán đắt khách, nhờ ở vị trí thuận tiện, trang trí thanh nhã và
cách pha cà phê đặc biệt ngon. Thêm vào đó, đông khách là nhờ mấy anh học sinh
và lính trẻ đến ngồi uống cà phê “trồng cây si” chị em Linh. Thùy Linh quen
Nhân năm 17 tuổi, khi đó đang học lớp 11.
Nhân người Nha Trang, một sĩ quan tâm lý chiến trẻ, với dáng dấp nghệ
sĩ, nhất là khi anh ngồi ôm cây đàn ghi-ta hát những bài tình ca. Một bữa tiệc
cuối năm, người anh họ rủ mấy cô nữ sinh bạn Linh đến văn nghệ văn gừng với bạn
bè mình cho vui, một phần muốn khoe các em “má đỏ môi hồng” với các bạn. Trong
nhóm người đến dự có Nhân. Đêm hôm đó, thỉnh thoảng Linh bắt gặp ánh mắt nhìn
trộm của Nhân. Khi qua phần hát cho nhau nghe, Nhân xin hát tặng Linh một bài
hát rất mới, chưa ca sĩ nào hát, bài Niệm Khúc Cuối của Ngô Thụy Miên. Thùy
Linh thích bài này lắm, nhờ Nhân tập cho mình và các bạn. Thế là họ quen nhau,
yêu nhau từ đó.
Khoảng một năm
sau, thì cơ quan gởi Nhân đi tham gia khóa huấn luyện đặc biệt ở Đà Lạt ba
tháng. Sau đó Nhân được điều về Cam Ranh nhận nhiệm vụ mới. Nhân về Pleiku gấp
để lấy đồ đạc, giã từ người yêu và bạn bè.
Đêm tiệc tiễn biệt,
Nhân và bạn bè ai nấy đều ngà ngà say. Sau khi bạn bè về hết, Linh ngồi lại để
nói lời cuối với người yêu, vì sáng mai anh đi sớm. Trời lại đổ mưa, Linh ở nán
lại thêm chút nữa, hy vọng khi Nhân tỉnh rượu, dứt mưa sẽ đưa Linh về nhà.
Trong cái lạnh se se Nhân ôm Linh vào lòng. Linh nghe tiếng thì thầm như tiếng
hát ngày nào Nhân hát tặng mình trong đêm gặp lần đầu:
“Cho tôi xin
em như gối mộng
Cho tôi ôm em
vào lòng
Xin cho một lần,
cho đêm mặn nồng
Yêu thương vợ
chồng…”
(ca từ bài Niệm
Khúc Cuối, Ngô Thụy Miên)
Linh cảm nhận tiếng
mưa lúc khoan thai lúc dồn dập gõ nhịp trên mái tôn, rồi tiếng sấm sét, tiếng
gió gào thét rít qua khe cửa, cho đến khi căn nhà và mặt đất rung chuyển đưa
Linh vào cái tận cùng. Mưa và gió núi quyện hai linh hồn họ vào nhau thành một,
tạo nên một sinh linh - một bí ẩn cuộc đời.
Linh có bầu.
Khi biết mình có
bầu, Linh dấu gia đình. Sau ba tháng Linh viện cớ đi thăm bà chị lớn, lấy chồng
ở Phú Bổn, rồi ở lại đó sanh con. Sau khi sanh ba tháng, Linh đem con về lại
Pleiku. Khi đó tình hình chiến sự tại vùng Tây Nguyên ngày càng sôi động, đó là
những ngày đầu của mùa hè đỏ lửa, cả thị xã xôn xao chuẩn bị di tản. Trong lúc
hoang mang, lòng trở nên u tối, Linh quấn con trong tấm chăn, đem con đặt nơi
hang đá Bê-lem phía trước nhà thờ Thiên An, với hy vọng có ai đó đi lễ nhặt về
nuôi.
Sau năm 1975, thị
xã Pleiku trở nên hoang tàn, nhiều gia đình di tản không bao giờ trở lại, mọi
công việc làm ăn gần như ngưng lại. Phố xá trở nên buồn thiu, mất hết sức sống,
giống như một người đang ngã bệnh. Gia đình Linh phải đóng cửa quán cà phê vì
quá ế ẩm, kinh tế gia đình lâm vào cảnh khó khăn. Cũng như mọi gia đình khác,
ba mẹ Linh sợ cơn đói kém sẽ xảy đến nên đi tìm một mảnh đất ở vùng xa để làm rẫy,
trồng lúa, khoai và các loại hoa quả. Linh chọn cách lấy chồng một cách vội vã,
để ở lại thị xã lo cho thằng em út tiếp tục đi học. Linh lấy Chương, người theo
đuổi mình suốt cả thời trung học. Chương khi đang học tại trường đại học bách
khoa Phú Thọ ở Sài gòn, có nghe lời đồn Linh từng mang bầu, phá thai, nhưng
không tin mấy. Sau 75, Chương bỏ học về lại Pleiku, gặp lại Linh. Tình yêu cũ
trỗi dậy cùng với sự cuốn hút của “gái một con trông mòn con mắt”, Chương nằng
nặc đòi mẹ cưới Linh cho được. Ba Chương theo đảng Dân Chủ, sợ phải đi học tập
nên sau 75 ông trốn vào Sài gòn. Từ đó ông bặt tăm hơi, cho đến nay gia đình
cũng không biết rõ ông đang ở đâu, sống hay chết. Chỉ nghe bạn bè ông đồn đoán
rằng ông cặp với một bà nào đó, rồi cùng đi vượt biên. Khi xưa làm ăn ra tiền,
có tiền dư mẹ Chương thay vì bỏ tiền vào ngân hàng hay mua công khố phiếu như
nhiều người, đem mua vàng hết. Nhờ thế mà qua những đợt đổi tiền, đánh tư sản mại
bản, bà Chương vẫn còn của cải ngầm để chi dụng cho gia đình trong những ngày
tháng khó khăn. Đám hỏi Linh tổ chức một cách đơn giản, dự tính ba tháng sau sẽ
làm đám cưới. Rồi chuyện buồn lại xảy đến. Phường gọi Chương đi lao động xã hội
chủ nghĩa phát rẫy 7 ngày. Đến ngày thứ ba Chương dẫm trúng mìn phải đưa đi bệnh
viện cấp cứu, bị cưa đi một bàn chân. Ngày cưới, Linh dìu chồng khập khiễng bên
chiếc nạng gỗ chưa quen, đi quanh nhà mời rượu gia đình hai họ và bạn bè. Về
sau Chương bị ung thư gan mà qua đời, ở tuổi vừa ba mươi chín. Linh có một đứa
con gái với Chương, con Thuý chủ nhân tiệm cà phê này. Thúy lấy chồng đại gia,
con trai lớn của một cán bộ tập kết gốc người Bình Định.
Mối tình đầu, mối
tình không trọn vẹn không dễ mà quên. Linh vẫn luôn ước ao một ngày nào đó gặp
lại Nhân, dầu chỉ một lần. Linh xúi vợ chồng con Thúy mua lại cơ sở kinh doanh
này, mở quán cà phê và lấy lại tên quán như năm xưa, với ước mơ thầm kín rằng một
ngày nào đó Nhân sẽ tìm về chốn cũ.
Nhân không bao giờ
trở lại. Nhân bị bắt vào tối ngày 16 Tháng Tư, 1975 tại Phan Rang, ngay sau đó
bị đưa ra Bắc cùng với một số tướng tá. Thời gian bị giam cầm ở trại cải tạo,
Nhân hoàn toàn không hề nhận được tin từ gia đình, bởi cả gia đình anh đã di tản
ra khỏi nước, ngay trong ngày 30 tháng 4, sau định cư tại Hoa kỳ. Đêm 29 tết
năm Đinh Tỵ (1977), lợi dụng lúc cán bộ trại bận rộn ăn mừng tất niên nên lơ
là, Nhân trốn trại giam. Ba ngày sau vượt thoát đến sông Sê Pôn sát biên giới
Lào thì chạm trán với bộ đội biên phòng. Nhân trầm mình trốn dưới nước, ngụp lặn
bơi qua bên kia sông. Khi bơi gần qua bờ bên Lào, bộ đội biên phòng phát giác bắn
theo. Nhân bị trúng đạn ở bắp vế, cố gắng bơi vào bờ nhưng kiệt sức vì vết
thương ra máu nhiều quá, nên phải xuôi tay nổi chìm trôi theo dòng nước. Nhân
ngạt nước mà chết, xác tấp vào bờ sông bên đất Lào. Đó là chiều ngày mồng ba Tết,
năm Mậu Ngọ (1978). Những ngày tháng trong tù Nhân vẫn luôn thương nhớ, tơ tưởng
về Thùy Linh. Đã một lần Nhân nhờ người chuyển thư về cho Linh, không may lá
thư vào tay ba Linh, ông xé bỏ nó đi, không cho con gái biết. Không nhận được
thư hồi âm, mặc cảm về hoàn cảnh hiện tại của mình, Nhân không còn tìm cách
liên lạc với Linh nữa.
Bà Linh như tỉnh
cơn mơ, khi nghe vị khách hỏi:
- Ở đây, mưa dầm
dề thế này hả bác?
Bà Linh chưa kịp
trả lời thì thằng Tâm xía vào:
- Vào mùa mưa, có
khi mưa suốt ba ngày đêm là thường đó chú. Tây Nguyên thuộc khí hậu nhiệt
đới gió mùa với sáu tháng mùa khô, sáu tháng mùa mưa.
Vị khách trở nên
trầm tư, hướng mắt nhìn ra những cây thông già ướt sũng bên kia đường.
Hôm Quân đến
Pleiku, bầu trời nặng nề u ám một màu đen kịt, vừa xuống khỏi máy bay thì mưa xối
xả như trút nước. Từ máy bay đi bộ vào ga phi trường, gió thổi lồng lộng quất
nước mưa vào mặt rát bỏng. Trên đường về khách sạn, ngồi trên xe nhìn ra ngoài
thấy nước mưa lênh láng khắp mặt đường.
Những gì còn lại
trong ký ức, bắt đầu với Quân đều là ở bên Mỹ. Quân đến Mỹ năm 1975 với gia
đình, gồm ba mẹ, hai anh trai và chị kế. Khi đó Quân mới ba tuổi. Lớn lên, sống
bên ba mẹ, anh chị em trong gia đình, chưa bao giờ Quân nghĩ mình không phải là
con ruột trong gia đình này. Năm cuối của trung học có lần Quân hơi ngờ ngợ,
sao giữa mình và chị Huyền cách nhau đến 16 tuổi, khi đó mẹ đã lớn tuổi sao
sanh thêm mình làm chi cho cực. Có một hôm Quân hỏi mẹ như thế, đang lúc chị
Huyền ngồi đó. Mẹ chưa kịp trả lời thì chị Huyền xen vào:
- Thì lúc đó tao
muốn em, nên nài nỉ mẹ sanh thêm, nên mới có mi.
Nói đến đó chị cười
ha hả, rồi hấp tấp đi vào bếp.
Mẹ Quân cũng mỉm
cười, thêm vào:
- Thì đúng rồi.
Mày sanh muộn, được cưng mà bây giờ trách tao à!
Quân lớn lên
trong sự yêu thương của ba mẹ và anh chị em trong gia đình, nhất là chị Huyền
lo cho mọi thứ. Chị lấy chồng người Mỹ, không có con, nên có điều kiện giúp đỡ
cho việc học hành của Quân suốt trong thời trung học và đại học. Đời sống cứ thế
mà trôi qua, Quân tốt nghiệp đại học, ra trường đi làm, lập gia đình và có hai
con. Nay ba mẹ đã qua đời, hai anh lớn đã có cháu nội ngoại, chị Huyền về hưu sớm
quanh năm đi du lịch đây đó với chồng. Anh chị em sống hòa thuận, thỉnh thoảng
có những buổi họp mặt đại gia đình rất vui vẻ, đầm ấm. Quân không nghi ngờ gì về
gia thế của mình.
Một hôm, khi đi
làm về thấy vợ nhìn mình với ánh mắt khác lạ, nhưng Quân cứ phớt lờ xem thử
sao. Đến tối vào giường vợ nói:
- Nghe người ta
nói, anh không phải con ruột ba mẹ Chấn.
- Tào lao, thôi
ngủ đi. Tưởng gì!
- Thật đó anh,
con Thảo nói ba mẹ nó nói thế. Khi ba mẹ Thảo ở Việt Nam có biết ông bà cụ nhà
mình.
Khi đó Quân vì buồn
ngủ quá và trong đầu cũng không tưởng tượng ra làm sao có thể như thế, nên nói
khỏa lấp cho qua chuyện:
- Thì con nuôi có
sao đâu, cũng là con mà.
Ngày hôm sau,
trên đường lái xe đến sở làm, trong đầu Quân lúc nào cũng suy nghĩ đến vấn đề
này. Rồi tự lý giải, nếu mẹ sinh ra mình ở tuổi 46, vẫn là có thể dầu là hiếm.
Muốn quên đi chuyện
này, nhưng cô vợ lại không muốn cho Quân quên. Cô tò mò muốn biết sự thật, xúi
anh đi thử DNA, nhưng Quân làm lơ. Rồi đến một ngày, Quân được vợ sắp xếp đi gặp
ba mẹ Thảo, để hỏi cho ra chuyện. Ba Thảo kể lại những gì ông biết và khuyên
Nhân nên hỏi trực tiếp anh chị mình.
Một phần ngại
không biết phải nêu vấn đề như thế nào với anh chị, nấn ná hoài Quân không dám
hỏi. Một hôm, nhân dịp chị Huyền ghé nhà chơi, trong lúc vui vẻ Quân ngứa miệng
hỏi chị:
- Chị không phải
chị ruột của em, sao mà thương và lo cho em đến thế?
Quân cứ tưởng chị
sẽ cười ha hả, rồi đứng lên nói đại loại một câu như “Nếu mi nói như thế thì
tao xin phép đi về ngay, từ nay không chị chị em em gì với mi!” Nào ngờ, khuôn
mặt chị trầm hẳn xuống. Chị im lặng một lúc, rồi cúi đầu nói vội:
- Vậy em biết hết
rồi à!
Quân cảm nhận ra
một sự thật phũ phàng quá bất ngờ, thét lớn:
- Thế xưa nay chị
lừa em à!
Vợ Quân nghe chồng
lớn tiếng thì chạy từ dưới bếp lên, hỏi vội:
- Gì thế anh?
Chị Huyền đứng bật
dậy, bước nhanh ra hướng cửa, nói vọng lại:
- Sẽ nói với hai
em chuyện này sau.
Chuyện gì đến,
thì nó sẽ đến.
Ở tuổi gần 40,
Quân biết ra một sự thật, mà không biết nó có cần thiết cho cuộc đời còn lại của
mình hay không. Nhiều lúc Quân ước gì mình không biết sự thật này thì có lẽ lại
tốt hơn. Quân nhớ lúc nhỏ, mọi người trong nhà đều khen Quân có nụ cười rất giống
mẹ và vầng trán giống ba y hệt. Chị Huyền luôn chăm sóc Quân như một người mẹ
thứ hai. Chị lo cho Quân từ cái ăn cái mặc cho đến việc học hành và dạy tiếng
Việt cho nữa.
Sau này, Huyền mới
giải bày sự việc cho vợ chồng Quân rõ. Huyền kể lại: “Khi ba mẹ còn sống, ba mẹ
và anh chị có bàn, nhưng phân vân là có nên nói sự thật cho em biết hay không.
Xưa kia, ba mẹ dò la tìm kiếm ba mẹ ruột cho em, nhưng qua nhiều năm, ngoài cái
tên trên sợi dây chuyền, không biết được gì thêm. Nếu nói cho em biết, mà không
tìm ra được ba mẹ ruột cho em đôi khi lại làm em buồn khổ hơn, nên lại thôi.
Mùa hè đỏ lửa năm đó trên đường di tản. Trên xe, ở băng ghế cuối có một Sơ đang
bồng một em bé. Đến lúc xe dừng lại cho hành khách đi vệ sinh, chị đến nói chuyện
với Sơ, được biết Sơ di tản về Nha Trang với dự định sẽ gởi em vào một cô nhi
viện ở đó. Chị thấy em dễ thương, nên xin Sơ cho ẵm em và chọc ghẹo cho em cười.
Sơ nói vui, thích quá thì đem về nuôi luôn đi. Lúc lên xe chị xin Sơ bồng em một
lúc, ngồi ở ghế trước xe với ba mẹ. Trên khoảng đường gần đến Cheo Reo thì xe bị
mìn nổ ở phía bánh xe sau, một số người chết trong đó có Sơ, và nhiều người bị
thương. Ba bị thương nhẹ ở bàn chân, chị và mẹ bị trầy trụa vài chỗ, có điều
như một phép lạ em thì không sao cả. Vài tiếng đồng hồ sau, máy bay trực thăng
cứu thương của quân đội đến bốc nạn nhân đưa về Buôn Mê Thuột, chị đem em theo
cùng với gia đình. Nghĩ là duyên số, gia đình giữ em lại nuôi như một người con
ruột. Gia đình mình di tản về Nha Trang, ở lại đó cho đến đầu tháng ba năm
1975, thì cả gia đình chạy vào Sài gòn, rồi di tản qua Mỹ.”
Đời lắm cái trớ
trêu. Ba Nhân và ông Chấn là người đồng hương Nha Trang và là đồng môn, cùng xuất
thân từ Học Viện Quốc Gia Hành Chánh. Qua đến Mỹ, ở cùng tiểu bang California
nên hai ông có cơ hội gặp lại và qua lại với nhau. Một hôm, ông bà Chấn dẫn
Quân đi chợ đêm ở thương xá Phước Lộc Thọ tình cờ gặp ba mẹ Nhân. Ông Chấn hỏi
thăm:
- Có tin tức mới
gì về cậu Nhân hay không, anh chị?
- Vẫn biệt tăm biệt
tích. Có truy ra được trại cải tạo, nơi Nhân ở lần cuối, nhưng khi đến tận nơi
hỏi thì họ bảo, từ ngày lập trại đến nay không có người nào tên họ như thế học
tập cải tạo ở đây.
Bà Chấn bảo Quân
chào hai bác, Quân lễ phép cúi đầu chào.
- Con chào hai
bác ạ.
(Nhân ghé sát
vào tai Quân nói khẽ: “Con chào ông bà chứ, đó là ông bà nội con đó.” Tiếc rằng
người trần gian không nghe được tiếng nói của người ở thế giới bên kia.)
Ba Nhân khen
Quân:
- Cháu ngoan quá.
Kỳ lạ lắm, mỗi lần
gặp mặt Quân, ba mẹ Nhân lại nhớ đến cậu con trai mất tích. Ông bà thấy nó giống
Nhân, con trai mình lúc nhỏ, nhưng không dám nói ra. Có lần bà nói với ông: “Thằng Nhân mà lập gia đình sớm, thì mình cũng có
cháu nội tuổi Quân rồi. Nhiều lúc tôi nghĩ quẫn, có khi nó là con rơi của Nhân,
mà ông bà Chấn xin về nuôi.”
Lần này, Quân về
Việt Nam đến thành phố núi này không ngoài mục đích tìm kiếm ba mẹ ruột mình.
Hai tuần rồi liên hệ với các cơ quan chức trách địa phương để tìm sự giúp đỡ, họ
chỉ đi từ chỗ này qua chỗ kia, cuối cùng cũng không tìm ra dấu tích gì. Khi đến
cơ quan quản lý cơ sở dữ liệu hộ tịch, thì họ tìm ra hai bé trai có giấy khai
sinh trùng tên và năm sanh với Quân, nhưng khi dựa theo địa chỉ tìm đến thăm hỏi,
không ai trong số đó bị gia đình bỏ rơi. Nhớ là chị Huyền có nói đến một vị nữ
tu chăm sóc mình lúc bé, nên Quân dự định, trưa nay ghé qua nhà thờ hỏi xem, bởi
ngày mai phải bay về Sài gòn rồi.
Quân đứng lên, đến
quầy để trả tiền. Lúc này bà Linh mới có cơ hội để nhìn cận mặt khách, lòng bỗng
nhủ thầm “Sao giống quá thế này!”. Quân bật dù, bước vội ra khỏi quán đi về hướng
nhà thờ. Bà Linh có linh cảm, ngần ngừ một lúc, rồi chạy vội ra mái hiên gọi với
theo:
- Quân, Quân…
Tiếng gọi như chết
cứng trong cổ họng, giọng khàn đục quyện vào trong tiếng gió mưa. Dầu cảm nhận
dường như có ai đó gọi tên mình, nhưng Quân thầm nghĩ có lẽ đó là tiếng vọng của
gió rừng mưa núi, hay từ trong tâm tưởng mình mà thôi.
Quân bước nhanh
hơn để kịp tránh cơn mưa lớn sắp đổ ào xuống.
