Dòng sông! Nó hiện hữu trong thiên nhiên từ khi khai thiên lập địa như muôn thứ đã có trên quả đất này - tự nó ngàn đời không thay đổi - gom nước từ đầu nguồn rồi khơi dòng chảy ra biển cả. Con người đặt cho nó cái tên là Dòng Sông. Khi thêm vài chữ kèm theo với dòng sông như: dòng sông êm đềm, thơ mộng hay là dòng sông oan nghiệt, ô nhục… Các thi sĩ, văn sĩ, nhạc sĩ, họa sĩ dựa vào đó mà “thổi vào” dòng sông “cái linh hồn” và làm ra những tác phẩm rung động lòng người.
Nhưng có một chữ đi kèm với dòng sông - chữ “định mệnh”- đã
biến dòng sông thành chỗ riêng tư. Dòng Sông định mệnh chính nó đã ấp ủ và nuôi
dưỡng con người hay một cơ duyên nào đó đưa đẩy con người đến với nó. “Dòng
sông định mệnh”- nơi con người đã từng gắn bó với nó và cho họ những cảm xúc dạt
dào. Và chính những con người đó mới nói lên hay tạo được tác phẩm tuyệt vời. Các
văn nhân, thi sĩ khó lòng nói thay hay chế tác hư cấu.
Trong đời, ai cũng có những kỷ niệm về một dòng sông. Có những
dòng sông lưu trong ký ức, nhưng rất ít được gọi là “dòng sông định mệnh”. Với
tôi, có ba dòng sông lưu trong ký ức và hai dòng sông tôi đã sống chết với nó
do định mệnh an bài. Tôi gọi đó là “dòng sông định mệnh”.
Khi thầy, cô giáo dạy tôi tập đọc và học thuộc lòng những
bài văn của các nhà văn Thanh Tịnh, Nguyễn Tuân miêu tả dòng sông Hương ở Huế -
êm đềm, thơ mộng - dòng nước trong veo, phẳng lặng như tờ… Hỉnh ành đó đã đi
vào ký ức của tôi từ thuở đầu đời.
Khi lên Trung học, học sinh phải học hai ngoại ngữ: Pháp văn
và Anh văn. Sách giáo khoa thời bấy giờ có Cours de Langues (gồm 4 quyển) cho
Pháp văn; English For Today (gồm 4 quyển) cho Anh văn. Nhờ mấy quyển sách này
mà tôi biết dòng sông Seine chảy qua thành phố Paris nước Pháp và dòng sông
Potomac ôm ấp thủ đô Washington D.C. của nước Mỹ. Thời đó, nhìn trên bản đồ, thấy
hai dòng sông này cách xa vạn dặm, tôi như đứa trẻ nhìn trăng, thấy chú Cuội ngồi
dưới gốc cây đa và không nghĩ có một ngày mình sẽ đặt chân đến những nơi
này. Nhưng hai dòng sông đó đã đi vào ký ức, vì tôi cảm nhận cái nên thơ
và lãng mạn của nó qua các bài văn. Mấy mươi năm sau, không ngờ, có một dòng
sông đã trở thành “Dòng Sông Định Mệnh” của đời tôi. Đó là dòng sông
Potomac. Còn một dòng sông đã đi vào ký ức, khi tôi có ý thức về chính trị.
Đó là dòng sông Bến Hải - một dòng sông hiền hòa bỗng trở thành “dòng sông oan
nghiệt” - nó chia đôi đất nước tôi và lịch sử Việt Nam ghi thêm một trang ô nhục
- khiến tôi ngậm ngùi!
Đã nói về ba dòng sông đã đi vào ký ức. Bây giờ, tôi kể chuyện
hai dòng sông định mệnh: Dòng sông Đà Rằng ở quê tôi và dòng sông Potomac trên
đất khách. Không biết tự bao giờ, khi tôi được sinh ra đời đã có con sông
Đà Rằng. Dân quê ở thượng nguồn gọi nó là con sông Ba, ở hạ lưu người ta gọi là
sông Đà Rằng và sách địa lý cũng ghi như thế.
Tôi gắn bó với dòng sông Đà Rằng trên hai mươi năm và có “một
trời” kỷ niệm… Kể sao cho hết cái thích thú của những lần tắm sông cùng lũ nhóc
trong làng vào những buổi trưa hè… Mùa hè nước cạn, trong veo… phơi ra bờ cát mịn.
Lũ trẻ chúng tôi tha hồ bơi lội, có lúc ra giữa lòng sông. Khi nắng lên cao, lũ
trẻ men theo bờ cát vào soi (1) nhổ những cây rau đắng mọc dại ven bờ về cho mẹ
phơi khô để nấu chè rau đắng - hương vị nồi chè rau đắng rất đặc biệt - chỉ quê
tôi mới có. Khi nào có dịp ghé quê tôi, tôi sẽ mời bạn thưởng thức chén chè rau
đắng.
Đó là chuyện hiền hòa, dễ thương của dòng sông Đà Rằng vào
mùa hạ. Nhưng sang mùa đông nó “cuồng nộ” đến phát sợ - nước đục ngầu từ nguồn
đổ về cuồn cuộn, chảy xiết… cuốn trôi mọi thứ ven bờ. Nhưng sau cơn “cuồng nộ”,
dòng sông phủ lên những cánh đồng đất mịn phù sa mầu mỡ, giúp cho dân làng có một
vụ mùa bội thu năm tới.
Năm 1975, lịch sử sang trang, tưởng rằng: tôi sẽ được trở về
với dòng sông cũ, bến đò xưa… Tôi sẽ đứng trên chiếc cầu dài nhất miền Trung,
ngắm dòng sông quen thuộc, trông những cồn cát ven sông phủ lên màu xanh của
soi dưa, ruộng mía… Xa bờ là xóm làng dân cư đông đúc và tưởng rằng tôi sẽ được
sống với hình ảnh êm đềm nơi quê hương yêu dấu. Nhưng than ôi! Tôi đã bị
lưu đày nơi rừng sâu, núi thẳm… rồi biệt xứ ở vùng Thượng du rồi Trung du Bắc
Việt gần bảy năm trường. Ngày được thả về, đời tôi coi như “tàn trong ngõ hẹp…” Đời
chỉ “tàn” chứ chưa “tan” trong ngõ hẹp! Nên giờ đây tôi còn có dịp viết những
dòng tâm cảm gởi quí bạn đọc chơi.
Năm 1986, gia đình tôi được nguời em vợ bảo lãnh sang
Canada, sau đó tôi xin qua Mỹ - định cư ở Virginia - tính đến nay đã hơn bốn
mươi năm.
Trước khi rời Việt Nam đi Canada, tôi về quê thăm mẹ tôi, và
ra nhìn con sông Đà lần cuối. Tôi có già đi, nhưng dòng sông vẫn thế - nó không
già đi hay trẻ lại - nước vẫn lững lờ trôi… Không biết nó có buồn khi tôi xa
nó? Nhưng lòng tôi cảm thấy ngậm ngùi! Ai cũng biết lý do tại sao, sau năm
1975, nhiều người Miền Nam bất chấp hiểm nguy, liều thân sống chết: vượt biên,
vượt biển hay tìm mọi cách thoát ra nước ngoài, mặc dù trong lòng vẫn đau đáu với
quê hương.
Từ ngày được định cư ở Virginia, ngoài việc tìm sinh kế nuôi
sống bản thân và gia đình, tôi thường tham gia sinh hoạt cộng đồng để tìm nguồn
an ủi và hơi ấm đồng hương. Khi cuộc sống căng thẳng, tôi tìm thư giãn ở những
nơi có cảnh đẹp sông, hồ… để chụp ảnh. Và tôi đã bắt gặp dòng sông Potomac.
Khi mới đến Virginia còn nhiều bỡ ngỡ, một người bạn thân đã
định cư ở đây từ năm 1975, “đãi” gia đình tôi một chuyến “du ngoạn” trên sông
Potomac bằng du thuyền. Du thuyền Spirit khởi hành từ National Harbor (D.C.)
ngược dòng sông Potomac đến ngọn đồi thoai thoải Mount Vernon, một khu trang trại
rộng lớn, có ngôi nhà trắng, mái ngói đỏ nổi bật ở lưng đồi nhìn xuống dòng
sông thơ mộng… hiện tại đã trở thành di tích lịch sử, nhưng trước đây là nhà ở
của George Washington, vị Tổng Thống đầu tiên của Hoa Kỳ đã được lịch sử lưu
danh là “Cha già dân tộc”.
Du thuyền rời bến khoảng nửa giờ, tôi ngây ngất với cảnh đẹp
hai bên bờ sông - những cây hoa anh đào khoe sắc, in bóng lung linh trên dòng
nước trong xanh… xa xa là những ngôi nhà cổ kính núp dưới bóng cây cổ thụ cho
ta một cái nhìn thoáng đãng và không gian tươi mát. Quay nhìn phía sau là cây cầu
vòm đá cổ kính, xa mờ là những tòa kiến trúc đầy kiêu hãnh như Đài tưởng niệm
Washington (Tháp Bút Chì), Tòa nhà Quốc Hội... Ôi! Chưa đầy ba trăm năm lập
quốc mà Hoa Kỳ đã tạo được những kỳ tích phi thường.
Khi đang say mê nhìn cảnh đẹp ven sông, bỗng trong đầu tôi
thoáng qua ý nghĩ về lai lịch của dòng sông Potomac. Nó là một chứng nhân lịch
sử - từng in dấu chân của những Tổ Phụ lập quốc Hoa Kỳ. Nước của dòng sông này
đã từng hòa với máu của những anh hùng trong cuộc chiến giành độc lập từ đế quốc
Anh để đất nước Hoa Kỳ có ngày Độc lập: July 4, 1776. Và nó cũng từng là lằn
ranh sinh tử cuả những người lính Bắc- Nam trong cuộc nội chiến (1861-
1865). Thế nhưng giờ đây, dòng sông Potomac hiền hòa ôm ấp mọi cư dân của
đất nước, không phân biệt màu da hay chủng tộc. Nó trở thành biểu tượng của sự
hòa hợp và là một phần linh hồn tổ quốc Hiệp Chúng Quốc Hoa Kỳ.
Không phải mình tôi khám phá ra cái kỳ diệu của dòng sông
Potomac mà còn có những người đồng cảm. Hãy nghe thi sĩ Phạm Cao Hoàng làm thơ:
Và đọc một vài đoạn trong bài thơ “Khi qua sông Potomac” của
Nguyễn An Bình:
Đấy, dòng sông Potomac đầy tình tự và nên thơ… Nếu bạn ở
phương xa, có dịp đến thăm Vùng Hoa Thịnh Đốn (thường được hiểu bao gồm: Thủ đô
Washington D.C. và hai Tiểu bang Maryland và Virginia) chớ bỏ qua một chuyến du
thuyền trên sông Potomac. Bạn cũng có thể ngắm cảnh đẹp dòng sông từ các
bãi “đậu xe vọng cảnh” (outlook) dọc bên đường George Washington Memorial
Parkway - một con đường đẹp nhất ở Vùng Thủ đô Hoa Thịnh Đốn - bắt đầu từ
Beltway I- 495, exit 43 chạy đến Mount Vernon, nơi có ngôi nhà của Tổng Thống
George Washington.
Vào mùa xuân khoảng đầu tháng Tư, hoa anh đào nở rộ - khoe sắc
hồng khắp lối; vào cuối mùa thu lá vàng óng ả suốt dọc con đường. Lái xe
trên con đường này, bạn sẽ cảm thấy như mình đang lạc vào chốn thiên thai.
Không là thi sĩ, bạn cũng có thể làm vài câu thơ…
Nếu bạn thích bộ môn nhiếp ảnh, hãy chọn bên này bờ sông
Potomac, gần cầu Key làm nơi đặt máy - lấy dòng sông làm tiền cảnh, ống kính
thu hình hướng về: cầu Key, lăng Tổng Thống Abraham Lincoln, xa hơn là chóp đài
tưởng niệm Washington (Tháp bút chì). Thế là bạn sẽ có tấm hình ghi lại được
1/3 phong cảnh biểu tượng cho Thủ đô Hoa Thịnh Đốn. Nếu bạn đến vào dịp Lễ Độc
Lập July 4, chớ quên ra bờ sông chờ chụp cảnh bắn pháo bông. Ôi! Từng chùm pháo
hoa phản chiếu trên mặt sông… Bạn sẽ có tấm ảnh nghệ thuật chụp phong cảnh tuyệt
vời.
Tôi vừa viết mấy dòng chấm phá cảnh đẹp của dòng sông
Potomac. Bây giờ xin nói thêm những điều kỳ diệu ven sông. Chuyện hình
thành và phát triển cộng đồng người Việt vùng Hoa Thịnh Đốn đã được nhà văn
Nguyễn Minh Nữu viết khá chi tiết qua bài"Làm báo ở Washington, D.C."
được phổ biến khá rộng rãi trên mạng. Ở đây, tôi chỉ thêm vào cái tình người
và sự đóng góp tài năng của cư dân nơi này đã làm “vẻ vang dân tộc Việt”.
Mặc dù dân số đông hàng thứ ba sau California và Texas - khoảng
trên một trăm ngàn người - nhưng không thiếu “anh hào - tao nhân - mặc khách”
đã được vinh danh như: khoa học gia Dương Nguyệt Ánh, chính trị gia Hùng Cao;
doanh nhân thành đạt chắc có nhiều, nhưng còn ẩn danh - “giả dạng thường dân”.
Chỉ có triệu phú Lê Thiệp - chủ tiệm phở 75 lộ diện rõ ràng. Còn văn nhân, thi
sĩ thì quá nhiều kể ra không xuể.
Đặc biệt, mới đây - ngày 25 tháng Tư năm 2025, Đại học
George Mason ở VA, đã đặt tên hai người gốc Việt cho trường dạy Kỹ Thuật Điện
Toán. Đó là vợ chồng ông bà Long Nguyễn và Kimmy Dương. Hai ông bà này đã tài
trợ hai chục triệu đô la cho Đại học George Mason.
Tình người ở đây ôn hòa, đằm thắm… ít có phe đảng chống đối
nhau ra mặt như ở Cali. Tệ nạn xã hội có xảy ra nhưng không nhiều như các cộng
đồng sắc dân khác. Việc học hành và thành đạt của con em người Việt ở đây đạt tỷ
lệ khá cao. Trường Đại học rất nhiều nhưng con em người Việt thường chọn các
trường: George Mason University, University of Maryland, Howard University,
Virginia Tech, Marymount Unversity, Johns Hopkins University, Georgetown
University, George Washington University…
Đặc biệt, tôi không thấy có sự kỳ thị chủng tộc trong học đường.
Đó là điều tôi an tâm và vui sống ở vùng Thủ đô Hoa Thịnh Đốn suốt bốn mươi năm
nay.
Bốn mươi năm được sống trong bình an, tự do và hạnh phúc,
nhìn thấy tương lai con cháu rộng mở. Đó là ân huệ của cuộc đời.
Nhưng tôi không thể quên cội nguồn dân tộc. Tôi luôn ray rứt
nghĩ về thân phận con người và vận nước nổi trôi. Nếu như không có ngày
30.4.1975 oan nghiệt, chắc chắn tôi đã không có mặt nơi đây, tôi đã sống với
quê hương yêu dấu, với truyền thống tốt đẹp và hào hùng của dân tộc Việt Nam.
Nếu như ngày ấy, những người lãnh đạo guồng máy chính trị ở
Việt Nam sáng suốt và có tấm lòng nhân đạo thì sẽ không có cảnh gần năm trăm
ngàn người chết trên biển cả, trong rừng sâu trên đường vượt biên, vượt biển -
tìm sự sống trong cái chết! Và cũng không có trên ba triệu người Việt lìa bỏ
quê hương, sống lưu lạc khắp năm châu, trong đó có tôi.
Vị Tư lệnh miền Bắc thắng trận đã ra lệnh nghiêm cấm các sĩ
quan và binh sĩ trực thuộc không được vô lễ với vị tướng Tư lệnh miền Nam bại
trận. Và khi hay tin miền Nam đầu hàng, quân sĩ miền Bắc định bắn đại bác chào
mừng. Tướng Grant ra lệnh ngưng ngay và huấn thị: “Chiến tranh đã kết thúc, giờ
đây họ là đồng bào của chúng ta, chúng ta không nên reo mừng trên nỗi đau khổ của
họ. Hai bên không còn là kẻ thù.”
Khi đắc cử tổng thồng thứ 18 của Hoa Kỳ, tướng Grant tâm sự:
“Lúc ấy, tôi rất ngại ngùng và hổ thẹn khi nói đến chữ đầu hàng với tướng Lee.”
Câu chuyện được kể tiếp: Khi tướng Grant ngại ngùng mở lời thì tướng Lee hối
thúc. Tướng Grant lấy bút viết các điều thỏa ước: “Quân lính miền Nam phải giải
giới, tước bỏ khí giới và quân dụng; không bị coi là phản quốc và được trở về
nguyên quán sinh sống như ngưòi dân bình thường.”
Tướng Grant trao cho tướng Lee xem điều thỏa ước. Mặt tướng
Lee tươi hẳn lên và phát biểu: “Như vậy là tốt cho mọi người, nhưng thêm hai
yêu cầu: Cho phép binh lính miền Nam mang lừa, ngựa về để sử dụng trong nông trại
vì đây là tài sản riêng của họ đã mang theo khi gia nhập quân đội và xin cung cấp
lương thực cho hơn một ngàn tù binh miền Bắc tôi đang giam giữ và các binh sĩ của
tôi cũng đang đói.” Tướng Grant đồng ý ngay và ra lệnh xuất 25 ngàn khẩu
phần ăn. Tướng Grant hỏi: “Như vậy đủ chưa?” Tướng Lee trả lời: “Thưa Đại tướng,
như thế là quá đủ.” Nói xong tướng Lee đứng dậy bắt tay tướng Grant, chào
mọi người rồi bước ra khỏi phòng họp. Bên ngoài các sĩ quan, binh sĩ miền Bắc đứng
nghiêm đưa tay chào kính cẩn.
Sau này, khi nói đến cuộc nội chiến Hoa Kỳ và bản thỏa ước
chấm dứt chiến tranh người ta thường bảo: “Văn bản đầu hàng là một thỏa hiệp của
những người quân tử - The Gentlement’s Agreement.” Đây là niềm hãnh diện
cho con dân Hoa Kỳ mỗi khi nhắc nhớ đến cách hành xử của cha ông họ trong cuộc
nội chiến và là bài học cho hậu thế cách làm người văn minh, quân tử.
Thêm một tấm gương của người quân tử - Thống tướng Douglas
MacArthur của Hoa Kỳ. Sau khi Nhật đầu hàng Đồng Minh, ông được bổ nhiệm làm Tư
lệnh tối cao của lực lượng Đồng minh (SCAP) (3) và trở thành người có quyền lực
cao nhất tại Nhật lúc bấy giờ. Với tinh thần thượng võ, MacAthur đã cho binh sĩ
các cấp của Nhật Bản về với gia đình - không bị tù tội. Nhật Hoàng Hirohito
cũng được miễn tội và thường xuyên được trao đổi ý kiến. Đồng thời ông thúc đẩy
Hoa Kỳ cứu đói cho dân Nhật. Douglas MacArthur được người Nhật ghi ơn. Khi
MacArthur về lại nước Mỹ, dân Nhật đã xếp hàng tiễn đưa ông lên máy bay với
dòng lệ kính yêu. Ông được coi như một trong 12 người có công xây dựng nước Nhật
phú cường như ngày nay.
Bây giờ nhìn lại cách hành xử của người cộng sản Việt Nam
khi chấm dứt cuộc chiến tranh huynh đệ tương tàn và giải quyết các vấn đề hậu
chiến sau khi chiếm được Miền Nam - viết ra quá dài dòng và thêm xấu hổ cho dân
tộc tôi, vì có một lớp người thiển cận, độc ác, tham lam, hẹp hòi - không còn
nhân tính đã xuất hiện trong một giai đoạn lịch sử đen tối của đất nước. Không
biết những thế hệ sau này nghĩ sao khi đọc lại những trang sử Việt Nam trong thời
kỳ này? Với tôi, đây là trang sử ô nhục nhất trong mọi thời đại.
Viết đến đây tôi thấy bùi ngùi cho số phận. Với tuổi đời:
“Tương lai ngồi đợi hoàng hôn xuống…” (4) Tôi biết khó lòng gởi nắm xương
tàn bên mồ mả cha ông khi về cõi… Nên tôi căn dặn mấy đứa con: Chớ bận tâm đưa
hài cốt của cha về với nghĩa trang gia tộc. Hãy hỏa thiêu và rải tro cốt
của cha trên dòng sông Potomac. Hồn của cha sẽ lờ lững trôi theo “dòng sông định
mệnh” này.
