Cứ đến mùa, nước lại viếng Huế, hiếm khi lỡ hẹn. Tháng 10
năm nay (2025), Huế lụt lớn, rất lớn.
Trong khi Huế lụt nước, thì báo chí truyền thanh truyền hình youtube và các trang mạng xã hội tiếng Việt thì…lụt tin. Tin lụt được cập nhật, không những hàng ngày, mà hàng giờ, thậm chí hàng phút, giúp những người Huế xa quê nửa vòng trái đất, vẫn có thể sống với lụt Huế. Có người còn được nhìn thấy cả ngôi nhà thời thơ ấu của mình. Nước không những ngập Huế mà ngập các màn iPhone, iPad, truyền hình. Không thấy phố, không thấy đường, không thấy người. Chỉ thấy nước. Mênh mông nước.
Đọc trên trang mạng Dân Trí: “Lượng mưa đo được trong 24
giờ tại vùng núi phổ biển 800-1.000mm. Cơ quan chức năng ghi nhận lượng mưa đặc
biệt lớn trong 24 giờ tại Khe Tre đạt gần 1.205mm, Bạch Mã gần 1.740mm (ngày
27/10), vượt mức lịch sử từng ghi nhận tại Việt Nam là gần 1.086mm/h (…) lượng
mưa trong 24 giờ tại Huế lập kỷ lục cao nhất lịch sử Việt Nam, có thời điểm đứng
thứ nhì thế giới (…) mưa lớn kéo dài khiến mực nước trên sông Hương và sông Bồ
dâng cao, gây ngập diện rộng ở 32 xã, phường tại thành phố Huế, với mức ngập
1-2m. (…) Toàn thành phố có hơn 44.500 ngôi nhà bị ngập, nhiều tuyến đường nội
đô bị chia cắt, giao thông gần như tê liệt trong hai ngày cao điểm 27 và 28/10.”
Nước rút rồi nước lại lên. Cũng trên Dân Trí: “Dự báo
trong các ngày 30-31/10, một đợt mưa lớn khác có thể xuất hiện tại khu vực miền
Trung, nên phải sau ngày 31/10 mới hết lũ.”
Lụt quá lớn, có lẽ là lớn nhất trong những trận lụt mà tôi từng
biết trong đời. Xưa nay, Huế lụt đã nhiều, nhưng hiếm khi nước “dám” tràn vào
những nơi cao ráo như khu Hoàng Thành, đường Trần Hưng Đạo, khu Bệnh Viện…như
cơn lụt 2025 này.
Sinh trưởng và sống trọn với Huế trong gần nửa thế kỷ, tôi
không lạ gì lụt. Nói không ngoa, lụt có vẻ như là một đặc trưng, thậm chí, một
cá tính Huế. Một cá tính chẳng đáng yêu tí nào. Nhưng đã yêu Huế thì yêu luôn
cá tính Huế, đành thôi. Có năm, lụt lớn lụt nhỏ hay lụt vừa vừa lên đến những…mười
lần, gây ra không biết bao nhiêu gian nan, khổ ải cho người dân. Thảm cảnh lụt ở
Huế không những đi vào văn chương mà còn vào âm nhạc:
Ấy thế mà khi xa quê hương, nhớ Huế, hình ảnh thân thương nhất,
lạ thay, là lụt:
(TDN/Nỗi Huế)
Trong số rất nhiều kỷ niệm lụt, thì trận lụt năm Quý Tỵ
(9/1953) để lại trong tôi nhiều ấn tượng sâu sắc và kinh hoàng nhất, không dễ
gì tẩy xóa.
Huế, trận lụt năm 1953. Ảnh: ECPAD/Défense, via
VnExpress
Tháng 8 hàng năm, cao điểm của mùa lụt, cũng là tháng đánh dấu
một sự kiện lớn trong gia đình tôi: ngày giỗ Cha tôi (17/8). Ông mất khi tôi
còn bé xíu. Tôi còn nhớ như in: từ vài ngày trước giỗ năm đó, trời đã liên tục
trút xuống những cơn mưa lớn. Nhìn kiểu mưa, ai cũng đoán biết là Huế lại sắp lụt
đến nơi. Quả không sai tí nào. Qua rằm, trời càng mưa tầm tã. Ngày 16, lo thì
lo lắm, nhưng từ sáng, mẹ và chị tôi vẫn đội mưa đi chợ, chuẩn bị mọi thứ cho
ngày giỗ hôm sau. Chiều, nước ngập đường cái, lăm le tràn vào sân. Gia đình tôi
lúc đó chỉ có bốn người: mẹ, anh trai, chị gái và tôi. Thật xui, tối đó, anh
trai tôi, cảnh sát công lộ, gặp phiên trực, phải ở lại tại đồn. Nhà chỉ còn hai
người đàn bà và thằng bé con. Hàng năm, theo lệ, buổi tối trước ngày giỗ, bà
con quanh quanh thường đến tụ họp (có người ở làng xa về ngủ qua đêm), vừa làm
đồ ăn vừa râm ran chuyện trò. Nhưng lần này thì không, mọi người đều phải ở nhà
mình, lo đối phó với lụt.
Trong lúc mẹ và chị tôi lui cui trong bếp xẻ thịt, lặt rau,
nấu nướng, thì tôi thậm thà thậm thụt ở cửa trước, hóng xem nước lụt đang cao dần
bên ngoài. Trời tối hẳn. Nước xấp xỉ hiên nhà rồi bắt đầu “bò” vào, tràn hết nền
nhà rồi lút dần lên. Thấy tình hình không ổn, hai mẹ con vội vã gói ghém đồ đạc,
xắn quần, lội nước chuyền tất cả lên những chỗ cao nhất trong nhà. Nước lút nửa
chân giường, lút lên chỗ nằm. Đua với nước, ba mẹ con phụ nhau khiêng giường chồng
lên phản, rồi khiêng bàn, khiêng ghế chồng lên giường. Nước lút cửa sổ, lút hết
cửa lớn, nhốt kín ba mẹ con trong một khoảng không gian cứ thu hẹp dần. Nước ngập,
tất cả đồ đạc, đồ cúng dần dần mất chỗ, tự do trôi lềnh bềnh. Chị tôi bưng cây
đèn dầu vô ý đánh rơi xuống nước, tắt ngúm. May mà còn cây đèn cầy, nhưng chẳng
biết để đâu, mẹ tôi cứ phải cầm trên tay. Hết chỗ, tôi đành leo lên ngồi vắt vẻo
trên xà nhà, một tay ôm cột nhà, một tay nắm cây kèo để giữ thăng bằng. Mẹ tôi
cũng lên ngồi cạnh tôi, tay vẫn giữ chặt đèn cầy. Đến phiên chị tôi, chị lấy
tay níu xà nhà, cố đu lên, nhưng bị tuột xuống, bơi lóp ngóp dưới nước một hồi
mới leo lên được. Ba mẹ con ôm nhau, vừa khóc vừa niệm Phật. Bên ngoài, xóm
trên xóm dưới xóm trước xóm sau, tiếng người la, hét hòa trong tiếng đập thùng,
tiếng gõ son, đôi khi cả tiếng chuông, mõ và tiếng trống kêu cứu vang vang cùng
khắp.
Nước không tha, cứ dâng lên. Bắt đầu cảm thấy ngộp thở. Cùng
đường, mẹ tôi bảo chị tôi ôm chặt tôi, còn bà thì một mình, xoay qua xoay lại,
lúng ta lúng túng cầm cây dao phay (may mà bà mang lên được cây dao phay) vừa
chặt, vừa thọc, vừa cắt, vừa cứa vào rui, vào liếp, vào mái tranh. Mất một hồi
lâu, bà mới khoét ra được một khoảng trống trên chóp nhà. Mừng rỡ, bà lập tức
nhô đầu lên khỏi mái, bất kể mưa, bắt đầu la, giọng khản đặc, run rẩy: bớ
…làng…bớ… xóm, cứu ba mẹ con tui, bớ làng bớ xóm, cứu ba mẹ con tui…Mệt, bà nhường
chỗ cho chị tôi nhô đầu lên tiếp tục kêu cứu. Tôi cũng tìm cách nhô đầu nhìn
ra, chẳng thấy gì, ngoài bóng tối và nước. Bỗng, đùng đùng đùng, một loạt tiếng
nổ ầm ầm nghe như trời long đất lở không biết từ đâu vang lên, rung chuyển mái
nhà, xao động cả mặt nước. Cả ba mẹ con rụng rời tay chân, khiếp đảm, tưởng trời
sắp sập. Mẹ và chị tôi ôm tôi hun, hun tới tấp, hun chùn chụt, vừa hun vừa khóc
vừa niệm Phật, tưởng như giờ phút vĩnh biệt nhau đã đến gần. Trong khoảnh khắc
hoàn toàn tuyệt vọng ấy, bỗng trong bóng đêm lù lù xuất hiện một khối đen, từ từ
tiến tới phía chái nhà: trời ơi, chiếc xuồng (đò nhỏ). Không cần hỏi han, mẹ
tôi ôm lấy tôi, bật người dậy, kéo tôi lên khỏi lỗ hổng, đẩy mạnh về phía xuồng.
Tôi thu hết can đảm, run rẩy bò trên mái tranh ướt. Một người đàn ông đứng đầu
mũi xuồng chụp lấy tôi, ném xuống khoang, rồi vội vã chống sào quay đi. Lọt thỏm
giữa một số người chen chúc, xuồng chòng chành qua lại, tôi sợ hãi ngất lịm người,
chỉ nghe loáng thoáng giọng người đàn ông nói lớn, hết chỗ rồi, không chở thêm
được ai nữa.
Tôi mê man suốt đêm, chẳng hay biết gì. Sáng hôm sau, tỉnh dậy,
tôi thấy mình nằm chen chúc giữa hàng chục người tránh lụt, trẻ có già có, trên
nền đất trải chiếu, trong ngôi nhà của một gia đình nào đó (tôi không nhớ tên)
tọa lạc trên khu “Thượng Thành”, nơi cao nhất trong vùng tôi ở. Nhìn quanh, chẳng
thấy mẹ và chị đâu, tôi khóc rống lên: mạ ơi, mạ ơi, mạ mô rồi, mạ ơi…Một bà
nào đó đến vỗ về tôi nói, mạ và chị mi không chết mô, đừng khóc nữa. Mãi đến
chiều tối hôm đó, khi nước rút, anh tôi mới đến đón tôi về nhà. Mẹ tôi kể, sau
khi chiếc xuồng chở tôi đi, hai mẹ con đành ngồi trên mái nhà, chờ chết. Nhưng
may mắn làm sao, đúng lúc đó, thì nước ngừng lên, rồi hạ dần. Mẹ tôi nói: mạ
con mình còn sống là nhờ ơn trên, nhờ vong hồn cha mi về phò hộ. Ơn trên không
những đã phò hộ gia đình tôi, mà phó hộ cả xóm: không có ai thiệt mạng trong
cơn lụt này.
Nhưng thành phố Huế (và khu ngoại thành lân cận) không may mắn
như thế. Lụt 1953 đã cướp đi rất nhiều nhân mạng. Đau thương nhất trong số đó
là làng Bãng Lãng (Tuần): nghe nói tất cả mấy trăm người trong làng đều bị cuốn
trôi ra biển. Sự kiện bi thảm này khiến dân Huế không mấy ai dám ăn cá suốt cả
tháng trời. Ngoài nhân mạng, Huế còn chịu một thiệt hại lịch sử không có gì bù
đắp được: lụt đã làm sập bốn cửa thành của khu Thành Nội. Đó là cửa Chánh
Tây (phía Tây), cửa Hữu (phía Tây Nam), cửa Nhà Đồ (Chánh Nam) và
cửa Quảng Đức (đối diện với cửa Ngăn – tức Thể Nhân – qua Kỳ Đài, là cửa
hiện nay du khách thường phải đi qua nếu muốn vào thăm Đại Nội). Vì sao bốn
cửa thành kiên cố, bền chắc cả trăm năm như thế mà lại cùng lúc bị sập, trong
lúc các cửa khác thì không? Sau này người ta mới tìm ra nguyên nhân: cả bốn cửa
thành này bị đóng và khóa quá chặt. Dòng nước lũ hung hãn cùng với gỗ,
củi trôi theo, tràn về bị chặn lại, không có lối thoát nên xói mòn phần đất bên
dưới móng. Tức nước phải vỡ thành. Cái kiên cố, ai ngờ, lại chính là thủ phạm. Một
trong bốn cửa đó, cửa Hữu, nằm cách nhà tôi chỉ vài trăm mét. Thì ra, tiếng nổ
dữ dội mà tôi nghe trong đêm lụt xuất phát từ khối kiến trúc bị nước đánh sập
này. Ba cửa kia, tôi không biết sập khi nào, vì chúng cách nhà tôi khá xa.
Cửa Hữu sập là nỗi buồn lớn nhất của đám trẻ con xóm tôi.
Khu thành quách chung quanh, nhất là cái lầu nằm phía trên (vọng lâu) vô cùng
thoáng đãng và mát mẻ, là nơi bọn chúng tôi thường rủ nhau leo lên chạy nhảy,
chơi đùa, học hành, thả diều trong những ngày hè. Đó cũng là nơi “vọng cảnh”. Từ
lầu cao, ta có thể nhìn ngắm một khung cảnh rộng lớn bên ngoài: hồ nước bọc
quanh thành, nơi trồng đầy sen, rau muống và là nơi người ta câu cá, tắm rửa;
làng Phú Thạnh với cây cối xanh um, nhà cửa san sát nằm dọc theo bờ hồ; quốc lộ
1 tiếp giáp với đường xe lửa chạy song song cùng sông Kẻ Vạn, đổ về phía sông
Hương và cầu Bạch Hổ thấp thoáng ở đàng xa. Cửa sập rồi, lầu nghiêng hẳn đi,
chênh vênh, tường nứt, gạch đá vương vãi khắp nơi. Bọn trẻ con chúng tôi không
ai còn dám bén mảng đến đó, vì không biết nó sẽ đổ xuống lúc nào. Đành đứng xa
mà nhìn, lòng vô cùng tiếc rẻ. Vòm cửa phía dưới càng tệ hơn, phần tường trên sập
xuống, tạo thành một khối đổ nát hỗn độn, lấp hẳn lối đi. Vậy mà rồi về sau, có
người liều lĩnh len lỏi qua những khoảng trống nằm giữa các khối gạch, trèo ra
được phía bên ngoài. Dần dà, cách đi khó khăn và nguy hiểm đó lại trở thành
quen thuộc và phổ biến đối với cư dân quanh quanh vùng cửa Hữu, kể cả các bà nội
trợ.
Năm 1962, chính quyền địa phương cho nổ mìn, dọn sạch
toàn bộ gạch đá đổ nát, biến cái vòm cửa cũ thành một đoạn đường tráng nhựa
thông thương giữa trong và ngoài. Kiến trúc cửa Hữu (trong hình) mà chúng ta
nhìn thấy hiện nay hoàn toàn được tân tạo sau năm 1975. Năm 1968, cửa này là
con đường huyết mạch mà cộng sản sử dụng để đưa quân vào chiếm đóng khu Đại Nội
(Hoàng Thành) và là một trong những nơi họ bám trụ suốt 26 ngày trong cuộc chiến
Mậu Thân. Khi còn bị kẹt ở nhà một tuần lễ, tôi vẫn nhìn thấy các toán bộ đội
ôm súng chạy lui chạy tới trên con đường cái ngang trước mặt nhà. Sau khi cộng
sản thua trận rút đi, một đơn vị Thủy Quân Lục Chiến VNCH đến trấn đóng cửa Hữu
để giữ gìn an ninh. Một hôm, nghe có tiếng người rên rỉ đâu đó, lính lùng tìm,
bắt được một cậu bộ đội người xứ Bắc trẻ măng bị đồng đội bỏ rơi, trốn trong một
cái hố khá sâu gần cửa thành. Cậu ta nằm dưới đó nhiều ngày, áo quần rách rưới,
thân hình tiều tụy, vết thương nơi bắp chân đã có giòi. Cậu ta được cho ăn, được
băng bó cứu chữa kịp thời, thoát chết, lên tiếng rối rít cám ơn những người
lính Thủy Quân Lục Chiến. Đó là một cảnh tượng hết sức cảm động mà người dân
xóm cửa Hữu tôi được tận mắt chứng kiến thời còn chiến tranh.
Lụt 1953 còn mang lại cho tôi một chuyện khó quên khác. Ấy
là lâu lâu, dân trong xóm, khi đào đất làm vườn, lại phát hiện ra, khi thì
một cái sọ, khi thì một mảnh xương, khi thì một hàm răng người, khiến ai cũng
ngạc nhiên, sợ hãi. Mỗi lần như thế, cả xóm hùn tiền, mua những chiếc hòm nhỏ
(cái tiểu) để mai táng. Tìm hiểu, thì mới hay đó là xương cốt của những người
dân chạy loạn trong biến cố Thất Thủ Kinh Đô, gần 70 năm trước đó, năm 1885. Số
là khi quân Pháp đánh chiếm kinh đô, cư dân trong Hoàng Thành và các khu vực
chung quanh, tuôn ra cửa Hữu là nơi gần gũi và thuận tiện nhất để thoát ra
ngoài thành. Biết đâu vua Hàm Nghi, Tôn Thất Thuyết cùng đám tùy tùng cũng nằm
trong số những người đã từng đi qua cửa này, sau đó, tìm đường chạy lên Sơn
phòng Tân Sở (Quảng Trị), ban chiếu Cần Vương! Cửa hẹp, người đông, lại hoảng
loạn, người ta đạp nhau mà chết, xương cốt vùi lấp đâu đó chung quanh cửa
thành, mãi đến khi nước lụt xói lỡ chân thành mới trôi ra.
Các oan hồn vất vưởng của những ngày loạn lạc xa xưa, ai ngờ,
nhờ trận lụt 1953, mà có cơ hội an nghỉ, siêu thoát.
*
Huế lụt! Lụt Huế!
Từ chốn xa, xin gửi lời chia buồn cùng Huế. Cầu mong Huế sớm
vượt qua khó khăn, trở lại cuộc sống bình thường.
