Gửi Nguyễn Trùng Khánh
Thế rồi,
cái gì phải đến cũng đến. Ngày trở về Việt Nam đã tới. Mấy tuần trước đó có vài
người khuyên tôi nên ở lại. Nếu tôi muốn họ sẽ giúp tôi trốn sang Canada. Tôi
lưỡng lự mãi. Một bên là cám dỗ của một đời sống mới, tự do và đầy đủ tiện
nghi. Một bên là nỗi nhớ nhung, mái tóc bạc của bà mẹ già, ngọn gió rì rào
trong bụi tre ngà, một tô phở nóng, một cái gì rưng rức khó tả. Và nhất là cuộc
đối thoại ngắn ngủi giữa bác sĩ Rieux và Rambert trong La Peste của Camus : “Il
n’y a pas de honte à préférer le bonheur, mais il peut avoir de la honte à être
heureux tout seul”. Tôn Kàn, Quan hai lang tây lính thủy đánh bộ. (tr.94-95
TSYS 1993)
*
Tiếng leng keng của chiếc tàu điện đang đổ dốc
với chật ních du khách đứng lan cả ra thành tàu, trên một nền xa mờ thấp thoáng
chiếc cầu Golden Gate: cảnh ấy như biểu tượng của Cựu Kim Sơn không đổi thay từ
bao năm trên tấm Postcard gửi đi từ thành phố thanh lịch mỹ miều này. Từ ngày
hôm ấy, mười lăm năm sau, chẳng thể nghĩ rằng hơn một lần Phan trở lại nơi đây.
Cảm giác như không hề có thật.
Cuộc hành trình qua suốt 15 tiểu bang,
trong một khoảng thời gian không dài, để thấy cái mông mênh của tân lục địa và
những cơ hội cho người lưu dân mới tới. Mỗi nơi là một quyến rũ bào chữa bảo
chàng không về. Cùng chuyến đi với Phan, có Chính. Không thắc mắc vấn nạn,
Chính đã có ý định ở lại ngay từ ngày còn bên nhà. Biết nhau từ hồi Đại học xá
Minh Mạng. Chính học giỏi nhưng chẳng may Tú tài chỉ đậu bình thay vì ưu hạng
nên đã một lần lỡ mộng du học. Sau đó Chính chọn Y khoa, là một trong số
những nội trú xuất sắc, được chọn vào Ban Giảng huấn và cho đi du học Mỹ sau
đó. Khi tới thăm Walter Reed, có dịp gặp lại Chính ở Hoa Thịnh Đốn giữa mùa hoa
anh đào nở. Chính cũng đang bay qua nhiều tiểu bang cho những cuộc Interviews
để được chọn vào chương trình Nội trú các bệnh viện. Câu chuyện rồi cũng
lại xoay quanh chuyện ở hay về. Hắn thuyết phục Phan bằng vô số
những "bởi vì", rằng không chấp nhận cộng sản phía bên kia,
cũng không thể chấp nhận thối nát của bên này, rằng sớm muộn Mỹ cũng sẽ bỏ rơi
miền Nam. Chính đã dứt khoát khôn ngoan xử dụng trí thông minh và cơ hội để
chọn một cuộc sống lưu dân êm ấm. Không phán đoán mà rất thản nhiên với chuyện
lựa chọn của Chính. Phan còn lý luận tốt cho bạn, rằng thông minh như nó lại có
cơ hội, biết đâu hắn chẳng trở thành một giáo sư y khoa lỗi lạc. Trường hợp
Chính cũng như nhiều nhân viên giảng huấn được gửi đi mà không trở về chỉ
nằm trong hiện tượng "brain drain" rất phổ quát của trí thức
năm châu. Người ta luôn luôn nhắc tới một bà mẹ Teresa yếu đuối tận tụy
hy sinh giúp những người bệnh nghèo ở Ấn nhưng chẳng ai chú ý tới sự hiện diện
của hàng chục ngàn bác sĩ Ấn độ không thiếu những thành phần lỗi lạc vẫn tiếp
tục hàng năm đổ thêm vào nước Mỹ. Chính cũng chỉ là một giọt rất nhỏ nhoi giót
thêm vào lượng nước của một chiếc ly chẳng bao giờ biết đầy.
Bước vào tuổi 30, chưa xa lâu sân trường đại học
nhưng những năm thực sự lăn lộn với những người lính chiến trận, Phan thấy mình
vĩnh viễn bước ra khỏi đời sống sinh viên tự bao giờ. Cảm giác ấy thật rõ ràng
khi vào ngày cuối tuần, Phan thường sang bên khu Đại học Berkerley hiện
đại và cổ kính, tìm sự hoà mình để càng thấy rõ là người đứng bên lề. Khá đông
sinh viên Việt ở nội trú trong Campus, đa số gốc con ông cháu cha ở Sài
Gòn nhưng phản chiến hơn cả sinh viên Mỹ. Chưa hề biết đồng quê là gì nhưng lại
biết mặc đồng phục bà ba đen khi lên sân khấu hát "Quảng bình Quê ta
ơi" và tích cực quyên tiền giúp Mặt trận Giải phóng. Không, chẳng phải
vì cái sân khấu ấy mà Phan có mặt; thực ra Phan có phần đời sống riêng tư ở bên
đó. Phương Nghi em gái một đồng nghiệp, thông minh ngây thơ và mong manh
trẻ đẹp, có thể chỉ là hình ảnh giấc mộng trăm năm của đời chàng. Làm sao nỡ đem
cái mong manh dễ vỡ ấy trở về để mà bắt chia xẻ với chàng những giông bão và
bất chắc. Lần gặp Phương Nghi tối qua rất khuya đi giữa các đường phố nhỏ chỉ
có những nam nữ sinh viên, chưa hề nói câu từ biệt nhưng Phan cảm tưởng rất rõ
đó là chuyến gặp nhau lần cuối cùng...
Buổi sáng nắng đẹp, cầu Golden Gate rực rỡ
ửng hồng, nơi mỏm sương mù gần bệnh viện Letterman vẫn như còn sương khói ẩn
hiện mờ mờ. Đứng trên chiếc du thuyền, phơi mình trong nắng chan hòa nhưng vẫn
thấm lạnh vì từng đợt từng đợt những cơn gió từ biển thổi sâu vào trong
vịnh. Không suy nghĩ, như một cử chỉ dứt khoát, Phan ném chiếc máy ảnh, cả
những cuộn phim rơi sâu xuống lòng vịnh. Hành động trong khoảnh khắc tưởng như
chẳng có ai có thể chứng kiến. Một bà Mỹ già, đôi mắt vui và rất sáng đang tiến
lại phía chàng. Hình như ông đã để rơi chiếc máy hình xuống biển. Thay cho câu
trả lời Phan nói rất bâng quơ. Gió thổi vào vịnh lớn quá thưa bà. Một tay giữ
cổ áo, bàn tay trắng đẹp đẽ kia xuôi vuốt mái tóc bạch kim lấp lánh ánh nắng.
Chả thế mà tôi cũng vừa bị thổi băng chiếc mũ lông xuống mặt nước. Rồi bà lân
la gợi chuyện. "Ông có phải từ Việt Nam không? Tôi cứ nghĩ ông là người
Việt Nam, tôi muốn hỏi tin tức và tình hình bên đó. Cứ theo tin truyền hình CBS
thì rối mù, chỉ thấy cảnh lính Mỹ châm lửa đốt nhà dân quê, lại tới vụ thảm sát
cả đàn bà trẻ em ở Mỹ Lai. Đến bây giờ tôi cũng chẳng hiểu tại sao thằng con
trai tôi phải có mặt bên đó". Thấy Phan không hào hứng bắt chuyện, người
đàn bà vẫn lại vui vẻ đi về phía những du khách đang tụ lại nơi mũi tàu. Tuổi
già, du lịch giúp bà trốn chạy ra khỏi căn nhà rộng trống trải của mình. Không
ngờ cái xứ sở Việt Nam nhỏ bé xa hơn nửa vòng trái đất ấy đã bắt đầu để hằn sâu
những dấu ấn trên lục địa này. Hôm sang Palo Alto tới thăm đại học Stanford,
như mọi campus khác trên khắp nước Mỹ đang hừng hực những phong trào Sit-in,
Teach-in phản chiến. Đốt cờ, đốt thẻ trưng binh, trốn ra nước ngoài,
đến vụ tự thiêu chết ở Hoa Thịnh Đốn, xã hội Mỹ đang phân hóa đến
cực điểm giữa cao độ của cuộc chiến tranh đã lan ra cả Đông Dương. Sau Thích
Quảng Đức, tự thiêu không còn là một hình thức phản đối bất bạo động của Phật
giáo mà đã trở thành phương thức đấu tranh của cả sinh viên Mỹ.
Phan được hướng dẫn dặn rất kỹ không bao giờ
mang quân phục hay có dấu hiệu của quân đội vì có thể bị hành hung và cả đốt
xe. Cũng ngày hôm đó một đám sinh viên Mỹ kéo tới nằm trên đường rầy xe lửa
chặn không cho các chuyến tàu chở vũ khí bom đạn tới cảng Oakland để chuyển đưa
sang Việt Nam. Vĩnh biệt Cựu Kim Sơn. Thanh thản nhẹ nhàng không lưu luyến buồn
vui, để rồi ngày mai chưa biết ra sao nhưng chàng sẽ trở về với bà mẹ già,
những người lính đồng đội và cánh đồng lúa thơm chín vàng của Việt Nam. Chẳng
phải Cựu Kim Sơn, Phan đã để trái tim mình ở Sài Gòn. Chàng mơ ước cho xứ
sở cái sung túc mà người Mỹ đang có nhưng bằng niềm tin tạo dựng với sức lao
động vốn siêng năng của người dân mình...
Những năm sau hồi hương, trở lại cuộc sống của
một bác sĩ quân y bình thường. Lương sĩ quan, không thể gọi là dư giả, cuộc
sống người thầy thuốc bận bịu với những người lính và gia đình họ nhưng thanh
thản. Vốn không nhiều lý luận, không mang nặng luân lý hy sinh của các bà sơ,
nhưng Phan nhạy cảm sống nhiều bằng trực giác. Gặp khó khăn, phải làm việc
trong những điều kiện thiếu thốn như một hoàn cảnh chung của cả nước, Phan vẫn
tìm cách giải quyết mà anh cho là tốt nhất có thể được khi anh xem mỗi người
bệnh ấy như phần ruột thịt thân yêu của gia đình mình. Không quá nhiều tham
vọng, lại không thích chánh trị mà anh cho là thời cơ và giả dối; bằng
những cố gắng bình thường mỗi ngày, Phan thấy mình có ích và nghĩ như vậy là
hạnh phúc. Những tháng ngày sống ở Mỹ như một thế giới rất xa xôi với hiện tại
của chàng...
Ngày hôm đó đang nghỉ phép giữa một Sài Gòn
đầy xao xuyến, về chuyện ở đi, Phan lại có một quyết định, có thể gọi là lầm
lẫn được không, lần thứ hai thay đổi cả hướng đi của đời mình. Chiếc máy ảnh và
cả cuộn phim nằm sâu ở một nơi nào đó trong lòng vịnh Cựu Kim Sơn, vẫn ám ảnh
Phan như một lời nguyền ngăn chàng không thể trở lại nơi ấy lần thứ hai. Khi mà
cứ điểm cuối cùng là Sài Gòn cũng không còn hy vọng đứng vững, thì người ta bắt
đầu chạy tứ tán ra các vùng biển, nhào vào các hải cảng và phi trường để tìm
phương tiện thoát thân. Bọn du kích đã ra mặt kiểm soát các trục lộ ra Vũng
Tàu, xuống Rạch Giá. Từ cảng Sài Gòn đa số tàu Hải quân đã theo đội hình tác
chiến bắn phá dữ dội dọc hai bên sông trên đường ra biển từ hai hôm trước. Còn
lại phi trường Tân Sơn Nhất, tuy lác đác bị pháo kích nhưng vẫn còn những
chuyến bay lên xuống. Chuyến bay dân sự cuối cùng đã phải trở lại Hồng Kông. Số
máy bay thưa dần nhưng lượng người đổ vào trong phi trường càng đông cho dù đám
quân cảnh ra sức mạnh tay ngăn cản. Bây giờ chỉ những chuyến xe có người
hướng dẫn với Manifest của chuyến bay mới được phép vào cổng phi trường. Đây là
cơ hội cho những nhân viên trung cấp của toà Đại sứ Mỹ qua trung gian của các
bà vợ Việt tung hoành. Cũng chẳng cần có liên hệ mật thiết với chánh phủ Hoa Kỳ
hay toà Đại sứ Mỹ, nếu có tiền đô la hay vàng, là có thể thêm tên vào danh sách
hành khách cho một chuyến bay nào đó sắp tới. Xứ sở này đã hơn một lần được báo
Mỹ mệnh danh có một nền văn hóa tham nhũng/ culture of corruption,
đã rất sớm dạy cho những người Mỹ cách tham nhũng, kể cả những vụ đổ hàng
PX lậu từ Tân Cảng tới các bãi rác, đủ mọi thứ hàng gì, kể cả súng. Và bây giờ
ở trận chiến tàn, trong chuyến tàu vét, họ đang thản nhiên ra giá cho những tấm
vé nếu chưa phải để tới thiên đường thì ít ra cũng thoát ra khỏi quần đảo ngục
tù hay cả cái chết.
Phan với vợ và con nhỏ, cùng bốn năm gia
đình khác, mỗi người với túi hành lý nhẹ, ngồi kín chiếc xe van chờ bốc họ nơi
sân sau của một khách sạn gần trung tâm thành phố. Mỗi người bước lên xe là một
trao đổi sòng phẳng. Không biết bằng cách nào, có lẽ qua giúp đỡ của gia đình,
vợ Phan đã đưa được tên cả ba người vào danh sách. Người đàn bà quá hiểu chồng,
sống bằng trực giác phụ nữ, nàng tìm cách chuyển con sang tay Phan. Như vậy
nàng có thể yên tâm cho tới khi vào được bên trong của phi trường. Dù lẫn
cả trẻ con nhưng sao không khí thật nặng nề và im lặng. Chiếc xe lầm lũi chạy
nhanh trên các đường phố nhao nhác. Đám người trên hè phố tụ tập bàn tán, chỉ
chỏ nhìn dõi theo chiếc xe mà chắc họ cũng biết là đang hướng về phía phi cảng.
Xe tới gần Bộ Tổng Tham mưu, vẫn còn rải
rác những người lính đứng canh giữ. Canh giữ cho một tổng hành dinh trống trơn.
Không ra khỏi cổng, nhưng các ông tướng còn lại đã thoát khỏi bộ Tổng tham mưu
bằng những chiếc trực thăng cuối cùng. Con bé lại làm xấu, nước đái thơm ấm
thấm xuống cả đùi chàng. Chuyền lại đứa con sang tay vợ, như có linh tính
con bé nhất định ôm chặt lấy bố, oà khóc khi lọt sang vòng tay mẹ nó. Khi
chiếc xe vừa dừng lại nơi trạm kiểm soát, do một quyết định rất nhanh, không biết
có tự bao giờ, Phan mở cửa bước xuống, dặn vói vợ. Em và con đi trước, rồi anh
sẽ gặp hai mẹ con. Phan tránh không nhìn thẳng vào khuôn mặt vợ, vì biết mình
chẳng thể cứng lòng quyết định dứt khoát về một cuộc chia ly như vậy...
Gần trưa ngày 30 tháng 4. Tướng Big Minh qua đài
phát thanh kêu gọi buông súng. Hoang mang, ngỡ ngàng, rồi bàng hoàng đau đớn.
Lệnh đầu hàng là "phát súng thi ân" cho những đơn vị quyết tâm tử thủ
cho tới viên đạn cuối cùng... Trên đường Công Lý, từ hướng phi trường Tân Sơn
Nhất, không biết từ bao giờ, chuẩn uý Ngộ và tiểu đội của anh vẫn trật tự lầm
lũi theo hàng một tiến về hướng Dinh Độc Lập. Trước đó nhiều ngày đơn vị anh và
các tiểu đoàn Nhảy Dù đã bám trụ ngày đêm từ Ngã tư Bà Quẹo tới cổng Phi Long,
như nút chặn vững chãi cho cửa ngõ đi vào Sài Gòn và cả bảo vệ vòng đai phi
trường. Người chuẩn úy da sạm đen, gương mặt xương gầy với đôi mắt rất sáng
nhưng buồn. Súng lục trễ bên hông, trên tay một cây gậy nhỏ, dẫn đầu tiểu đội
12 nguời lính da cũng đen sạm trong những bộ rằn ri lấm bụi bạc sờn. Không chút
ảnh hưởng nao núng bởi những khuôn mặt dân chúng hoảng loạn giữa một thành phố
xao xác, họ vẫn đều bước theo chân người chuẩn úy, với ba lô trên vai và mũi
súng chúc xuống. Có điều gì đó rất thiết thân và thiêng liêng ràng buộc giúp họ
thắng mọi sợ hãi trong nỗi sống chết không rời. Cuộc diễn hành kỳ lạ với không
trống chiêng không cờ xí, hoàn toàn vắng mặt hàng Tướng lãnh đẹp đẽ trong nhung
phục với ngực đầy huy chương trên kỳ đài, mà chỉ có những sĩ quan cấp thấp như
chuẩn úy Ngộ và các đồng đội vô danh của anh vẫn can đảm bình thản tới gần
tuyến lửa, đi tới trong kỷ luật đội ngũ, diễn qua rải rác những đám đông dân
chúng lớn nhỏ tụ tập nhao nhác trên các con phố của một Sài Gòn đang chết dần.
Đã bao năm rồi, biết bao nhiêu nước chảy qua
cầu, có quá nhiều điều để không thể nào quên. Ngay trong tù đày, những hình ảnh
hồi tưởng chưa bao giờ là cuộc duyệt binh vĩ đại đày màu sắc và ồn ào của
ngày Quân Lực; mà luôn luôn là những bước chân diễn hành thầm lặng của một tiểu
đội lính vô danh ở ngày giờ cuối cùng của một thành phố trước khi mất tên Sài
Gòn. Người chuẩn úy ấy bây giờ ở đâu, trong một trại cải tạo nào, còn sống hay
đã chết, số phận những người lính can đảm kỷ luật tới giờ phút chót ấy bây giờ
ra sao, cũng không ai được biết. Liệu có thêm được một giòng chữ nào giữa những
trang quân sử viết dở dang để nói về cuộc diễn binh kỳ lạ cấp tiểu đội
mang biểu tượng hào hùng của quân lực ở ngày giờ cuối cùng trước khi cả
toàn quân tan hàng rã ngũ...
Ở cái tuổi gần 50 không còn trẻ nữa, mái tóc đã
pha chút điểm sương, khi người thầy thuốc là con bệnh, lần thứ hai trở lại lục
địa cơ hội này, lẫn trong đám đông phức tạp của những người tỵ nạn mà Phan
tưởng rằng đã có thể tách ra từ bao lâu rồi. Được các nhân viên xã hội dắt từ
sân bay tới trạm tiếp đón, đó là một hangar trống trải nhưng rộng mênh
mông ngay trong phi trường, với trang trí chỉ là một lá cờ vĩ đại ba màu
xanh trắng đỏ sặc sỡ những sao và sọc. Rồi cũng như mọi người, Phan chờ cho
được kêu tên để đứng vào hàng làm thủ tục giấy tờ, để được phát chiếc áo ấm
cùng một màu nâu đồng phục, để được hướng dẫn bước đầu hội nhập vào xã hội Mỹ.
Người đàn ông cán sự xã hội rất nhanh nhẹn và hoạt bát, thao thao bất
tuyệt với giọng Bắc nhưng vẫn là âm gốc Huế. Anh dí dỏm kết luận bài học công
dân đầu tiên: "Xin nhớ cho đây không còn là ở Việt Nam nữa, quý vị bây giờ
đang ở trên đất Hoa Kỳ, đã có hoàn toàn tự do, kể cả tự do phê bình tổng thống
hay quốc hội, nhưng - anh ta ngưng lại một chút như để tự tán thưởng bằng
một nụ cười riêng thú vị: nhưng quý vị sẽ không có tự do trốn thuế. Trốn
thuế ở Mỹ thì chỉ có ở tù và được coi là tội nặng nhất..."
Phan vẫn còn ngạc nhiên không hiểu lý do nào vấn
đề đóng thuế lại được quan tâm đến như vậy ở đám người tỵ nạn mới tới mà nguồn
sống lợi tức trước mắt chỉ là đồng tiền "oen phe". Quanh Phan, mấy
chú ba gốc Chợ Lớn có vẻ rất tập trung và nghiêm túc tiếp thu bài lên lớp đầu
tiên ấy. Mũi dao trên trái tim, đó là Chữ Nhẫn Phan học được ở những tháng ngày
dài đẵng vô ích và lãng phí của tù đày. Lúc này, không có chỗ cho cảm giác mỏi
mệt, không buồn bã, không cả dư vị đắng cay, như một thói quen vô cớ Phan tự
mỉm cười và hơn bao giờ hết anh hiểu rất rõ vị trí của mình khi chưa có được "một
tấm căn cước" để bước vào cuộc sống mới. Khoảng cách mười lăm năm ấy
bỗng dưng bị xóa nhoà. Phải chăng có một ràng buộc định mệnh, Phan đã trở lại
Cựu Kim Sơn như chưa hề nói một câu giã biệt.
NGÔ THẾ VINH
Los
Angeles 1984
[Mặt Trận
Ở Sài Gòn, Nxb Văn Nghệ 1996]