“Kinh Kha tráng sĩ” của Tàu và tư duy của người
Việt
Hạ Đình Nguyên
Vắn tắt câu chuyện
Tần Thủy Hoàng được xem là một bạo chúa đang trên
đà tóm thâu lục quốc (Trung Quốc bấy giờ chia ra làm sáu nước). Thái tử Đan là
kẻ kế thừa dòng họ vua chúa của một nước, quyết chống lại Tần Vương nhưng chẳng
có binh lực gì, thậm chí là tài năng, mưu lược cũng không. Hắn dụ dỗ, vỗ về một
tay thanh niên có tên là Kinh Kha để ám sát Tần Vương. Trong lần chiêu đãi cuối
cùng trước khi Kinh Kha vượt sông Dịch tiến hành cuộc mưu sát, Kinh Kha đã thốt
lên lời ca ngợi bất ngờ về “bàn tay đẹp” của một người đẹp đang phục vụ cuộc
chiêu đãi. Lập tức, bàn tay ấy được chặt đi, gói lại, làm quà tặng cho Kinh
Kha. Kinh Kha vô cùng cảm kích Thái tử Đan về hành vi được y cho là cao
cả và hết lòng của thái tử Đan đối với hắn, đối với quyết tâm trừ bạo chúa, mà
đúng ra là cực kỳ vô nhân tính, để động viên hành vi liều mình của Kinh Kha.
Câu chuyện được kết thúc bằng cảnh tượng thê thảm của Kinh Kha. Cuộc hành thích
không thành công và Kha bị băm nát thây thành từng mảnh vụn, Tần Vương thì an
toàn. Thái Tử Đan thì biến mất trong lịch sử không còn nghe nhắc tới, vì chẳng
làm nên trò trống gì.
Kinh Kha tráng sĩ và chuyện nô
dịch về tư duy
Trong cảnh dầu sôi lửa bỏng hôm nay lại đi nói
chuyện tráng sĩ Kinh Kha của Tàu, thì e là “lạc điệu”. Nhưng không, câu chuyện
nói lên tính tư duy lệ thuộc thể hiện qua văn hóa - chính trị của Việt Nam xưa
và nay, có thể ít người để ý.
Hẳn là người Việt Nam có học, ai cũng biết chuyện
tráng sĩ Kinh Kha đi hành thích Tần Thủy Hoàng dưới sự bảo trợ của thái tử Đan.
Hình ảnh của Kinh Kha được văn học Trung Quốc xem là tấm gương điển hình cho
ngàn đời sau.
Nhưng đấy là chuyện của Trung Quốc.
Điều đáng nói là Việt Nam, cả một dòng văn học qua
các triều đại cũng đều ngợi ca Kinh Kha tráng sĩ, xem là một tấm gương
để noi theo. Nếu không nhầm thì chưa có một ý kiến nào, dù một câu, để hoài
nghi, xem xét Kinh Kha là một con người như thế nào. Một tráng sĩ tuyệt vời
dũng cảm, quên thân mình vì nghĩa lớn, một thằng điên, một kẻ tham vọng, một
tên ngông cuồng…?
Cũng cần thừa nhận rằng, Kinh Kha là một tay có
dũng khí. Hắn nhận trách nhiệm đi hành thích một bạo chúa (Tần Thủy Hoàng) để
tôn vinh một bạo chúa khác chưa lên ngôi (Thái Tử Đan) có tính tàn ác không kém
gì tên bạo chúa kia.
Nhưng những kẻ ngợi ca cái dũng khí đó thì
được hiểu như thế nào? Không phải đó là những xưng tụng của cá nhân, mà của cả
một chuỗi dài văn học sử Việt Nam thể hiện qua giới học thức cung đình của các
triều đại.
Không ai lạ gì với dòng lịch sử tàn ác của các
triều đại của một đất nước gọi là Trung Hoa - Trung Quốc - Tàu - China. Một ông
vua quở rằng ta chưa từng “nếm vị thịt người”, thế là một tay đầu bếp, tên Dịch
Nha, lặng lẽ về “thịt” đứa con trai ba tuổi của mình, hôm sau “kính dâng” lên
Chúa Công (1). Lã Hậu, vợ của Hán Vương (Lưu Bang) đã chặt hai tay, hai chân
một vương phi, rồi nuôi nhốt trong chuồng heo, để trả thù vì ghen tuông. Một sứ
thần của An Nam là Nguyễn Biểu sang đàm phán, được chiêu đãi một món ăn nguyên
cái đầu người được luộc chín như cái đầu heo…
Trung Quốc hiện đại không có gì khác về truyền
thống giết người man rợ, nhưng càng man rợ hơn, độc ác hơn, và quy mô hơn, kể
từ thời Mao Trạch Đông đến nay, triền miên trong thanh trừng nội bộ, hay tàn
sát dân lành, như chiến dịch tàn sát kéo dài hàng chục năm những người theo môn
dưỡng sinh Pháp Luân Công để bán nội tạng tươi sống. Quá nhiều không thể kể
hết.
Trở lại chuyện Kinh Kha.
Sao lại chặt cái bàn tay ấy đi? Không phải là bàn
tay ăn cắp để chịu hình phạt theo truyền thống Hồi Giáo, và như thế đã là dã
man lắm rồi. Kinh Kha sẽ làm gì với cái bàn tay bị chặt ấy? Sử viết rằng hắn vô
cùng cảm kích. Đan vì sự nghiệp bá vương của mình mà tàn ác là
một lẽ, miễn bàn ở đây. Còn Kha, một thằng khùng, một sát thủ chuyên nghiệp?
Với tư cách được mô tả là một trang nghĩa khí, lẽ
ra, hắn nên rút trủy thủ mà kết liễu Đan thì mới đáng lưu danh trong sử sách
chứ!
Không bức xúc chuyện của Tàu, nhưng thử hỏi sao
Việt Nam ta, lại đi ca ngợi? Giới “hủ Nho” đồng nhịp hát: “Tráng sĩ hề, một
đi không trở lại!”. Hoặc xót xa: “Gió đìu hiu sông Dịch lạnh lùng
ghê. Tráng sĩ một đi không trở về…”.
Đến như Nguyễn Bính, một nhà thơ trữ tình rất được
yêu mến, cũng lấy Kinh Kha làm hình tượng, buông lời tán thán Kha: “Kinh Kha
quán lạnh sầu ngưng chén. Ai kẻ dâng vàng, kẻ biếu tay!” (Hành
phương Nam).
Lịch sử không nói rõ, rằng người con gái kia tự
nguyện chặt tay mình để biếu Kha, hay gia nhân của Đan đã đè ra mà chặt tay
cô. Không ai có thể tin vào sự “tự nguyện” của người con gái ấy; đó chỉ là sự
gán ghép đến kinh tởm.
Không thể kết án cho toàn dân Việt là có nền tảng
tư duy nô lệ Tàu. Cũng không thể cho rằng cả nền văn hóa Việt lúc nào cũng nô
lệ Tàu. Nhưng có từng thời kỳ, tư duy nô lệ của lãnh đạo người Việt là không
thể chối cãi, không thể biện hộ, và dĩ nhiên nó mang “màu sắc” của mỗi thời
đại. Đành rằng, có những giai đoạn tư duy của người Việt bùng lên mạnh mẽ trước
sức ép của ngọai bang, nhưng sau đó có vẻ như anh tài đã cạn kiệt, đầu óc kế
thừa mụ mị, như con cóc chết quay đầu về núi, lại quay về với tư duy nô lệ. Mỗi
lần như thế Việt Nam có hàng loạt Kinh Kha tráng sĩ, thề sống chết với
lập trường kiên định cho một lý tưởng, có thể gọi tên là “đại cục”, đại cục của
Thái tử Đan, ngày nay là đại cục của Tập Cận Bình. Phải chăng, bản thân Kinh
Kha tráng sĩ nhìn đại cục của Thái tử Đan qua bàn tay của người đẹp bị trương sình
trong máu me, bởi các ảo ảnh Công Hầu Khanh Tướng, dưới cờ của Đan? Trung Quốc
thì có quá nhiều Thái tử Đan, mà Việt Nam thì có những thời kỳ Kinh Kha nhiều
như nấm. Điển hình là Việt Nam thời Cải Cách Ruộng Đất, bao nhiêu con người bị
sát hại bởi tư duy “sáng tạo”, hay vì “đại cục” do Mao chủ trì? Ngày nay cũng
có những Kinh Kha kiên định vì một “đại cục” có tên gọi khác, bằng ý thức hệ
hoành tráng hơn? Có gì khắng khít hơn là 16 chữ vàng?
Trong mọi thứ nô dịch, có nô dịch về tư duy là tai
họa thê thảm nhất. Tôi không có ý lạm bàn về chủ nghĩa Mác. Chủ nghĩa ấy ra đời
có cái lý của nó. Nó phát triển và tiêu vong cũng có cái lý của nó. Mác đã trở
thành Mác của Lênin khi sang đất Nga. Mác - Lênin trở thành Mác và Lê của Mao
khi sang Trung Quốc…, và công khai không giấu giếm biến nó thành “màu sắc” của
mình. Ấy là Trung Quốc.
Còn Việt Nam?
Cách đây khoảng 20 năm, một tiến sĩ ngành Hóa học –
GS Chu Phạm Ngọc Sơn – đã có một ví von, qua câu chuyện tâm tình riêng, sau một
đợt học tập về chủ nghĩa xã hội: “Có 5 thứ hóa chất bất kỳ đem trộn vào
nhau, rồi dùng các biện pháp quay ly tâm dưới các loại nhiệt độ khác nhau. Kết
quả, chúng lẫn lộn quay cuồng vào nhau, nhưng chất nào vẫn là chất ấy, chạy
lòng vòng mà không kết dính để hình thành được một sản phẩm mới nào cả”.
Hỗn hợp ấy gọi là Việt Nam xã hội chủ nghĩa, hay là
Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam. Từ quan tới dân chưa ai hiểu nó là cái gì.
Nó quanh co, lòng vòng và ú ớ vô nghĩa, tuy tốn rất nhiều xương máu. Tiếc thay,
thế mà đã có biết bao nhiêu con người vô tình theo bóng “Kinh Kha” – không vì
món quà bàn tay bị chặt – đã kiên định lập trường, chiến đấu cho nó, hy sinh
hết đời cho nó.
Việt Nam có không một tinh thần tự mình dám bước
lên phía trước? Bước trước với chính mình. Đó cũng nên là một nghi vấn lịch sử.
Tư tưởng “theo đuôi” như là một hình thái phổ biến, và cuối cùng có những lúc
không biết cái đuôi nào để bám theo.
Nguồn gốc phải chăng là do cái gen tư duy nô lệ của
người Việt, hay do tư duy của giới cung đình, của giới “hủ nho”, nay là “hủ
Mác” cai trị?
Chắc chắn có những người Việt Nam yêu nước sẽ phê
phán: Bạn là ai, có phải là người Việt không, mà lại dám tự sỉ vả dân tộc mình?
Thưa, là người Việt, nhưng không sỉ vả. Chỉ là một
câu hỏi mà thôi. K. Marx đã từng nói mỉa mai về nước Đức của ông: “Thần dân
nước Phổ xứng đáng có một vua Phổ như vậy!”. Ít ra đó là một thời kỳ, mà dân
tộc Đức đã từng có câu trả lời xác đáng, để biết họ là ai. Người Việt Nam sao
không dám tự hỏi?
Tại sao cả dòng văn học Việt lại ca ngợi Kinh Kha?
Cái dũng của Kha có tính chất gì? Bên trong cái dũng ấy là gì, có phải cái dũng
của Dịch Nha? Cái chữ “trung” ấy có phản nhân tính hay không? Và đặc biệt, trí
tuệ trong tư duy sáng tạo ở đâu? Trong bối cảnh quan hệ Việt - Trung, ai là
Kinh Kha, ai là thái tử Đan trong gần 100 năm qua?
May thay, nhân vật Kinh Kha tráng sĩ, chưa
phải là câu chuyện được truyền tụng phổ biến trong dân gian Việt Nam. Phải
chăng vì tính triết lý vô lương và man rợ đảo điên của nhân vật giả nhân giả
nghĩa này không được người dân ái mộ? Với Việt Nam, thà là một anh Lục Vân Tiên
tỉnh lẻ, đui mù nhưng đa tình, có nhân tính. Kinh Kha không khác gì anh hùng
“Lôi Phong” mà Mao đã dựng lên cho cả nước Trung Quốc học tập.
Lùi lại vào thời kỳ cuối triều Nguyễn, giới lãnh
đạo triều đình đã từng bác bỏ tờ trình của sứ thần đi Tây du về, rằng đèn chúc
ngọn mà sáng, xe hai bánh mà chạy được là chuyện không thể có trên đời. Vẫn một
lòng hướng về Bắc quốc để “cùng nhau/lẫn nhau” (2), kẻ trước người sau
cùng lạc hậu và rơi vào vòng nô lệ của phương Tây ngót 100 năm (Việt Nam), hay
150 năm (Trung Quốc). Ngày nay thì cũng “cùng nhau” có chung một “ý thức
hệ”, mà Việt Nam thì mang màu sắc Kinh Kha tráng sĩ, còn đòn phép thì
vẫn là của thái tử Đan, hay là Tập thái tử?
Bàn tay của một con người – dù trai hay gái, đẹp
hay không – tượng trưng cho sinh mạng của bao con người, cho sinh mệnh của một
đất nước, có đáng là một món quà tặng để ai đó làm “Kinh Kha tráng sĩ”?
“Kinh Kha” sẽ đi Mỹ
Trong chuyến Mỹ du sắp tới đây, không biết “Kinh
Kha Việt Nam” có dám mang theo một con “trủy thủ” nào hay không! Bàn tay
đẹp bị chặt lìa – mang màu sắc xã hội chủ nghĩa – có còn là nguồn động viên để tráng
sĩ liều mình vượt sông Dịch (hay là Biển Đông) và mang theo một bửu bối –
đúng ra là chiếc dao cùn – như tráng sĩ đã từng mang đến Cuba dạo
nọ?
Sài Gòn 26-5-2015
H.Đ.N.
(1) Tề Hoàn Công ăn xong, hỏi:
- Thịt gì mà ngon thế?
Dịch Nha tâu:
- Đó là thịt người.
Tề Hoàn Công thất kinh, hỏi:
- Nhà ngươi lấy ở đâu?
Dịch Nha tâu:
- Trộm nghĩ, đã trung với vua thì không kể gì tình
nhà. Tôi có đứa con trai lên ba. Tôi đã làm thịt dâng cho Chúa Công nếm cho
biết vị.
Tề Hoàn Công cho rằng Dịch Nha có lòng trung nghĩa,
nên từ đó có lòng yêu quí.
(2) “Cùng nhau”, “lẫn nhau” là
từ ngữ dùng trong các “Thông cáo chung” được ký kết giữa Tổng Bí thư Nguyễn Phú
Trọng với Hồ Cẩm Đào, với Tập Cận Bình, nói lên tính thân ái và bình đẳng,
cùng vai vế, lại chứa bên trong một sự bất cân xứng, trơ trẽn đến nổi gai
ốc.