Tác giả: Trần Thiện Phi Hùng
Làm sau để chôn hai chế độ? Là câu hỏi đươc trả lời trong bài viết mới
nhất của tác giả, 40 năm sau khi một chế độ đã bị chôn. Trần Thiện Phi Hùng là
tác giả có tên trong danh sách nhận giải Viết Về Nước Mỹ 2013. Tác giả cho biết
ông nguyên là lính Hải Quân VNCH; tự lái tầu vượt biển năm 1982, hiện định cư
tại Úc. Thư kèm bài, ông viết “Tôi vào lính năm 18 tuổi. 12 năm 4 tháng làm
lính. 35 năm chưa về lại VN. Không biết, không hiểu, nên không dùng được từ ngữ
mới sau 75. Hơn nửa thế kỷ mới viết lại, nên sai nhiều chính tả mong ban biên
tập sửa cho. Chuyện cải tạo Vườn Đào và người tù về sớm nhất có thật 100% là
tôi. Phi Hùng.
"Tượng nào cao bằng tựơng Trần Hưng Đạo
Lính nào xạo cho bằng lính Hải Quân".
"Tượng nào cao bằng tựơng Trần Hưng Đạo
Lính nào xạo cho bằng lính Hải Quân".
Tôi sáu năm làm lính, thêm sáu năm làm quan, binh chủng Hải Quân. Xạo là
chuyện đương nhiên.
Xứ VNCH ta, Bộ Binh, Không Quân chỉ có 4 vùng chiến thuật nhưng Hải Quân có
vùng 5 Duyên Hải; Phú Quốc, Côn Sơn. Như nhiều chàng lính biển khác, tôi có
thừa tài xạo. Xạo như thật. Xạo với gái bán bars, xạo cả với thượng cấp, nhưng
không dám xạo với gái nhà lành, vì tôi rất sợ vướng nợ giai nhân rồi dính lưới
hôn nhơn. Đời lính biển đầy những chuyến hải hành dài cả tháng mà có vợ thì xác
suất nuôi con của thiên hạ rất cao.
Thôi thì cứ xạo với mấy em bán bar, mấy cô chịu chơi cho đời vui cái đã
rồi tính.
Cùng dòng họ Trần Thiện như tôi, có một ông Đại Tướng, 2 ông Đại Tá, mấy
chục ông tá, ông uý.
Ông bà nội tôi là loại điền chủ sau khi đã bị chánh phủ VNCH mua lại bởi
luật người cày có ruộng; vẫn còn 100 mẫu để canh tác và 15 mẫu ruộng hương hỏa.
Cha tôi là một triệu phú có đủ thứ, villas, nhà lầu 4 tầng với mấy chục phòng
cho Mỹ mướn rồi sáu bẩy căn phố. Tôi thằng con trưởng nam, vậy mà không được ai
nuôi cho ăn học. Ngay khi biết mình 18 tuổi, tôi tự nguyện vào lính hải quân dù
chưa nhận được lược giải cá nhân.
Làm lính chưa đầy 6 năm tôi mang lon Thượng sĩ, năm chưa tròn 24 tuổi;
đi đâu cũng bị quân cảnh xét giấy tờ coi có mang lon giả hay không. Tôi chỉ
mong hết 5 năm để giải ngũ, nhưng rồi chiến cuộc leo thang nên bị lệnh lưu ngũ.
Sau đó, tôi đi học làm quan, thăng cấp từ chuẩn úy lên trung úy thì tự động.
Dù làm lính hay làm quan, tất ba gai không bỏ. Gái đến cầu tàu rủ rê đi
chơi thì dù đang gác cũng đem súng giao cho sĩ quan trực và bỏ đi chơi 5 ngày
sau mới về; vì đi 6 ngày bị cho là đào ngũ nên chiều ngày thứ 5 là tôi về trình
diện và vui vẻ nói lý do là "Tại gái xuống tận cầu tàu rũ đi chơi" và
vui vẻ đi tù.
Từ đầu tháng Tư 1975, ngay khi thấy chộn rộn, nhiều người tìm đường ra
đi, tôi đã chọn đã chọn ở lại. Là sĩ quan hải quân, tôi mà muốn ra đi thì tàu
nào cũng lên đi được hết. Tàu nào cũng có bạn cùng khóa lính hay khóa quan hay
cùng đơn vị khi xưa; Hơn nữa, nơi tôi phục vụ là Trường Chiến hạm của Bộ Tư Lệnh
Hạm Đội, chuyên huấn luyện tác chiến và thanh tra các chiến hạm của hải quân
nên gần như quen biết rất nhiều. Những thường dân mang cả gia đình đứng lớ ngớ
trước Hải Quân Công Xưởng muốn vào phía trong để xuống tàu mà không vào được
tôi còn dẫn dùm vào. Tôi xa mẹ từ thuở nhỏ nay chỉ muốn được sống bên mẹ của
tôi mà thôi. Tôi tự tin là dù hoàn cảnh nào, mình cũng có thể xoay trở để sống
còn.
Chiều 30 tháng Tư, lần đầu tiên tôi đến nhà ba tôi. Đứng trên sân thượng
của building 4 tầng trên đường Chi Lăng, nhìn những chiếc T. 54 của Quân Bắc
Việt từ bệnh viện ung thư và tòa hành chánh tỉnh Gia Định quẹo qua đường Chi
Lăng ngang bót Hàng Keo qua trước nhà ba của tôi để tiến về Dinh Độc Lập. Tôi
rơi nước mắt. "Thế là hết; Tôi thua trận; Tôi bị mất Nước!"
Tôi rời bỏ Biên Hòa về quê mẹ nhưng bị truy tìm nên phải về quê của Ông
Ngoại và 15 ngày sau mới trình diện ở Quận Chợ Gạo. Hai tháng sau khi trình
diện, tôi được đưa đến tập trung ở Đình xã Tân Lý Tây. Ngôi đình nầy được cho
là linh thiêng vì không bị dấu vết của bom đạn. Ở đây chúng tôi phải khai lý
lịch chừng chục lần trong 2 tháng. Ngay lần khai đầu tiên, tôi hiểu ngay đây là
lúc phải xài tài ba xạo. Mấy ông họ hàng Trần Thiện theo phe quốc gia không
dính gì đến tôi. Bố mẹ, chú bác anh em nhà tôi đều theo kháng chiến, có cả lô
tử sĩ. Nhiều lúc đang ngủ bị dựng dậy bắt khai lý lịch vì lệnh trên bắt khai
lại. Lý lịch của tôi là lý lịch xạo thì làm sao nhớ mà khai cho đúng y như nhau
nên phải chép thật nhỏ giấu vào trong bâu áo. Mỗi lần khai là lần lấy ra xào lại.
Sau đợt lý lịch, một ngày Thứ Bảy gần tối, cả bọn trình diện được lùa
lên một đoàn xe GMC và xe hàng loại chở heo đến. Lệnh chỉ ngắn gọn,
"chuyển trại", không cho biết sẽ đi đâu. Xe chạy về hướng Cai Lậy,
một bên lộ là con kinh. Một tên trên xe nói tới Mỹ Phước Tây rồi.
Mỹ Phước Tây cái tên nầy nghe quen quá. Tôi cố moi trí nhớ. Phải rồi,
đây vùng nằm giữa Đồng Tháp Mười, trên đường đi Mộc Hóa.
Qua Mỹ Phước Tây chừng 2 hay 3 km, xe dừng lại. Cán bộ coi tù cho biết
đây là Trại Cải tạo Vườn Đào. Tên Vườn Đào là vì ngày xưa có người lập vườn
trồng đào lộn hột nhưng rồi bỏ hoang. Trên chục dãy nhà lá dài hàng mấy chục
thước. Vào trại, tôi được một số trại viên cũ cho biết họ bị bắt trước ngày 30
tháng 4 và đưa về đây, lùa đi đốn cây làm nhà cho trại. Chúng tôi được chia ra
25 người vô một tổ. Trải nylon quấn mền ngủ qua đêm vì quá tối không thể tìm
cách giăng mùng.
Trại cải tạo Vườn Đào đúng là cái trại tù không giống bất cứ nơi đâu.
Trong trại không ai nhìn ra tôi. Tôi nhận ra một Thiếu úy ngày xưa ở quân trường
Nha Trang tôi làm Đại đội trưởng của hắn nhưng nay nhìn tôi hắn ta ngó lơ. Thế
cũng là tốt.
Thời mới đến trại Vườn Đào, tôi nhờ được Mẹ lên thăm vừa tiếp tế vừa dúi
tiền cho, nên ăn no xài bảnh. Nhưng những ngày tù “huy hoàng” cũng tới lúc kết
thúc. Đổi tiền. 22 tây tháng Chín, 1975, tôi còn trên 100 ngàn, phải chia cho
bạn bè đổi dùm. Cán bộ đưa cho mấy đồng còn bao nhiêu giữ lại. Vậy là hết thời
vung vít.
Trong trại, ngoài màn lao động còn đủ kiểu họp hành, bắt viết đủ thứ “tự
khai” rồi “thu hoạch.” Anh nào bị gọi lên “làm việc” là có chuyện vì bị báo cáo
gì đó. Tự biết mình khai lý lịch xạo, muốn yên tôi đóng luôn vai dữ, sẵn sàng
đập lộn. Hăm he và thừa cơ đánh vào chỗ yếu của thiên hạ là cách sống còn mà
trường đời dạy tôi. Nhược điểm là thằng nào cũng muốn được thả về sớm. Tôi thì
tuyên bố tao không cần ra sớm. Tiền bạc mẹ và em của tao đủ sống nhiều năm nữa;
Tao không cần ra sớm vì tao biết không thể nào ra sớm; Thằng nào cà chớn tao
đập để cùng nhau ở trại tù muôn năm cho vui.
Đòn phép này có vẻ hữu hiệu, vậy mà yên được ít lâu, rồi cũng có ngày
tôi bị gọi đi trình diện “làm việc”. Chắc là bị báo cáo gì đây. Trước khi đi,
tôi còn hâm he:
Tao mà bị gì thì thằng nào báo cáo nên trốn đi chứ không thì đừng trách
tao nặng tay.
Người chờ “làm việc” với tôi không phải tay cán bộ coi an ninh trại mà
là một Trung Úy cán bộ người Miền Nam nằm vùng Đồng Tháp Mười. Ngay khi gặp
mặt, anh ta tự xưng là “chính trị viên” và trấn an tôi ngay:
- Tôi gọi anh lên chỉ để nói chuyện chơi cho biết thôi, không có gì quan
trọng.
Sau đó, tôi còn được mời ngồi, rồi chính viên trung uý cán bộ này đưa
thuốc lá của anh ta ra mời hút.
- Tôi vừa đọc xong mấy bài thu hoạch của anh. Anh là văn sĩ à?
À thì ra anh ta thích đọc “văn xạo" của tôi. Trong tự khai rồi thu
hoạch của tôi, mẹ tôi từng là cán bộ huyện Giồng Trơm tỉnh Bến Tre từ thời
Thanh Niên Tiền Phong chống Pháp và cha tôi thì thời đầu kháng chiến từng là
đồng chí của tướng Trần văn Trà. (Thực sự thì Ba tôi có một thời tham gia kháng
chiến, biết Trần văn Trà trước khi ông rời khỏi chiến khu về thành) Chuyện trò
lan man, anh ta còn hỏi làm sao bài tôi viết đề cập tới nhiều người chính anh
ta cũng chưa biết.
Sau hơn tiếng đồng hồ được mời trà mời thuốc, trước khi ra về, viên
Trung Uý còn bảo tôi cứ về trại an tâm tin tưởng cách mạng luôn có tình có lý.
Được thả về trại bình an, bạn tù vây quanh thăm hỏi việc gì vậy, tôi trả lời:
- Trung Úy Chính Trị Viên (thay vì nói là cán bộ) kêu tao lên hút thuốc
nói chuyện chơi và khen bài viết của tao có thể xuất bản thành sách cải tạo!
Tù cải tạo được cán bộ gọi lên nói chuyện chơi mà không có gì hết thì
đúng là “đáng ngờ." Saù đó tôi thật là thoải mái dễ sống, không tên nào
dám báo cáo gì hết.
Một hôm, vừa cơm trưa xong tôi bị kêu lên gặp cán bộ. Vẫn viên trung uý
chính trị viên lần trước, nhưng lần này anh ta không ngồi văn phòng mà đứng sẵn
trên bậc thềm khu cơ quan đón tôi. Sau màn chào hỏi, anh ta vui vẻ dẫn tôi lại
văn phòng thuộc khu của trưởng trại, bảo tôi chờ phía ngoài. Anh ta vào phòng
một lát rồi đi ra, bảo tôi bảo “Hôm nay anh sẽ làm việc với đồng chí bí thư,
tôi sẽ gặp anh sau.“ Nói xong, viên trung uý ra dấu cho tôi đi tới phía văn
phòng cửa mở sẵn rồi bỏ đi. Tôi đứng lại tần ngần bên cửa, đang tự hỏi không
hiểu chuyện gì thì từ trong phòng, một giọng nữ miền nam vang ra:
- Anh vô đi.
Giọng nói có vẻ lạ. Tôi bước vào phòng. Không thấy ai. Bàn làm việc ghế
ngồi bỏ trống. Vẫn cái giọng nữ ấy vang lên phía sau tôi.
- Anh ngó lui coi. Tôi ở đây.
Giọng nói vang lên ngay bên cửa, nơi tôi vừa bước qua. Không phải khăn
rằn. Cũng không bà ba đen. Một cô mặc áo sơ mi trắng ngắn tay bó sát chưa quá
ba mươi tuổi đứng khoanh tay bên cửa. Cô ta nhìn thẳng vào mặt tôi:
- Anh không nhớ tôi đâu nhưng tôi biết anh. Tôi biết anh đánh lộn trong
trại. Tôi biết anh khai lý lịch xạo.
A, phút nguy hiểm đã tới. Thì ra cái người mà viên trung uý gọi là “đồng
chí bí thư” là cô này. Phải coi cô ta là thứ người gì rồi mới liệu đường mà
thoát hiểm. Ai đây? Động nào, bars nào. Có phải mấy cô tôi từng gặp ở làng Cam
Ranh hay ở bến bờ nào đây?
- Anh đang cố nhớ mà không thể nhớ ra. Tôi không ở những nơi mà anh đang
nghĩ đâu. Anh cứ nhìn tôi coi có nhớ gì không?
Cô ta vẫn đứng yên bên cửa, vẫn khoanh tay nhìn tôi và như đọc được ý
nghĩ trong đầu tôi. Có vẻ thấy tôi giống như con nai vàng ngơ ngác giữa trời
mùa đông, cô ta nhắc lại điều vừa nói:
- Anh đừng cố tìm tôi trong những chỗ anh thường lui tới. Tôi không phải
loại đó. Thong thả, tôi sẽ nhắc cho anh nhớ. Chúng ta chỉ gặp nhau một lần.
Biết tôi không thể nhớ ra gì hơn. Cô ta tiếp tục:
- Có lẽ chưa đầy 30 phút. Nhưng tôi biết về anh. Tôi đã coi tất cả hồ sơ
của anh. Bao năm qua, tôi vẫn quyết phải tìm cho ra anh. Đầu tháng Năm, sau khi
ổn định tình hình; tôi lên Sài Gòn vào Bộ Tư Lệnh Hải Quân. Giấy tờ hồ sơ của
hải quân còn đầy đủ cả. Một người của chúng tôi nằm vùng ở phòng tổng quản trị
đưa cho tôi danh sách những người trình diện; còn anh ta thì tìm giúp tôi danh
sách các quân nhân hải quân trước 75. Có ba người trùng tên anh, tất cả đều là
sĩ quan. Một Trung tá là người Bắc di cư; một Trung úy người Nam và một thiếu
úy người miền Trung. Tôi biết anh người Nam. Trong danh sách sĩ quan hải quân
trình diện, tôi tìm thấy tên anh, một Trung úy người Nam, địa chỉ Tân Vạn Biên
Hòa. Tôi lên ngay Biên Hòa thì công an xã cho biết anh bỏ cây xăng trốn đi đâu
không biết. Anh đâu có trốn khỏi tay tôi.
À, đúng là một tay nguy hiểm. Không hiểu mình gây thù chuốc oán gì mà bị
săn lùng tới mức này. Chắc phải giả ngây giả dại mới qua khỏi ải này, tôi nghĩ.
Cô ta nói tiếp:
- Tôi biết anh đã trình diện. Sau khi có lệnh tập trung cải tạo tôi tìm
hầu hết các trại cải tạo miền Tây và đến Mỹ Tho nầy thì thấy tên anh; Lý lịch
anh khai ở trại này toàn là thứ ba xạo, đúng chưa? Con trai độc nhất trong nhà
như anh thì đào đâu ra mà có anh ruột là Thương Uý tập kết tử trận ở Cà Mau.
Anh muốn tôi kể thêm nữa không?
- Cô... Cán bộ. Cô...
Thấy “con mồi” đứng lơ ngơ chịu trận, cô ta có vẻ hài lòng, thong thả
rời chỗ đứng về lại bàn rồi bảo tôi:
-Trong trại này anh còn dám đánh lộn rồi còn tuyên bố chẳng cần được thả
sớm. Anh “chì” lắm ma, sao nay ú ớ vậy. Thôi, ngồi xuống đi. Bây giờ chú ý nghe
tôi nhắc. Anh nhớ Năm Căn không? Nhớ đi...
- Năm Căn Cà Mau?
- Còn Năm Căn nào nữa. Ngày ấy anh chỉ là một anh thuỷ thủ quèn mà làm
tàng... Nhớ đi. Rán coi. Tôi nhắc thêm nghe. Thấy trên cánh tay bọn tôi có bốn
dấu xâm, anh ba hoa giảng lung tung rồi bảo chúng tôi đi đi, mau mau về nhà lo
làm ăn mà kiếm tấm chồng...
À á. Năm Căn. Bốn vết xâm. Tôi bắt đầu nhớ. Chuyện đã mưới mấy năm
trước, hồi tôi mới vào lính. Sau 2 tháng được huyến luyện quân sự ở Nha Trang,
tôi xuống chiếc tàu Há Mồm ( HQ. 500) làm thủy thủ tập sự và được tham dự
"Chiến dịch Sống Tình Thương" ở quận Năm Căn, tỉnh Cà Mau; Đây là nơi
mà khi tàu ủi bãi, có mấy đứa con nít đến, dơ tay gõ vào thành tàu rồi la lên
“bằng sắt thiệt tụi bây ơi"; Chúng tôi thấy lạ kỳ nên hỏi vậy chớ các em
nghĩ tàu làm bằng gì. Bọn nhỏ nói các ảnh nói tàu làm bằng cạc tông.
Cũng trong chiến dịch này, có bữa địa phương quân đưa xuống tàu chúng
tôi ba nữ giao liên gửi cho hải quân giữ chờ hải thuyền đến chở giao về tỉnh Cà
Mau. Chiến dịch chấm dứt, tàu tôi được lệnh phải đi công tác khẩn chuyển quân
ra miền Trung. Chỉ huy tàu bảo ba cô giao liên chỉ là bọn con nít, chẳng biết
gì, cho lệnh phóng thích luôn. Tôi đang phiên gác với một ông Trung sĩ nên được
lệnh xuống phòng tạm trú dẫn ba cô lên bờ thả cho đi. Đúng là cả ba đều con
nít, hai cô 15 tuổi, cô lớn chắc cũng chỉ 16, 17 tuổi. Thấy trên cánh tay các
cô có 4 dấu xâm, tôi nói:
" Các cô có biết 4 dấu chấm xâm trên cánh tay ý nghĩa là gì không?
Sinh Bắc Tử Nam là để cho người miền Bắc vượt tuyến vào Nam thề chiến đấu cho
đến chết vì Bác vì Đảng. Các cô sinh ở miền Nam không lẽ Sinh Nam Tử Bắc hay
Sinh Nam Tử Nam thì chống lại với người Miền Bắc hay sao? Về xóa hết đi lo làm
ăn kiếm tấm chồng mà sống cho bình thường. Chuyện đánh nhau là chuyện của đàn
ông, con trai đừng xía vào cho khổ thân.”
Không lẽ chỉ nói chừng đó mà thành mối hận để bay giờ phải trả. Thấy tôi
nín thinh, cô cán bộ áo trắng nhắc tiếp:
“Anh nhớ thêm đi. Lúc anh bảo ba cô đi đi, tôi không chịu đi mà đòi anh
đem giao chúng tôi cho tỉnh Cà Mau. Anh hỏi tại sao thả mà không chịu đi mà đòi
giao cho tỉnh. Tôi nói chứ không phải thả đi để các anh bắn từ phía sau lưng
hay sao? Anh phá ra cười rồi hỏi ai bảo các cô vậy? Tôi nói nghe các anh lớn
nói. Anh hỏi lại nếu thả để bắn sau lưng thì còn ai sống mà kể lại cho các anh
lớn biết. Rồi anh tiếp là chẳng những hải quân mà tất cả các binh chủng khác
cũng không có binh chủng nào thả người rồi bắn sau lưng. Anh còn nói bắt người
thì phải đưa ra tòa xét xử, nếu có tội thì phạt tù chỉ khi nào giết nhiều
người, làm hại nhiều người thì mới bị kết tội tử hình công khai chứ không bao
giờ bắn sau lưng cả. Anh nhớ ra chưa?
Thấy giọngcô ta bỗng như dịu lại, không có vẻ gì là hằn thù, tôi làm bộ
như vừa chợt nhớ ra và kêu:
- A...A... Cô có thể cười cho tôi coi không?
- Có lẽ anh đang nhớ ra rồi; vì ngày đó anh có khen tôi cười có hai núm
đồng tiền nên dễ kiếm chồng lắm.
Cô ta nhìn thẳng vào mặt tôi và cười. Hai núm đồng tiền, bên phải sâu
hơn bên trái.
- Đúng rồi. Đúng cái mặt cười năm xưa. Tôi nhớ sau khi tôi khen cô bé
còn nguýt tôi một cái thật dài. Tôi nhớ hoài cái nguýt dài ấy.
- Ở đó mà cô bé, cô bé....
Tức thì thêm một cái nguýt dài trên mặt cô cán bộ. Đôi má núm đồng tiền
bỗng như linh động hơn.
Sau cái cười và cái nguýt dài của cô cán bộ áo trắng, tôi cảm thấy nhẹ
người.
- Anh nhìn lại coi. Hơn 12 năm rồi. Đâu còn con bé nào ở đây.
Đến lượt tôi cũng nhìn thẳng vào mắt cô ta và cười. Câu chuyện từ lúc
này bắt đầu thấy dễ chịu. Tôi nói:
- Sau khi đưa các cô tới gần cái chợ nhỏ bên sông, thấy chỗ an toàn, tôi
mới bảo các cô đi đi. Khi các cô đi qua khu chợ, tôi còn đi theo một đoạn canh
chừng. Không thấy cô ngó lui.
- Tôi không ngó lui nhưng biết anh đi theo. Chắc anh không thể ngờ là
khi về nhà rồi, ngay ngày hôm sau tôi còn trở lại khu bến sông ấy, nhưng tàu
của anh đã đi rồi.
- Tôi có nghe viên trung uý vừa rồi gọi cô là đồng chí bí thư. Chắc cô
đã là đảng viên lâu năm.
- Vậy là anh đã nghe. Đúng là tôi đã 12 tuổi đảng. Ngay khi trở về, tôi
được kết nạp đảng. Sau đó được chuyển về làm công tác nội thành, theo dõi thầy
cô và hiệu đoàn học sinh trường trung học Cà Mau nên tôi học thi lại Tú tài 1
và năm 65, tôi đậu luôn Tú Tài 2. Sau đó ít lâu, tôi chuyển về công tác nằm
vùng tại đại học Long Xuyên cho tới ngày giải phóng. Anh không biết là bao năm
qua, tôi vẫn tin là sẽ có ngày tôi gặp lại anh...
Tôi nói:
- Thì chúng ta đang gặp nhau ở đây. Hôm nay tôi đã là người tù. Cô là
người thắng trận. Ngày ấy, thấy trên cánh tay các cô có mấy vết xâm, tôi lỡ nói
mấy câu gì đó. Mong cô không để tâm.
- Anh khỏi cần phải mong. Mấy câu anh nói ngày ấy tôi không bao giờ
quên. Hôm nay tôi cố ý mang áo sơ mi ngắn tay để anh thấy trên tay tôi không
còn vết xâm nữa. Tôi đã xoá bỏ chúng từ lâu. Anh thấy chưa, không còn dấu vết
hay để thẹo gì cả.
Cô ta vừa nói vừa đưa cánh tay ra. Thấy tôi im lặng, cô ta nói luôn:
- Anh không cần phải sợ tôi. Hơn 12 năm trước, khi trở lại bến sông ở
Năm Căn tìm anh, tôi chỉ muốn anh biết là tôi cám ơn anh. Hôm nay cũng vậy.
Trước đây, khi bắt đầu đi tìm tung tích anh, tôi chỉ mong một lần gặp lại coi
anh sống ra sao, vợ con dùm đề thế nào. Khi coi hồ sơ, tôi đến địa chỉ ghi
trong lý lịch thì ra là nhà của ông ngoại anh chứ không phải nhà của mẹ anh.
Tôi hỏi địa chỉ và đến thăm mẹ anh ở xóm Tân Vạn. Chính bà than phiền với tôi
là cho đến nay anh vẫn còn độc thân. Nhìn hình trong nhà, tôi nhận ra anh ngay.
Bao năm qua, tôi không thể quên ánh mắt tinh nghịch nụ cười nửa miệng của anh.
Mẹ anh kể là mấy cô bạn anh toàn là gái giang hồ, bán bar. Anh sợ lập gia đình
nên không dám quen gái nhà lành. Mẹ anh nói có lần bà bảo anh cưới cô giáo nhà
bên cạnh nhưng anh nói không muốn có vợ vì sợ phải nuôi con thiên hạ. Anh biết
vì sao mẹ anh kể tôi nghe mọi chuyện về anh không?
- Vì cô hỏi thì bà kể. Mấy chuyện đó có gì đâu mà mẹ tôi phải dấu.
- Không phải vì tôi hỏi mà mẹ anh rất thương tôi, tự bà kể ra. Bà muốn
tôi phải biết tất cả về anh. Tại sao anh biết không? Tại tôi nói với mẹ anh
rằng tôi là người anh thương. Anh đã tính đưa tôi về ra mắt mẹ nhưng chưa kịp
làm. Tôi không chỉ nói mà còn ở lại với mẹ anh hai ngày hai đêm. Bà nói với tôi
không sót điều gì, từ ba anh tới bà con chú bác dòng họ. Mẹ anh còn nói bà
thiệt mừng khi thấy tôi tự đến ra mắt bà. Hôm nay gặp lại anh, chúng ta không
có nhiều thì giờ để vòng vo nên tôi phải nói luôn với anh chuyện này. Tôi thật
lòng muốn làm bạn với anh.
Một cô cán bộ 12 tuổi đảng muốn làm bạn với tôi. Chuyện thật khó tin.
Tôi nói:
- Cám ơn cô nhưng tôi chỉ là một tên tù không biết ngày nào về, làm sao
có thể là bạn của cô được.
- Ngày xưa anh từng mang tôi ra khỏi nhà tù, lần này, đến phiên tôi sẽ
cứu anh ra khỏi nơi này.
Chuyện tưởng như đùa nhưng cô ta nói nghe chắc như ăn bắp. Tôi từng nghe
chuyện lý lịch với phía cộng sản là sinh tử. Có nhiều cán bộ cao cấp tập kết ra
Bắc nay thấy con cháu đi tù cải tạo mà ngó lơ, không ai dám dỡn mặt với kỷ luật
đảng. Tại sao cô cán bộ này dám nói ra miệng là sẽ ra tay cứu mình. Cô ta là
thứ bí thư gì vậy. Âm mưu gì đây mà cô ta phải tìm đến ở với mẹ tôi mấy ngày
đêm để nắm hết lý lịch bí ẩn của tôi. Mẹ tôi vốn cả tin. Chưa bao giờ tôi mang
bất cứ cô nào về nhà ra mắt mẹ. Nay thấy một cô gái có vẻ con nhà lành dễ
thương tới xưng là người tình của thằng con, bảo sao bà ta không tin ngay mà
thương. Nhưng tôi đâu có khờ như bà mẹ mình được. Tôi nói:
- Cô đã biết hết lý lịch thật của tôi. Tất cả rồi sẽ bị phanh phui, chắc
tôi sẽ khó sống. Cô tuy có 12 tuổi đảng nhưng dính đến tôi sẽ có ngày liên lụy.
Xin cô tha cho tôi.
Cô ta cười to và nói:
- Anh khỏi lo dùm tôi. Tôi đã hứa là sẽ làm. Anh cứ sống bình thường như
mọi người trong trại là được rồi.
Cô ta đưa cho tôi một túi quà và nói:
- Đây là quà của riêng tôi biếu anh. Mẹ anh cũng muốn gửi quà nhưng tôi
nói bà cứ giữ đó. Tháng tới tôi sẽ đưa bà lên thăm anh. Thôi, anh về đi. Trưởng
Trại có lẽ sắp trở lại.
Tôi nhận gói quà, chào cô ta ra về mà gần như người mất hồn. Về tới trại
giam, tôi chỉ trả lời qua loa trước những lời dò hỏi của bạn tù.
Đúng như lời hẹn, tháng sau cô ta đi cùng với mẹ tôi lên thăm. Không
phải thăm riêng mà bình thường như bao người cải tạo khác. Cùng gặp một lúc tại
nhà thăm nuôi, chỉ 15 phút. Mọi lời lẽ tù nói với người thăm gặp phải diễn ra
trước mặt viên cán bộ phụ trách. Từ đó, cô ta tiếp tục đi cùng mẹ tôi đến thăm
tôi hàng tháng. Chẳng thể nói gì, tôi đành phó mặt cho số mệnh. Thấy cô cán bộ
12 tuổi đảng đóng vai phó thường dân ngồi cười cười bên bà mẹ thăm nuôi, tôi
nổi tánh lì, trò chuyện tự nhiên, đôi khi còn chọc cười như ngày xưa ở các bars
hay động. Tôi còn gì để mất? Cô ta muốn gì ở tôi? Tôi có gì để mà lợi dụng?
Thôi thì phó mặc cho số phận.
Tháng Một năm 1976, một buổi chiều vừa ăn cơm xong, sắp tới giờ điểm
danh vô chuồng, bỗng có cán bộ cầm danh sách đến gọi đúng tên tôi bảo thu dọn
gọn lẹ đồ đạc cá nhân mang theo ra điểm danh.
Bất ngờ gọi tên lúc chiều tối hẳn không phải lệnh tha. Thu dọn đồ đạc
mang theo kiểu này chỉ có thể là chuyện trại. Nơi tập họp điểm danh là sân
trại. Số tù được gọi ra điểm danh có hai mươi mấy mạng, trong số này có anh chỉ
còn một chân. Một cán bộ trẻ mang lon thiếu uý dẫn chúng tôi đi ra cổng. Không
thấy xe cộ gì. Cả bọn cuộc bộ, không thấy có quản chế súng ống kèm sát như khi
đi lao động. Một tên đánh bạo hỏi:
- Chúng tôi đi đâu đây cán bộ?
- Đi tới nơi làm lệnh tha.
- Tha về hả cán bộ?
- Bộ tha rồi không về ở lại ăn hại à?
Cả bọn nửa tin nửa ngờ; Trời bắt đầu tối. Thả vào giờ nầy, xe cộ đâu mà
về?
Cả bọn được dẫn ra đến nhà thăm nuôi. Đèn được thắp sáng. Có viên trung
uý xưng là chánh trị viên tôi từng gặp đợi sẵn. Thấy tôi trong đoàn người, anh
ta cười ra vẻ “hồ hởi” bảo hôm nay anh sẽ thấy cách mạng luôn có tình có lý.
Các anh tập trung lại bàn thăm nuôi khai lại địa chỉ và người nhà cho chính xác
một lần, sau đó sẽ nghe đồng chí trại trưởng tới nói chuyện.
Chừng nửa giờ sau, Đại Úy Trưởng Trại ra tuyên bố:
- Các anh thuộc diện gia đình cách mạng được bảo lãnh cho về; Kể từ giờ
phút nầy tuyệt đối không được liên lạc với những người trong trại; Từ đêm nay
các anh ăn ngủ tạm tại nhà thăm nuôi này. Cán bộ sẽ phát mền chiếu v, gạo và
lương thực để các anh tự nấu nướng. Ngày mai sẽ làm thủ tục nhận lại đồ ký gởi
và lệnh tha. Sau đó chờ liên lạc, gặp gỡ thân nhân bảo lãnh và làm lễ ra trại.
Trong mấy bữa chờ làm lễ, các anh tuyệt đối không được liên lạc với các trại
viên cũ.
Hôm sau, cả bọn được tập trung lên cơ quan nhận lệnh tha, tiền và đồ
dùng ký gửi. Riêng phần tôi, kiểm lại thấy còn vài trăm bạc mới. Ba ngày sau,
đã thấy đoàn người thân nhân trong đó có bà mẹ tôi có mặt tại nhà thăm nuôi.
Hai mươi mấy tên tù được tha, kể cả tôi, hầu hết đều do mẹ là người bảo lãnh.
Cán bộ ra đưa cho một số tiền để mua thức ăn làm bữa tiệc chia tay. Một
bà mẹ đến từ Cao Lãnh nghe nói trước là chủ nhập cảng các loại máy ghe tàu,
“xung phong” nhận sẽ “ủng hộ” thêm tiền chợ và còn tình nguyện lãnh đi chợ dùm.
Bà ta hỏi có thể cho một hay hai người đi theo mang phụ thức ăn. Cán bộ nói:
- Bây giờ thì các anh có thể đi tự do; muốn mấy người theo cũng được.
Thế là khu chợ gần Trại Cải Tạo Vườn Đào được một buổi chợ trúng mối.
Heo, gà, vịt, tôm càng, cá... rau cải mua nguyên thúng, nguyên sàn, hỏi giá bao
nhiêu là mua bấy nhiêu khỏi cần trả giá; tiền chợ được bà chủ Cao Lãnh xuất hầu
bao, mớ tiền chợ ít ỏi do trại phát có lẽ được bà mẹ nầy cất riêng để làm kỷ
niệm ngày con được ra tù.
Tiệc chia tay thức ăn ê hề nào gỏi, nào ca ri, cá hấp, tôm càng nướng,
thịt heo, gà, vịt luộc. Thế rồi tiệc cũng bế mạt. Thức ăn gần như còn nguyên vì
ai cũng chỉ nếm cho có vị và cán bộ cũng không dám ăn bửa tiệc giá đáng mấy
chục lần số tiền cho để làm tiệc. Mấy Bà xin đem thức ăn cho mấy người trong
trại thì cán bộ không cho bảo phải đem chôn hết.
Ra khỏi trại mọi người đứng chờ đón xe Mộc Hóa để về Cai Lậy. Từ phía
hàng rào trại, thấy lố nhố người đứng trông ra. Tôi quay lui, cũng không dám
nhìn lâu không còn nhận được dáng của đứa nào!.
Tôi nói với Má:
- Mình đi lần, bao giờ có xe thì đón. Chứ đứng đây chờ nhìn vào các bạn
trong kia nhìn ra, con thấy bất an!
Tôi và má Tôi đi lần dọc theo lộ. Tất cả gần như thấy vậy cũng đi theo.
*
Là người tù trại Vườn Đào được về sớm, tôi biết thân ở yên với mẹ già. Chòm xóm
không thấy làm khó dễ.
Sau khi được trao trả quyền công dân, tôi còn được cử ông Nông Hội Ấp đề nghị
tôi làm trung đội trưởng lao động ấp; mọi người vỗ tay tán thành. Thế là từ đó
ai thấy tôi đến nhà là biết bị gọi đi lao động không công cho XHCN, nào đào
kinh, lấp kinh, rồi nước đọng cây trái bị úng nước, ruộng lúa bị ngập nước
không rút kịp lâu ngày cây cối chết, lại phải đi phá đập, vác lúa thu thuế...
Tôi không dám nhìn khi thấy bà con nông dân ai cũng đầy nước mắt khi bồ lúa vơi
đi hơn phân nửa để đóng thuế. Nghe nói lúa thuế được chở tiếp tế cho Miền Bắc.
Mỗi tháng Cô Bí Thư đều đem nhiều khô mắm từ Cà Mau lên thăm Tôi và ở
chơi 3 hay 4 ngày. Cô ta ngủ chung với mẹ tôi, vẫn có vẻ được bà thương mến,
tin cẩn. Tôi cũng không nói hay hỏi gì thêm ngoài việc cho mẹ biết là bà đã vô
tình đem sói vào nhà vì cô ta là bí thư trên 12 tuổi đảng.
Cũng có lần cô ta biệt tăm luôn 3 tháng; rồi một hôm bỗng đến thăm với
nhiều quà từ miền Bắc. Cô cho biết vừa đi tập huấn ở Hà Nội về. Tôi hỏi:
- Em sáng mắt ra chưa?
Cô ta lườm và nói:
- Anh chưa thấy quan tài nên chưa biết đổ lệ!
Đầu năm 1980, Cô ta đến thăm và tối hôm đó có mặt mẹ của tôi. Cô ta nói:
- Mẹ muốn em lo cho anh ra đi; nhưng em có điều kiện là anh phải nhận em
làm vợ cho đến khi định cư rồi sau đó tùy anh. Em cho anh một tháng để nghĩ suy
và trả lời em.
Mẹ tôi khuyên tôi nên nhận cô ta làm vợ vì cô ta thương tôi thật sự. Tôi
thì nghĩ không hẳn. Cô ta bỏ nhiều công phu tìm tôi, giúp tôi và nay muốn cùng
tôi vượt biên với tư cách là vợ một sĩ quan hải quân để làm gián điệp như bao
trường hợp nằm vùng khác, có người làm tài xế, người giúp việc trung thành tận
tâm cả chục năm nhưng sau tháng tư đen thì mới lòi mặt thật. Nhưng đâu còn
đường nào khác để tính.
Chưa đầy một tháng sau cô ta lên và bảo tôi chỉ đem theo một bộ quần áo
gọn nhẹ để mai đi. Tôi hỏi:
- Em chưa biết anh có đồng ý hay không mà bảo ra đi.
- Thông minh như anh thì không bao giờ bỏ mất dịp may, vì anh không mất
gì cả, kẻ mất nhiều nhứt là em nhưng là em tự nguyện; Mọi chuyện ra sao sau này
anh sẽ biết.
Tôi hỏi cô ta có an toàn không.
- Anh có cần có tàu Hải Quân biên phòng hộ tống hay không? Nếu muốn em
cũng có cho anh.
Tôi nghe mà khiếp. Chẳng rõ cô ta nói đủa hay nói thật. Cỡ bí thư huyện
ủy cung không thể có quyền vào Bộ Tư Lệnh Hải quân xưa để tầm kẻ thù; Không hiểu
cô ta là thứ gì? Không ra hải ngoại để nằm vùng hay làm gián điệp thì còn gì
nữa? Nghĩ vậy nhưng thôi kệ. Cô ta làm gì hay là ai tính sau, cứ thoát ra khỏi
nước cái đã. Thế là chúng tôi từ giã mẹ ra đi.
Tàu vượt biên dài 12 mét mới toanh, máy cũng mới và số người đi là 52
người do một cựu hàng hải thương thuyền ngày xưa lái; nhưng cuối cùng 26 người
bị rớt lại vì ghe nhỏ chuyển ra ghe lớn bị chận giữa đường mà trong đó có gia
đình tài công. Cô bí thư hỏi:
- Anh lái được chứ ?
- Lái được nhưng không có bản đồ mà chỉ có la bàn thì phải chạy thẳng ra
hải phận quốc tế rồi theo hướng Tàu buôn mà lấy hướng đi thì sẽ sang Singapore
hay tấp vào các đảo của Indonesia.
Tôi lái suốt 5 ngày đêm mới gặp một ghe đánh cá của Indonesian và hỏi
thăm thì được chỉ cho một chỗ cách đó không xa. Tôi lái vào và ở đó một ngày
một đêm thì được tàu của Indo đưa đến trại tỵ nạn Kuku. Một tháng sau chúng tôi
được đưa sang trại Galang và dĩ nhiên trong lý lịch của Hải quân Trung úy VNCH
nay có thêm cô vợ bí mật nhiều phần là gián điệp.
Trên bước đường lưu vong quê người xứ lạ làm thân thất quốc, chúng tôi
cô đơn lạc lõng như nhau. Ngày qua ngày cả hai đứa đi học tiếng Anh về nấu cơm
chung rồi chung giường và thành vợ chồng thật.
Ở Galang tôi gặp lại bạn bè quân ngũ xưa; vì gần như mỗi tàu là có đôi
ba hải quân xưa được đi không tốn tiền để lái tàu. Quán Trùng Dương là nơi tụ
họp để nhận ra nhau kể chuyện xưa và bàn chuyện tương lai. Các cựu hải quân xưa
làm sổ lưu niệm giống như thời học trò viết lưu bút ngày xanh cho những tháng nghĩ
hè. Lắm ông ghi cả số quân đơn vị xưa và dán cả hình. Ôi các quan lính ơi Tôi
mà đem cái sổ nầy về thì e rằng cô bí thư mười mấy tuổi đảng sẽ lén ghi lại hết
gởi về Bắc Bộ phủ thì gia đình các ông cũng mà khó sống ở VN!. Tôi từ chối
viếtsổ lưu niệm và cũng không đến quán hội họp nữa.
Cũng tại trại Galang, tôi có người bạn trước là thiếu úy ngành điện khí
được mướn làm người gác máy điện phụ cho một thợ điện người Indo. Anh Indo nầy
khá am tường về tình hình VN và có phân tích như sau:
- Các anh vượt biên nghĩ rằng ra ngoại quốc rồi Mỹ sẽ giúp cho thành lập
một đoàn quân để trở về dành lại VN. Có lẽ các anh lầm rồi. Mỹ không bao giờ
giúp các Anh đâu vì giúp các Anh; Mỹ được lợi gì? Các anh đánh nhau mà nhiều nữ
tính quá. Nhân đạo với kẻ thù thì chỉ có con đường chết; Phải như chúng tôi
kìa. Chỉ một đêm thôi không một tiếng súng; toàn dùng dao, búa, mã tấu mà giết
cho tuyệt giống cộng sản. Chỉ một đêm là xong gần triệu mạng...
Sáu tháng sau chúng tôi được đi định cư. Tôi không tham gia đoàn thể
nào, không hội họp với cả hội đồng hương nhưng lúc nào cũng canh chừng cô vợ bí
thư đảng viên.
Cô ta cũng như tôi chẳng quen ai; đến cả dùng điện thoại cô ta cũng
không sử dụng. Mẹ tôi mất năm 83. Mẹ cô ta mất năm 84. Năm 90 ba tôi và ba của
cô ta cùng mất trong một năm. Chúng tôi nhận thư nhưng không về và đến nay cũng
chưa về. Chúng tôi đồng ý không có con. Tôi 72 và vợ 70 tuổi; nếu còn ở Việt
Nam, cô ta nay đã 52 tuổi đảng, không biết làm tới chức gì.
Mất nước bốn mươi năm, lưu vong hơn 35 năm, chúng tôi chưa bao giờ có ý
định về thăm lại quê hương. Trong lòng tôi đã chôn một chế độ và trong lòng vợ
tôi cũng chôn một chế độ. Chúng tôi không con nối dòng nên khi chúng tôi chết
thì "cả hai chế độ" cũng tan thành tro bụi. Với tôi, vậy là chôn xong
hai chế độ. Ngày ấy không xa.
Kỹ niệm 40 năm
Trần Thiện Phi Hùng