Ngà sắp về hết án. Một buổi chiều, Ngà ngập ngừng nói với tôi:
– Có điều này em định nói với bác, mà ngại.
– Chị em với nhau có gì mà ngại.
Ngà nịnh:
– Em cám ơn bác, cả trại phải cảm ơn bác vì hôm chủ nhật nếu bác không làm
um lên thì ai cũng chết khát cả. Chúng nó ác thật, bắt cả tù nhịn uống nước.
– Việc đó là họ sai mười mươi, người tù nào cũng có thể lên án và yêu cầu họ
phải cung cấp nước cho mình uống. Tôi vừa lau rớt rãi cho thằng Khoai Tây, vừa
lườm Ngà một cái.
Ngà gãi đầu, cười ngượng:
– Làm gì có ai dám làm như bác. Em mà ho he nó cho thằng Khoai Tây đi trại
trẻ mồ côi thì em mất con à.
Ngà đưa tay bế con, nhưng hai chân thằng Khoai Tây quặp chặt lấy tôi, tay
túm chặt cổ áo, gỡ mãi nó mới chịu buông. Hôm nào cũng lưu luyến như thế.
– Mà mày định nói gì với tao cơ mà? Nói đi.
– Nhưng bác không được chửi em nhé. Ngà mặc cả.
– Ừ, chửi gì mà chửi.
– Hôm nọ “mẹ” Thắng (1) đội 15 nói là sẽ mua thằng Khoai Tây. Nhưng em muốn
hỏi bác có muốn nuôi nó không thì em nhường. Tại em thấy bác yêu nó và nó cũng
quấn bác hơn cả mẹ.
Tôi sững người. Mấy hôm trước Hằng “đen” mách với tôi là Ngà tính bán con.
Nó còn đang lưỡng lự nên bán cho “mẹ” Thắng sắp hết án hay bán cho một bà dân
(2) gặp ngoài đồng. Dự định ra khỏi cổng trại là giao con và nhận tiền ngay.
Lần đầu tiên hai chữ “bán con” lọt vào tai tôi khi tôi mới lên trại. Đó là câu
chuyện người ta xì xào với nhau ngoài sân giếng buổi trưa hôm ấy. Nghe nói,
người vừa mãn án đã bán rất “được giá” đứa con trai hai tuổi khi vừa ra khỏi
trại tù. Tôi đánh rơi chiếc gầu múc nước vào chân, tóe máu.
Sau này, dù không làm rơi gầu múc nước vào chân nhưng hai chữ “bán con” vẫn
làm tôi rùng mình.
Mai Bích Ngà sinh 1982. Trước khi đi tù, vợ chồng Ngà sống chung với người
em gái ở phố Thanh Nhàn, quận Hai Bà Trưng, Hà Nội. Ngà bảo: “Ra tù em cũng
chưa biết đi đâu. Em gái em lấy chồng rồi, nó còn phải nuôi thằng em út nữa.”
Bố mẹ Ngà mất sớm, mấy chị em tự nuôi nhau. Tôi không hỏi kỹ cuộc sống của
ba chị em Ngà khi không có bố mẹ. Câu chuyện cuộc đời của những người tù, nhớ
không xuể.
Đến tuổi trưởng thành, Ngà lấy chồng- một anh chàng nghiện ngập. Rồi Ngà
cũng nghiện. Ngà bị bắt đầu năm 2010 và bị kết án 24 tháng tù giam vì tội “tàng
trữ trái phép chất ma túy”. Chồng Ngà cũng bị bắt thời gian ấy. Khi bị tống vào
Hỏa Lò, Ngà đang mang bầu đứa con thứ ba, thằng Khoai Tây.
Ngà bị đưa tới trại 5 Thanh Hóa vào mùa hè năm 2011, khi Khoai Tây đã được
mấy tháng tuổi. Người mẹ tù khoe với tôi:
– Em sinh nó đúng ngày 2- 9 nên đặt tên cháu là Quốc Khánh. Bác Nghiên thấy
tên cháu hay không?
– Ừ! hay, hay lắm! Nhưng nếu không có cái ngày Quốc Khánh chết tiệt ấy
chắc mày chưa chắc phải khổ, phải nghiện ngập. Con mày cũng như nhiều đứa trong
nhà tù này đã được sung sướng, chăm chút chứ không phải đi tù từ trong bào thai
như thế.
Mặt Ngà tái xanh khi nghe tôi nói một tràng:
– Úi! Em xin bác, bác nói thế có đứa nghe thấy nó mách là em chết. Em sợ
lắm. Vừa van nài, người mẹ trẻ vừa sợ sệt, đảo mắt nhìn quanh như kẻ ăn trộm.
– Tao nói miệng tao, mày sao phải sợ. Tôi cố tình trêu Ngà.
– Miệng bác nhưng tội thì em gánh. Em lợi dụng thằng Khoai Tây để được gần
bác. Chứ nếu không, quý bác đến mấy em cũng chạy xa. Bao nhiêu người bị đi uống
cà phê (3) chỉ vì nói chuyện với bác, bác biết thừa còn trêu em.
Suốt 18 tháng tạm giam, tôi chưa bao giờ viết đơn từ, thưa gửi ai. Trong các
bản tường trình khi làm việc với cánh điều tra viên cũng thế, tôi không bao giờ
viết trọn vẹn phần tiêu ngữ. Nếu viết cụm từ CHXHCNVN thì bỏ trong dấu ngoặc
kép nhưng không viết phần “độc lập – tự do- hạnh phúc”, hoặc để trống không
viết (thường là không viết). Tôi cũng không kính thưa, kính gửi ai cả mà chỉ là
“gửi:…” với những nét chữ cố tình viết cẩu thả. Mặc dù rất khó chịu
nhưng điều tra viên phải chấp nhận việc đó, nếu không thì chẳng có bản tường
trình nào hết.
Vậy mà khi lên trại, tôi phải phá lệ. Tôi làm đơn gửi trại giam để họ cho
trích một phần tiền lưu ký mua sữa cho lũ trẻ. Trước đó, đã có mấy bà mẹ bị đi
“uống cà phê” vì “tội nhận sự giúp đỡ của Phạm Thanh Nghiên”. Làm đơn vẹn cả
đôi đường, bọn trẻ có quà và mẹ chúng không bị đe nẹt, dọa dẫm. Duy chỉ có tôi
chịu ấm ức một tí, nhưng cũng chấp nhận được. Riêng thằng Khoai Tây thì ngoài
phần quà chung, tôi vẫn kín đáo giúp đỡ mẹ con nó. Mẹ tôi nghe chuyện, hàng
tháng gửi thêm tiền lưu ký để tôi khỏi thiếu thốn trong tù.
Tôi chưa bao giờ được đứa trẻ nào yêu như thế, kể cả những đứa cháu ruột của
tôi. Hầu như chiều nào tôi cũng bế Khoai Tây cho mẹ nó tắm giặt, cơm nước.
Thằng Khoai Tây tưởng tôi là của riêng nó. Nó ghen với bất cứ đứa trẻ nào tôi
bế trên tay. Chỉ cần ai đó giả vờ đánh tôi một cái là nó hét toáng lên, lao đến
túm tóc rồi cắn người ta. Hiếm có đứa trẻ nào có tiếng hét to và chói tai như
nó. Khi ấy nó còn chưa biết đi. Có hôm tôi phải trốn Khoai Tây, để được chơi
với những đứa trẻ khác.
Mẹ con Ngà thuộc thành phần “không gia đình”, tức không có người thăm nuôi.
Không một người tù nào có thể sống chỉ với những gì trại giam cung cấp. Vì thế,
phải cố mà xoay sở.
Xoay sở là mua bán, đổi chác, vay mượn, nhờ vả hay làm thuê (múc nước, lau
nhà, giặt giũ, rửa bát, làm khoán, đấm lưng, massage….) để có chút thức
ăn tươi mang về cho con hoặc cuộn băng vệ sinh cho mẹ dùng. Tất nhiên, những
thứ “xoay sở” ấy đều bị cấm, bị vi phạm “nội quy trại giam”. Đội “con nhỏ”
thường được phân công đi trồng rau, công việc theo mô tả của cai tù là rất “nhẹ
nhàng và được ưu ái”. Bất cứ bà mẹ nào cũng chỉ được ở trong trại đến khi con
đủ bốn tháng là phải “đi làm”.
Ra đồng cực nhọc nhưng có cơ may tiếp cận với một vài người dân gần đó để
nhờ vả. Khi thì nhờ mua giúp lạng thịt, con cá, hộp sữa, có khi là một cú điện
thoại gọi về cho gia đình. Tất nhiên là với giá tiền đắt hơn thị trường. Mua
được đồ ăn thì phải tìm cách nổi lửa nấu ngay tại hiện trường lao động. Khổ
nhất là lúc đang nấu bị cai tù trong trại ra kiểm tra phát hiện được. Có khi,
chúng lấy chân hất hết thức ăn xuống đất, tịch thu nồi niêu và luôn miệng chửi
mắng. Người tù không còn cách nào khác là “van ông lạy bà” (4) kèm theo chút
tiền đút lót để khỏi bị kỷ luật. Ai không có tiền, không khéo xin xỏ thì bị
dong về trại chờ lập biên bản kỷ luật, mất giảm án. Nấu chín thức ăn là một
chuyện, có mang được chót lọt qua cổng phân trại dưới sự khám xét của cai tù
hay không là chuyện khác. Xin mở ngoặc một chút, đối với những người được cai
tù “đỡ” (5) thì bất kể thứ gì cũng có thể mang được vào trong trại, thậm chí
đích thân cai tù mang đưa tận tay.
Chiều hôm ấy vừa nhập trại, Mỹ Lệ- người ở cùng buồng với tôi- hớt hải báo
tin:
– Cái Ngà bị đi kỷ luật rồi.
Tôi lo lắng:
– Làm sao mà bị đi kỷ luật?
– Nó mang một hộp sữa với ít thịt kho về, nó xin mãi mụ Nhung dứt khoát
không cho. Nó ức quá bảo mụ ấy là “ác”. Mụ ta tát thẳng vào mặt
nó mấy cái rồi tống vào nhà kho rồi.
Mỹ Lệ còn lẩm bẩm rủa thầm mụ cai tù thêm mấy câu đủ để mình tôi nghe thấy.
Ngà bị đi kỷ luật 10 ngày. Suốt thời gian vắng mẹ, thằng Khoai Tây phải ở
ngoài nhà trẻ (6) để những người tù khác trông nom. Nó khóc suốt. Án kỷ luật
dành cho Ngà như là một sự trừng phạt dành cho tôi, cho Mỹ Lệ và Hằng “đen”.
Giống như tôi, Lệ và Hằng rất thương thường cưu mang mẹ con Ngà. Vắng nó, chúng
tôi buồn ngẩn ngơ.
Không riêng gì Ngà, bất cứ người tù nào cũng có thể bị trừng phạt vì một lý
do rất “vớ vẩn” như thế. Bọn cai tù dùng “nội quy trại giam” để kinh doanh: gặp
cán bộ không chào; tự ý giúp đỡ, biếu tặng quà, đồ dùng cho nhau không xin
phép… đều là vi phạm. Oái ăm hơn, tù nhân là người dân tộc thiểu số không biết
tiêng Kinh mà giao tiếp với nhau bằng ngôn ngữ của họ cũng bị coi là vi phạm
nội quy. Nhưng cứ có tiền, thì dù dùng dao lam rạch mặt bạn tù cũng chỉ bị đi
kỷ luật vài ngày là xong. Trong khi, hành vi đó có thể bị truy tố trước pháp
luật.
Hai hôm trước khi mẹ con thằng Khoai Tây về, tôi đưa Ngà 200 ngàn và một
bịch sữa tươi. Để có 200 ngàn tiền mặt, tôi cũng phải tham gia trò chơi mua bán
đổi chác với những tù nhân khác, một việc mà tôi rất ghét. Tôi dặn đi dặn lại
Ngà đừng bán con.
– Bác tưởng em muốn thế hả? Nhà cửa không có, chồng đi tù, hai đứa lớn để
ông bà nội nuôi. Bố nó cũng như em nghiện ngập, tù tội. Đau đớn một lần nhưng
hy vọng nó đi ở nhà khác còn có tương lai. Bác cứ nguyền rủa em đi, nhưng bác
bảo em còn cách nào khác nữa? Nếu có được vài chục triệu đồng đút cho bọn điều
tra viên ngay từ hồi bị bắt thì em đã được tại ngoại, được hưởng quyền hợp pháp
là hoãn thi hành án vì đang mang thai.
Vừa nói Ngà vừa khóc. Tôi lặng người đi.
Tù nhân hết án được nghỉ làm từ ngày hôm trước. Vì thế, tôi được chơi với
thằng Khoai Tây nguyên một ngày. Ngà tặng tôi tấm hình Khoai Tây chụp lúc mới
biết ngồi.
Tôi đưa Ngà số điện thoại nhà tôi, dặn khi cần cứ gọi, giúp được gì tôi sẽ
giúp:
– Sáng mai em cứ cho con về, chị không tiễn đâu. Nhớ là 8 tháng nữa chị mới
về. Đừng làm mất số điện thoại nhé!
Sáng hôm ấy, Ngà trong dáng vóc gầy gò, xiêu vẹo bế con theo người cai tù
hướng ra phía cổng trại giam, thi thoảng ngoái lại nhìn như tìm kiếm. Cánh tay
trái cong queo vì bị gãy hồi còn trong Hỏa Lò, khó nhọc xách túi đồ nào áo nào
quần của thằng con. Toàn là quần áo bạn tù cho. Tôi đứng nấp sau cổng khu nhìn
theo, không để Ngà trông thấy. Thằng Khoai Tây tay cầm cái bắp ngô (chắc ai cho
từ hôm qua), vừa gặm vừa vần vò. Thằng Khoai Tây không biết nơi nó sinh ra và
vừa rời đi là nhà tù. Nó cũng không biết mẹ bế nó đi đâu. Nó mới hơn 1 tuổi.
Nước mắt tôi rơi. Câu chuyện về những người đàn bà trong tù bán con làm tôi
đau đớn, sợ hãi.
Tôi thẫn thờ mất mấy ngày. Những đứa trẻ còn lại trong nhà tù không làm tôi
nguôi nỗi nhớ Khoai Tây.
Tám tháng sau, tôi bấm máy theo số điện thoại Ngà để lại. Không có tín hiệu.
Và Ngà cũng chưa một lần gọi cho tôi.
Thằng Khoai Tây, tháng 9 năm nay sẽ tròn 5 tuổi.
Phạm Thanh Nghiên
Chú thích:
1: “Mẹ” Thắng: Những người tù trên 60, 70 tuổi thường được những người tù trẻ gọi bằng mẹ. Gọi như thế cảm thấy có “mùi” gia đình hơn.
2: Bà dân: Cách gọi để phân biệt người dân với người tù:
3: Bị (mời) đi uống cà phê: Chỉ việc người tù bị đi gặp hoặc phải làm việc với “cán bộ”. Thường là chuyện không may.
4: Van ông lạy bà: Quy định cách xưng hô giữa người tù với cai tù là “Tôi- cán bộ”, nhưng hầu hết người tù phải làm đẹp lòng cai tù với lối xưng hô rất mọi rợ là: “ông, bà” xưng “cháu”.
5: Nhà trẻ: Chỉ có ở phân trại dành cho tù nhân nữ. Khi đứa trẻ đủ bốn tháng tuổi thì các bà mẹ phải gửi con để đi làm. Có một đội gồm vài tù nhân nữ khác được sắp xếp công viêc trông trẻ.