Đôi lời vào
truyện:
Tôi tên
Nguyễn Bá Quang, là một sĩ quan QLVNCH cấp bậc Đại Úy thuộc đơn vị 101 P2/Bộ
Tổng Tham Mưu QLVNCH. Ở tù CSVN tại trại tù Tiên Lãnh, Quảng Nam, Đà Nẵng suốt
hơn 12 năm. Qua Mỹ với diện H.O.5 năm 1991. Hiện cư ngụ tại Califonia.
Trong thời
gian tôi ở tù chưa được thả, gia đình vợ con tôi vượt biển tìm tự do tại Cà Mau
tỉnh Minh Hải. Trong chuyến vượt biển hãi hùng ngày 22.2.1985 vợ và sáu người
con trai của tôi đã bỏ xác trên biển cả vì bọn hải tặc làm đắm thuyền. Ngoài ra
còn có cả nhạc phụ của tôi và các em vợ cùng các cháu đã chết một cách tức tưởi
trên chuyến tàu đau thương ấy. Chỉ còn sống sót người con gái yêu thương của
tôi tên Thùy Nhiên và dì ruột của cháu là Phạm Thị Sa. Năm 1975 mất nước, con
gái tôi mới có tám tuổi, khi CS Bắc Việt chiếm miền Nam chúng dọa nạt, đầy ải
gia đình của các sĩ quan QLVNCH đi cải tạo tại các trại lao động khổ sai. Vợ
con tôi phải đi kinh tế mới tại Cà Mau, Minh Hải, việc học hành khó khăn, cháu
chỉ học tới lớp bảy rồi phải bỏ lỡ dở đi buôn cá tại vùng ven sông thuộc Cà Mau
để kiếm tiền nuôi gia đình và các em trai còn nhỏ tiếp tục đi học, vì thế nên
cháu chỉ có thể thuật lại “Nỗi bất hạnh của đời tôi” một cách trung
thực. Là ba của cháu tôi cũng chỉ sửa những lỗi văm phạm, chính tả. Qua sự thúc
bách của tôi, cháu mới có thể thuật lại câu chuyện thương tâm, vì mỗi lần nhớ
lại những cảnh đau thương tang tóc của gia đình thì cháu đâm thẫn thờ, ngơ ngẩn
hết mấy ngày, và lòng tôi cũng quặn đau vô vàn. Hiện cháu đã lập gia đình và
sống với chồng con tại Úc.
“Nỗi bất hạnh
của đời tôi”
Sau bao tháng ngày mẹ và các anh chuẩn bị ghe thuyền, từng can dầu, tom góp
từng gói lương khô như gạo sấy, thuốc men v.v... một cách bí mật, ông ngoại,
gia đình bà dì ruột, gia đình của cha Liêm, từng tốp, từng tốp len lỏi trong
đêm tối lần lượt đến điểm tập trung tại bãi Đá Bạc, Cà Mau thuộc tỉnh Minh Hải.
Tất cả chúng tôi yên lặng lên thuyền, gồm có 22
người đã có mặt đầy đủ. Tiếng nổ dòn của máy lướt sóng ra khơi, mọi người chúng
tôi nín thở hồi hộp.
Qua mấy giờ lầm lũi chạy trong đêm, trời đã
sáng, ánh nắng chan hòa, chúng tôi đã rời khỏi hải phận Việt Nam, mọi người thở
ra nhẹ nhỏm, vui mừng, bồi hồi xúc động vì đã thoát qua được chặng đường đầu
đầy nguy hiểm và bất trắc nhất, vì nếu chẳng may mà bị VC bắt lại, thì bị tù
tội, tịch thu tài sản, tất cả đều mất sạch. Niềm vui thoát được khỏi bọn công
an VC đang miên man trong đầu óc mọi người, bỗng nhìn đằng xa có chiếc tàu lớn
hiện ra, tim
tôi đánh thình thịch,
tàu của ai đây? Của CS hay của thế giớ tự do? Càng lại gần thì càng hồi hộp,
một thoáng chán nản và sợ sệt hiện rõ trên nét mặt mọi người khi nhìn rõ màu cờ
máu Liên Xô, Thuyền của chúng tôi cố ý lái chệch hướng chiếc tàu lớn, cứ thế
tiến thẳng, đã qua thêm một sự nguy hiểm, và cũng vì thế thuyền đã chệch hướng
đi như ban đầu đã định trước của mình. Chạy thêm vài giờ nữa thì đằng trước
hiện lên một chiếc thuyền đánh cá treo cờ VC (cờ đỏ sao vàng), bên hông tàu
thấy hai chữ Kiên Giang. Giây phút trọng đại, mọi người như nín thở, từ thuyền
bên kia phát loa yêu cầu thuyền chúng tôi ngừng lại để cho họ kiểm soát.
Không thể để bị bắt, rồi phải ngồi tù, tài sản
bị mất sạch, nên thuyền chúng tôi quyết định mở hết tốc lực. Một loạn đạn AK nổ
dòn bắn về phía chúng tôi, tài công lúc đó là anh Hai Liêm của tôi bị thương ở
cánh tay, Mẹ bị thương ở bả vai, ông Ngoại bị thương nhẹ ở đầu. Thuyền bắt buộc
phải ngừng lại. Tất cả bàng hoàng chờ đợi những gì xấu nhất sắp xảy ra. Thuyền
Kiên Giang là thuyền đánh cá nhưng có cán bộ VC, công an mang theo súng, bọn
chúng bước qua thuyền chúng tôi lục soát từng người một kể cả những em bé 3, 4
tuổi, tịch thu một số vàng và tiền bạc (đô la) mà mọi người mang theo, chúng
lấy một máy lớn của thuyền chúng tôi và dọa sẽ đưa trở lại vào bờ giao công an
địa phương “xử lý”. Ông ngoại tôi là người lớn tuổi nhất trong thuyền, ôm vết
thương còn chảy máu trên đầu loang xuống mặt, cố gắng năn nỉ giải thích:
"Các anh cho chúng tôi đi, nếu đưa chúng tôi trở lại bờ Việt Nam thì các
anh chẳng có lợi gì cả, chúng tôi bị tù tội, tiền, vàng của các anh vừa tịch
thu thì cũng phải giao nạp cho công an thôi." Sau đó bọn họ cho chúng tôi
đi, và chỉ hướng cho tàu chạy.
Còn lại một máy nhỏ, thuyền tiếp tục chạy một
cách nặng nhọc, châm chạp lướt sóng tiến về vùng biển Thái Lan. Chạy được một
giờ đồng hồ nữa thấy có một chiếc thuyền giống thuyền đánh cá xuất hiện. Khi
thuyền này tiến lại gần không thấy treo cờ nước nào cả, nhưng dấu hiệu trên mạn
thuyền được bôi lem, chạy với tốc độ nhanh rồi quay đầu chận ngang thuyền chúng
tôi. Đã trải qua nhiều hiểm nguy, lần này tôi hồi hộp và lo sợ, tất cả như nín
thở. Những đứa nhỏ cũng biết được những gì nguy hiểm sắp xảy ra nên chúng ngồi
thu mình vào thành ghe im re trông thật tội nghiệp. Tất cả không một tiếng động.
Tiếng nói ở thuyền bên kia là một tiếng lạ không ai hiểu gì, lúc đó cha Liêm là
người biết tiếng Anh nói xin họ giúp đỡ. Toán người kia như không nghe biết,
với cử chỉ hung hăng dữ tợn, cặp vào thuyền chúng tôi la hét lục soát từng
người một. Một lần nữa vơ vét sạch những gì tàu Kiên Giang VC vơ vét còn sót
lại. Thấy kết quả lục soát chúng chẳng được là bao, chúng đi tìm những bộ mặt
một, nhất là nhìn chằm chằm vào những người đàn bà con gái. Mẹ tôi còn trẻ đẹp
nhưng vừa bị thương mất máu co ro, mặt mày tái mét nên chúng bỏ qua không để ý
tới. Chúng đến gần tôi và chị H, bạn gái của anh Hai, chúng liền nắm áo chúng
tôi kéo qua thuyền chúng nó.
Trước cảnh dã man này mấy anh tôi không kềm hãm
được nên đã có phản ứng binh vực em mình (tôi lúc đó mới được 18 tuổi, cô kia
xấp xỉ tuổi tôi hoặc lớn hơn một tuổi), nên đã la ó phản đối. Mẹ tôi cúi lậy
xin chúng tha. Ông ngoại, cha Liêm năn nỉ nài nỉ chúng chẳng nghe. Chúng đẩy
chúng tôi qua thuyền chúng. Phẫn uất trước hành động tàn bạo này, mấy anh tôi
đánh trả lại chúng. Chúng rút súng lục ra uy hiếp và chế ngự mấy anh. Lúc đó
chúng lôi chúng tôi xuống nhốt dưới hầm tàu tối đen. Từ đó không hay biết chi
nữa những việc xảy ra bên ngoài.
Sau khi bắt chúng tôi, chúng nổ máy cho tàu
chạy, sau đó quay trở lại đâm vào thuyền chúng tôi làm vỡ thuyền, thuyền chìm,
chuyện xảy ra tôi sẽ kể tiếp phần sau, khi tôi gặp lại người dì ruột tại trại
SongLa.
Ngồi trong hầm tầu tối đen mà lòng tan nát, tôi trấn tĩnh mình bằng lới cầu
nguyện với Đức Trinh Nữ Maria, hiện ra trước mặt tôi là hình ảnh của mẹ, các
anh, em tôi và ba tôi. Ba mẹ, các anh em tôi giờ đây trên biển cả mênh mông đã
trôi dạt về đâu rồi? Đã được tàu của thế giớ tự do vớt chưa? Ba tôi trong trại
tù CS tại trại Tiên Lãnh, Quảng Nam Đà Nẵng, ba là sĩ quan QLVNCH ở tù 10 năm
rồi tương lai sẽ ra sao đây. Tôi nhớ hết những người thân thương, đầu óc tôi
rối bời như có trăm ngàn mũi kim nhọn đâm vào quả tim bé nhỏ của tôi tan nát.
Chưa bao giờ tôi nghĩ đến hoặc tưởng tượng ra hoàn cảnh mà tôi phải gánh chịu như
hôm nay. Nước mắt tràn đầy ra má mà chẳng hay biết gì, nước mắt đã làm dịu cơn
khủng hoảng của tôi. Một niềm hy vọng loé lên trong đầu, chắc mẹ và các anh em
của mình còn sống sẽ được tàu vớt, sẽ vượt qua nguy hiểm để đến bến bờ tự do và
mình sẽ được gặp lại.
Ở trên tàu của bọn cướp được vài hôm, chúng
chuyển tôi qua tầu đánh cá thứ hai, còn chị H. thì ở lại trên tầu của chúng.
Chúng nói tiếng Thái với nhau tôi không hiểu một tí gì cả chỉ biết cảm nhận
theo linh tính của mình, thấy tầu này chuyên lo đánh cá, chắc là họ vừa đánh cá
vừa làm hải tặc ăn cướp chăng? Một tuần sau chúng lại chuyển tôi qua tầu khác,
cứ thế lênh đênh trên biển cả qua ngày thứ 51, ngày này chúng chuyển qua một
tàu khác nữa, người trên tàu có vẻ hung tợn dữ dằn hơn những chiếc tàu trước
đây.
Vào khoảng nửa đêm một tên đàn ông vào kéo tôi
dậy, nhìn cặp mắt nó, thấy dễ sợ như muốn ăn tươi nuốt sống tôi. Người tôi run
bần bật, miệng thầm đọc kinh xin ơn trên phù hộ cứ giúp. Chúng nó sờ mó và bắt
cởi hết quần áo, chúng nói gì với nhau tôi không hiểu, chỉ biết kẹp hai chân
cứng lại, hai tay ôm chặt lấy ngực, và nhìn vào vết thẹo nổi đỏ trên cánh tay
tôi. Lúc nhỏ khoảng hai tuổi bị tai nạn phỏng dầu làm đường đến 50% khi chữa
lành vẫn còn vết thẹo luôn ửng đỏ. Không biết ai xui khiến cho tôi cứ nhìn vào
vết thẹo ấy và kêu la thảm thiết. Bọn chúng nói với nhau những điều gì, tôi cảm
nhận như chúng e ngại về vết thẹo cuả tôi là bị bệnh phong cùi gì chăng? Sau
khi bàn bạc chúng đã xô tôi xuống biển không cho một vật gì có thể trôi nổi
trên mặt biển.
Nước lạnh làm tỉnh hẳn người, tôi đã thoát qua
những bàn tay con quỷ dữ, cố gắng đạp hai chân để người mình nổi lên trên mặt
nước (ở Cà Mau tôi sống bên sông nên bơi lội cũng khá giỏi). Trên biển giữa đêm
đen, không có gì ghê rợn bằng. Tôi cố sức mình chống chọi với bao ý nghĩ bi
thương, bản năng sinh tồn lại đến với tôi mãnh liệt, tôi kêu xin mẹ Maria bổn
mạng hãy cứu giúp tôi. Một lần nữa hình ảnh của mẹ, anh, em và Ba tôi ở trại
cải tạo lại hiện ra như khuyến khích tôi hãy ra sức cố gắng chống chọi với tử
thần để ráng sống may ra có người cứu vớt. Vì thế mà đã qua được năm tiếng đồng
hồ dưới biển lạnh.
Trời đã hừng đông, một tia hy vọng đến với tôi,
nhưng người càng ngày càng bị lạnh cóng, sắp sửa không chịu đựng nổi nữa rồi,
thì may thay, nghe có tiếng động cơ của thuyền chạy đến. Tôi cố giơ tay lên
nhưng thân hoàn toàn cóng cứng, rất may trên thuyền nhìn thấy, dừng thuyền lại
và vớt tôi lên. Nguyện xin đây là một chiếc thuyền làm ăn lương thiện để tôi
còn được sống an bình. Thật quả như lòng mong ước, tôi được những người này săn
sóc tận tình, cho quần áo để mặc, cho ăn uống đàng hoàng và dùng máy vô tuyến
gọi cảnh sát Thái cho tàu ra đón tôi vào bờ và đưa đến trại Song La và trại
Sikiw.
Hằng ngày ở trại, cô đơn lạc lõng, thân gái dặm
trường, hằng đêm nguyện cầu cho lòng vơi đi ít niềm đau. Mong chờ mẹ, anh em sẽ
đến với mình, nhưng càng ngày càng thấy bặt tăm vô âm tín, lòng buồn rười rượi.
Mỗi khi có người mới nhập trại tôi thường đến để cầu mong gặp người thân. Hôm nay
bất thần tôi thấy dì Sa em mẹ thất thểu bước vào trại, dì cháu gặp lại nhau,
nước mắt tuôn trào như mưa, và Dì đã kể lại những gì xảy ra kế tiếp khi tôi bị
hải tặc bắt qua tàu của chúng.
Sau khi bọn hải tặc bắt con và H qua tàu của
chúng. Vì không chịu nổi những uất ức các anh con đã phản ứng mãnh liệt đánh
lại chúng nó. Nhưng chúng có súng, nên các anh con đánh thúc thủ. Chúng lồng
lộn lên lục soát nát bét trên tàu, bắt mọi người cởi bỏ hết quần áo chỉ cho mặc
một quần lót mỏng, lấy hết những gì còn lại trên tàu, rồi rú máy cho tàu chạy.
Mọi người chư kịp hoàn hồn thì thấy tàu hải tặc
quay đầu trở lại, và chạy rất nhanh đâm thẳng vào hông thuyền của mình đánh
rầm, thuyền vỡ làm đôi, một số người văng xuống biển. Đồ vật nặng chìm xuống
nước, những vật nhẹ nổi lềnh bềnh. Trong lúc hỗn loạn, mỗi người đều bơi lội,
vớ lấy can đựng dầu, đựng nước làm phao. Các anh con, Chương, Long bơi vớt
những tấm ván để kết làm bè, kèm lên phần thuyền còn lại nổi trên mặt nước.
Phần bè và thuyền nổi cho mẹ, dì, con của dì và Đạt, Hoài, hai em con. Ông
ngoại và anh Liêm đã vĩnh biệt ra đi trong lúc thuyền bị đánh chìm vì cả hai
đều bị thương.
Trời bắt đầu sập tối, nỗi kinh hoàng xâm chiếm
lòng người. Màn đêm đem đến sự sợ hãi cho mọi người trong cảnh thập tử nhất
sinh, lạnh đói và khát, nhưng vẫn cố gắng bu lấy bên nhau, cùng nhau sống chết.
Thấy các em con vì đói khát và lạnh, quá tội nghiệp nên Chương liều bơi, lặn
xuống lòng thuyền may ra tìm được nước uống hoặc thức ăn. Nhưng đã lâu không
thấy Chương trở lại, mẹ và Dì kêu gào thật lâu chẳng có tiếng trả lời. Hễ người
nào chịu không nổi buông tay ra là đi vĩnh viễn. Thấy những người thân lần lượt
ra đi, lòng mẹ và dì tan nát nhưng biết làm sao đây hỡi trời, chỉ biết đọc kinh
cầu nguyện Chúa, Mẹ cứu giúp, hộ phù. Phía bên kia có Linh mục Hồ Quang Liêm và
người em Hồ Quang Lập cùng mấy người bà con của cha trong đêm đó cũng ra đi.
Ngày thứ hai kể từ ngày đắm thuyền chỉ còn có
dì, mẹ và mấy đứa nhỏ vì được ngồi trên bè, nên chống được sự lạnh cóng. Mẹ con
bị thương máu ra nhiều, không ăn, không uống nên người mệt lả đi, hơi thở yếu
dần, dì gọi mẹ không trả lời nổi, rồi mẹ con tức tưởi ra đi. Đạt, Hoài hai em
của con ôm mẹ khóc thảm thiết, dì đứt cả ruột gan. Các cháu cứ muốn giữ mẹ lại
bên cạnh không xa rời, dì khuyên nhiều lần các cháu mới chịu để mẹ con xuống
lòng đại dương. Còn lại con Châu, con Xuân của dì mềm người vì đói khát cũng
lặng lẽ ra đi. Dì như người mất hồn, không còn biết gì nữa, đặt con mình xuống
nước cho dòng nước trôi xuôi, đau đớn vô cùng....
Ngày thứ ba chỉ còn lại Dì và em Đạt của con. Nó
mệt quá gục trên tấm ván, bỗng nó ngồi nhổm dậy nói: "Để con lấy nước cho
dì, con thấy có dòng suối trong xanh, nước ngọt lắm dì ơi”. Nói xong nó định
bước xuống nước để đi. Dì cầm tay nó kéo lại: "Con ơi không có đâu, đó chỉ
là ảo ảnh mà thôi, con ngồi xuống đây đọc kinh với dì xin ngài ban phước”. Sau
khi kinh nguyện, yên tĩnh được một lúc, nó lại kêu lên khát nước quá dì ơi con
chịu hết nổi rồi. Dì nói trong vô thức hay con uống đại một hớp nước biển xem
có chống chọi được không? Sau khi uống một miếng nước vào bụng, tức thì cháu ôm
bụng rên la khủng khiếp, nước bọt trào ra miệng, nước bọt giống như bọt xà
phòng trào ra, trào ra, cháu lịm người dần và nằm bất động. Vậy là người cuối
cùng ở bên cạnh dì cũng ra đi....
Còn lại một mình đang nằm chờ chết dưới ánh nắng
như thiêu như đốt bỗng thấy có đám mây đen kéo đến trời đột nhiên dịu xuống,
một vài giọt mưa rơi trên mặt dì, dì liếm từng giọt nước, nhưng người dì đã
kiệt sức không còn hay biết gì nữa cả. Khi tỉnh dậy thì thấy mình đang nằm trên
thuyền đánh cá của người Thái Land. Dì theo tàu họ trên biển, 15 ngày sau thì
được đưa vào trại Batani, qua trại SongLa và dì gặp con tại đây.
Ôi! Những biến cố đó trong đời tôi làm tôi điên
dại, sống dưới ánh nắng mặt trời mà như trong hang âm u. Tôi đã mất mẹ, mất
anh, mất em, mất ông ngoại, cậu, cháu và những người thân yêu. 18 người đã chết
tức tưởi, bỏ mình trên biển cả đó là tất cả NỖI BẤT HẠNH CỦA ĐỜI TÔI.
Mẹ ơi! Sao mẹ nỡ xa lìa con, xa lìa ba, ba đã
chịu bao nhiêu điều cay đắng tủi nhục trong ngục tù Cộng Sản. Các anh ơi! Các
em ơi! Tất cả đã xa lìa tôi, vĩnh viễn li biệt tôi một cách tức tưởi: Khổ đau
tột đỉnh, hận thành non cao, “Biển xa sóng lớn dạt dào, nhớ anh, em, mẹ có ngày
nào nguôi”.
Thùy
Nhiên