Trước đó
mười năm, họ đã từng nhìn thấy nhau. Trong công viên thành phố. Người đàn ông
ngồi trên chiếc ghế đá, lặng lẽ hút thuốc, ngắm nhìn những đứa con nhỏ vui đùa.
Cô đang lang thang giữa những khóm hoa, chợt nhìn thấy anh, nhận ra người bạn
học cùng khóa thuở nào. Anh mời cô ngồi, họ trò chuyện bâng quơ về mọi đề
tài, sôi nổi và đầy lo lắng.
- Phải đi
thôi, sống thế này ngột ngạt quá- anh bảo.
- Tuần
sau em đi, anh nói đúng, em luôn mơ về một chân trời khác…
Họ lại
tình cờ gặp nhau, sau nhiều năm.
Vẫn người
đàn ông hút thuốc, khói mờ bay, phủ kín đôi mắt nhìn xa xăm.
Một thùng
sắt bưu điện chuyên dùng để chở hàng hóa, thường được gọi là côngtenơ mở toang,
giữa chợ. Một chợ giời đông Âu. Những năm cuối của thế kỷ XX.
Anh ngồi
một góc trong cái hộp kiên cố đó, trước mặt, sau lưng, bên phải bên trái la
liệt hàng hóa, một người đàn bà châu Á, vợ anh, tay lăm lăm chiếc máy tính, mê
mải đánh vật với cái đám đông lố nhố chen nhau chọn, bới trước mặt. Thỉnh
thoảng, sau tiếng hét cuống cuồng của vợ, anh bật dậy, nhào ra tham dự vào công
việc mua bán có vẻ không liên quan gì đến nét mặt dửng dưng, lãnh đạm của anh.
Khi đám đông dãn bớt, anh lui về góc ngồi và lại hút thuốc.
Cô
thấy hình ảnh ấy ngay từ khi bước vào chợ.
- Chào anh !
- Em ? cũng ở đây à ?
- Không, em sống ở tỉnh lẻ, anh có
khỏe không ?
- Cũng thường…
Anh tỏ ra
không thích bắt chuyện, càng không muốn nhớ lại một thời quen biết. Cô vội vã
bước đi, không quên được hình ảnh người đàn ông tựa cửa thùng sắt hút thuốc, cô
cứ thấy hình ảnh ấy nhảy múa trước mắt, ngày nọ qua ngày kia, tháng
nọ qua tháng kia, và lần lần, năm nọ qua năm kia.
Một cái
chợ, bãi đất trống heo hút, ngẫu nhiên thành bến đậu cho nhiều mảnh đời hy vọng
từ xa tụ họp tới. Những mảnh đời như lá, gió cuốn phăng bứt khỏi cành, bay tha
thẩn tứ phương, mệt mỏi xoay tròn trước khi rơi xuống và bám chặt lấy đất, đất
nào cũng được, miễn đủ cho một kiếp trú chân.
Đôi khi,
anh và cô chạm trán nhau trong chợ, họ mỉm cười xã giao, nói mấy câu vơ vẩn,
rồi ai việc nấy, biến mất. Dường như sự hiện diện của họ ở chốn này đã thừa đủ
cho một nội dung bẽ bàng của kiếp tha hương, không cần ai lên tiếng. Nhưng cô
luôn đau nhói trong lòng, khi nhớ đến chiều công viên xưa, nơi phác họa tương
lai có màu xanh như bầu trời trên đầu họ lúc đó.
Năm tháng
cứ thế trôi, người ta dần lãng xa ký ức của mình, lùi quên những cơn trăn trở
và những nỗi đau gợi miền xuất xứ. Bởi cái chợ giời cùng những ngày nắng mưa
vật lộn kiếm ăn, đã biến họ thành những nét vẽ trần trụi không phương che dấu,
trong bức tranh lạnh lùng dửng dưng của cuộc sống hiện tại.
Dần dần
hình ảnh những người đàn ông khác trong chợ cũng len vào óc cô, đọng lại
bên cạnh hình ảnh người bạn cùng khóa. Đây là gã béo tròn, kẻ bả lả với khách
mua bên bà vợ nhấm nhẳng luôn tay giao hàng phía cổng chính của chợ, kia là anh
chàng cao ngẳng, đang hò hét đám cửu vạn đẩy những xe hàng cao ngất ngưởng ra
vào kho, một người đàn ông khác quần áo lôi thôi, ngáp ngắn ngáp dài, đầu và
chân gác lên những thùng hàng to hơn người, ngổn ngang xung quanh gã, một cậu
chàng đờ đẫn, nở nụ cười hiền lành ngây độn nhìn đăm đăm vào khoảng không trước
mặt… Họ là những người đàn ông của chợ.
Có những
quãng đời đọng lại như một vũng bùn lầy sau cơn mưa, đất và nước nhào lộn vào
nhau, dính bết tạo thành. Dường như trong đời mình, nhiều người đã vô tình biến
thành những vũng bùn lầy như thế. Nếu niềm kiêu hãnh bẩm sinh không thức tỉnh,
để một hôm người ta chợt nhận ra vị trí thật của mình, thì sau đó những cảm
giác đau, như những cơn ốm vặt, sẽ quật họ ngã xuống, những cơn ốm không làm
chết người, chỉ khiến cuộc đời họ trở nên què quặt.
Cô sửng
sốt, không tin ở mắt mình khi gặp anh gật gù với chai rượu cạnh chiếc bàn bẩn
thỉu, trong quán bufê đông đặc giữa chợ. Đã khá lâu họ không gặp nhau, anh
không còn chút gì của người đàn ông cô biết xưa kia. Tóc anh bạc trắng, mặt mũi
chỗ đỏ chỗ tái, sần sùi vì những vết xước nham nhở, như một người mắc bệnh cùi.
Và điều khiến cô ngạc nhiên nhất, là khi xưa nói ít bao nhiêu, giờ đây anh lải
nhải liên tục bấy nhiêu. Cô định bỏ đi, nhưng không kịp :
- Em đấy ư ? Lại đây, lại đây uống
với anh, bao lâu rồi chúng mình không gặp nhau.
- Chào anh ! Em không ngờ…
- Anh lại thế này, phải không ?
Thôi, tao chán những trò đạo đức giả của đời lắm rồi, uống đi...
Hôm đó,
cô bỏ một ngày để nghe thiên hạ kể về gia đình anh. Như những người ở chợ, anh
cũng chuyển hết từ buôn mặt hàng buôn này đến bán mặt hàng kia, chuyển từ góc
chợ này sang đứng góc chợ khác, cuộc sống gia đình anh quay cuồng với vài ba
trục cố định: chợ, tiền, hàng, con cái, nhà cửa, giấy tờ…Từ đôi tay trắng, như
mọi người, anh bắt đầu có những gì xưa kia hằng mơ ước : nhà, xe, tiền. Nhưng,
như có sự dẫn dắt theo thứ tự của quỷ sứ, anh bắt đầu uống rượu.
Cô
thôi ngạc nhiên trước sự thay đổi mới mẻ này của anh, vì nhìn đâu cô cũng thấy
những người đàn ông với những chai rượu, khắp chợ. Anh đã thành một trong những
người đàn ông của chợ. Cô quan sát họ, từ mọi phía, từ nhiều góc độ, lặng im
tìm lời lý giải, và bắt đầu viết. Khi đó, trái tim thổn thức của cô dịu
đi.
Câu
chuyện đầu tiên cô viết có hình ảnh một người đàn ông như sau:
- Giấc mơ
ban ngày
Ông uể
oải đứng nhìn vợ và hai người làm thuê dọn hàng. Chả ai để ý đến ông, mỗi người
một việc. Thậm chí chả ai nói nửa lời. Bởi ngày nào cũng như ngày nào, công
việc chỉ có thế.
Và ngày
nào cũng như ngày nào, ông chỉ uể oải đứng nhìn. Vợ ông quen đã đành, vì mỗi
ngày hai tư tiếng đồng hồ, nàng phải chịu đựng sự tồn tại của ông. Nhưng cả hai
người làm thuê cũng quen nốt, cái cảnh chỉ có bà chủ hỳ hục. Còn ông chủ, y như
một người thừa. Không, nói đúng hơn, chẳng có việc nào dành cho ông.
Thấy mọi
người bày biện xong, ông bắt đầu chờ đợi, trong im lặng, chỉ thỉnh thoảng ngước
đôi mắt thỏ non về phía vợ.
Cuối
cùng, như bao lần khác - kẻ thua trận vẫn là vợ ông :
- Này
đây, anh cầm lấy mà mua rượu. Uống vừa vừa thôi - nàng làu bàu.
Khi cầm
cái chai bé xíu, trong vắt quay về, trông ông hý hửng như một cậu học trò vừa
được mẹ cho tiền mua một thứ đồ chơi đang mơ ước.
Ông cẩn
thận rót vào một cái cốc cũng bé xíu, chui vào góc ngồi quen thuộc mà ông yêu
thích. Rồi vừa nhâm nhi, ông vừa vui vẻ đưa cặp mắt đã tinh nhanh lạ thường
quan sát xung quanh. Ông âu yếm nhìn cả thế gian đột nhiên đầm ấm và quen thuộc
xiết bao, một thế gian gồm những bà già lê đôi chân vừa ngắn vừa to như chân
voi, những ông già mặt mũi khó đăm đăm, những cô gái mảnh khảnh xinh đẹp, đang
nườm nượp kéo nhau vào chợ.
Sau chén
thứ hai, những vần thơ bất thần từ đâu ập tới.
Trời ơi !
Ông muốn đọc cho ai nghe quá. Phải, giá có một người bạn tri kỷ ! chỉ cần một
người thôi, để gật gù tán thưởng, hoặc cau mày ngẫm nghĩ, thêm cho ông vần này,
bớt cho ông từ kia, đời sẽ hoàn hảo biết bao.
Không có
ai hết. Hay nói đúng hơn, nhiều người xung quanh ông quá, mà chả ai để ý đến
ông. Vợ ông mải đếm tiền, cô làm thuê mải trả lời giá của mấy cái áo, anh giúp
việc mải khuân hàng, từ xe vào quầy, từ quầy xuống xe của một ông khách nào đó.
Mấy bà già mải trầm trồ cái áo thêu, mấy cô con mọn mải ướm quần cho bé.
Ông cảm
thấy buồn, mắt ông ươn ướt. Rồi ông gục xuống bàn, ông khóc hay ngủ ? Ai mà
biết được ? Cũng chẳng cần ai biết.
Thực ra
ông đang bước vào một giấc mơ.
Hôm đó là
một buổi sáng chủ nhật kỳ lạ. Nắng rực rỡ từ rất sớm, chợ rộn ràng ngay từ khi
chuyến tàu điện đầu tiên đi ngang qua hàng rào. Dường như cả thành phố đang đổ
vào đây.
Vợ ông
cũng vội vàng, nàng bảo :
- Hôm nay
anh trông hàng hộ em, em phải đi có việc, trưa mới về. Anh chỉ cần để mắt
đến lũ ”con ở”, em đã giao việc cho từng đứa rồi.
Và nàng
vội vã ra đi.
Ông ngồi
sừng sững trong quầy. Vì quá vội, nàng đã cắt mất suất rượu buổi sáng, khiến
ông rầu rĩ ngồi ngắm cái đám đông chuyển động trước mặt mình. Kỳ lạ thật, một
đám đông đầy ắp người mua mà chả ai nói với ai một lời. Mấy bà già chỉ tay vào
mấy cái áo, rồi hất hàm ra hiệu cho cô làm thuê. Cô này vớ lấy cái máy tính bấm
tanh tách giơ lên, mấy bà già trả tiền, đi. Cô làm thuê đập vào vai anh giúp
việc, anh này hiểu ý đi vào kho rồi lặng lẽ trải áo lôi từ một thùng đầy ắp lên
bàn.
- Hừ, làm
việc với cái lũ câm điếc này, rồi sẽ có lúc mình tàn tật nốt- Ông bực bội nghĩ
thầm.
Không có
rượu, ông thấy đời nhạt thếch. Biết làm gì cho hết hai tư tiếng đồng hồ đây ?
Đã từ
lâu, rượu thành bạn tri kỷ của ông. Kẻ ngu trong đời không biết uống, cứ gọi đó
là ”con ma men”, mà không hiểu đấy là một thiên thần vui vẻ. Anh ta không biết
buồn là gì, càng không bao giờ biết chán. Khi nâng cốc lên môi, là ông gọi anh
ta tới, rồi cả hai vật lộn với đống chữ nghĩa, vần điệu, viết ngoằn ngoèo lên
trí nhớ xiên xiên của ông một bài thơ tùy hứng.
Một độc
giả nữ nhí nhảnh bảo ông :
-
Em đọc thơ anh xong, em cứ muốn trồng cây chuối như hồi còn bé.
Một nhà
thơ có bề dày kinh nghiệm, đứng đắn hơn lại bảo :
- Thơ
ngài có hồn, nhưng phiêu lãng. Ngài định dừng lại ở chân trời nào vậy ?
Ông lộn
ruột khi nghe vài kẻ đầy ghen tỵ bảo nhau :
- Đấy là
rượu viết chứ có phải ông ấy viết đâu. Thử không uống viết xem nào ?
Tất nhiên
là ông đã thử viết khi chưa uống, thơ ông lúc đó quả thật na ná giống bài thơ
xổ số mà trẻ con thị xã quê ông hay hát.
Dù sao mặc
lòng ! Rượu là thơ và thơ là rượu ! Cộng hai thứ đó vào sẽ thành ta !- ông
khoái trá nghĩ thầm và vui vẻ hẳn lên.
Ông đứng
lên, định đi loanh quanh cho đỡ mỏi, bỗng ông chú ý đến một khuôn mặt thập thò,
lúc ẩn lúc hiện sau dãy áo treo. Ông đi tới : một cô gái có mớ tóc dài và đôi
mắt đen nhánh như hai hột nhãn lúng túng nhìn ông.
- Em là
ai ? Em tìm ai ?- ông hỏi.
- Dạ thưa
chú, ấy chết, thưa anh, dạ…- Cô gái ấp úng.
Ông khẽ
cau mày :
- Em đẹp như Nàng thơ, trong thơ
không có cháu có chú có bác. Tình yêu là vĩnh cửu. Anh và em là mùa xuân của
cuộc đời. Hãy mạnh dạn lên xưng Em và gọi Anh !
- Vâng, em đồng ý- Cô gái gật đầu-
nhưng em đang đi trốn.
Ông giật
nảy mình :
- Trốn ?
Tại sao phải trốn, em trốn ai ?
- Suỵt,
anh nói khẽ chứ, rồi em sẽ kể…
Cô thì
thào :
- Anh có
tiền không ?
Ông suy
nghĩ và bảo :
- Chờ anh
!
Ông chạy
vào kho, may quá ông sờ thấy túi tiền vợ vẫn giấu trong tủ đá lạnh toát.
Cô gái
đợi ông ngoài quầy, cô bảo :
- Anh có
dám đi với em không ?
- Đi đâu
?
- Trước
hết đi khỏi chỗ này, rồi em sẽ nói…
Ông ngẫm
nghĩ, nhìn đồng hồ, vợ ông sắp về. Cô gái đẹp như một nàng thơ hiện hình, lúc
khác ông toàn mượn hơi men đi tìm ý trung nhân, giờ đây nàng đứng trước mặt, lẽ
nào không theo sao được ?
Thế là
giống Bánh Tròn trong chuyện cổ tích ”Bỏ ông tôi đi ! Bỏ bà tôi đi !”
Ông cũng
”Bỏ vợ ta đi ! bỏ chợ ta đi !”
Hai người
cùng bước ra đường.
Trong một
quán ăn cô gái cho ông biết :
- Em trốn
trại hai ngày rồi.
- Tại sao
em rơi vào đấy ? - ông ngạc nhiên hỏi.
- Em tự
nguyện vào, không phải bị bắt đâu.
Cô kể cho
ông nghe, cô trốn khỏi quê nhà cách đây vài năm. Bởi cô muốn biết châu Âu như
thế nào, thế giới ra sao. Cuộc sống của thế kỷ hai mốt khác gì thế kỷ hai mươi.
- Thế em
thấy những gì ? - ông hỏi.
- Em thấy
nhiều thứ lắm, nhưng em chả hiểu gì hết. Y như một người đứng trước một đống
sắt vụn, nhận ra đủ loại phụ tùng ôtô, nhưng chịu chết, không hình dung nổi cái
xe sẽ được lắp vào như thế nào.
- Thế rồi
sao ? - ông sốt ruột.
- Thế là
em cứ loay hoay từ ngày nọ qua ngày kia, tháng nọ qua tháng kia, em làm đủ
việc, kể cả việc không thích, để sống. Nhưng hình như để hiểu một điều gì đó,
em cần quay về.
- Về đâu
? – ông vội vã.
- Về lại
nơi từ đó em ra đi, em cần gặp lại mảnh vườn của em.
- Mảnh
vườn ? - ông kinh ngạc hỏi.
Cô gái
cười bẽn lẽn, cặp mắt hạt nhãn sáng long lanh :
- Anh
biết không, nhà em có một mảnh vườn thiêng lắm. Em cứ nằm ngoài vườn một ngày
là em biết mình muốn gì. Hồi đi học, mảnh vườn bảo em học nốt, rồi cũng từ đó
em quyết định trốn cha mẹ đi nước ngoài lao động.
- Bây giờ
em muốn biết gì ?
- Em cần
nằm dài một ngày ngoài vườn, rồi sẽ biết.
- Thế ở
đây, em không thể biết được ư ? - ông buồn rầu hỏi.
- Không,
ở đây tương lai là những câu tự hẹn ước ”mai sẽ nghĩ, để mai”. Ở đây có mọi
thứ, nhưng không phải là của em, trừ những ý nghĩ. Em đã tự vào trại xin về.
- Anh sẽ
đi theo em - ông đột nhiên đề nghị.
- Từ lâu
rồi, anh chả biết mình muốn gì nữa, rượu là bạn duy nhất, anh giống lão say
trong „Hoàng tử nhỏ”. Một hôm Hoàng tử nhỏ đến một hành tinh, trên đó chỉ có
một người duy nhất ngồi giữa đống chai.
- Ông làm
gì thế ? - Hoàng tử nhỏ hỏi.
- Ta
uống.
- Tại sao
ông uống ?
- Ta uống
để quên đi
- Quên
cái gì ?
- Quên là
ta uống.
- Đấy là
anh, anh muốn gặp mảnh vườn của em, biết đâu nó nói cho anh một điều gì mới mẻ
?
Thế là họ
cùng vào trại, xin về. Trong những ngày chờ đợi hồi hương, ông tuyệt nhiên
không nhớ đến vợ, không nhớ đến chợ, mà cũng chẳng thèm rượu. Hình như có một
nàng Thơ đã hiện hình, một mục đích nào đấy cụ thể là đủ, ông không cần phải đi
tìm cảm giác và ảo ảnh nữa, ông đang sống trong thực tại.
Vậy mà
khi về đến quê hương, bước vào mảnh vườn bé nhỏ của cô gái, ông lại ngỡ mình
nằm mơ.
Góc vườn
mảnh dẻ này mới quen thuộc với ông làm sao, với vài cây đu đủ đang đơm hoa,
cạnh bức tường sắp đổ là khóm xương xông trổ những chiếc lá dài đầy gai. Một
đàn gà con lông vàng óng đang nhớn nhác theo chân mẹ, và con đường mờ ảo dấu
dưới vệt cỏ, chính là con đường dẫn ra bờ sông.
Phải rồi,
vào một thuở xa xưa nào đó, ông đã dẫn một người con gái mình yêu thương về
thăm quê, đã ngồi với nhau những buổi chiều trong góc vườn này, để nói những
lời yêu đương cho một tương lai không đơn độc.
Cô gái
thành phố cười nói suốt ngày vì vui sướng. Chỉ đến tối, khi hai người dạo chơi
trên con đường nhỏ đầy sao dẫn ra dòng sông, cô mới im lặng và bật khóc.
- Em làm
sao vậy ? - ông thiết tha hỏi.
- Em sợ-
nàng trả lời.
- Em sợ
cái gì ?
- Tương
lai ! Em sợ chúng mình sẽ không chịu nổi những bão tố của cuộc đời ! cuộc đời
dài lắm anh ơi !
Ôi người
đàn bà bé bỏng, những ý nghĩ gì đã đến với nàng trong lúc ấy ?
ôi cái
tâm hồn nhạy cảm bất hạnh này ?
Ông ôm
lấy người vợ tương lai của mình, nâng cằm nàng lên và nhìn vào mắt nàng :
-
Dù có bất kỳ điều gì xảy ra trong đời, anh cũng không để em buồn
đâu. Nhất là phải buồn vì anh thì không bao giờ, em có tin không ?
Nàng gật
gật đầu, nhưng nước mắt vẫn tuôn, làm ướt đẫm tay áo ông.
Ông rùng
mình tỉnh dậy, vợ ông đang đứng cạnh. Nàng khẽ đưa tay vuốt tóc ông và buồn bã
nói :
- Về nhà
đi anh, tan chợ rồi !...
Mẩu
truyện của cô như một ngọn lửa cháy lan trong chợ. Những người đàn ông chợt
nhận ra mình, hoặc nghi ngờ tìm dấu vết để so sánh câu chuyện. Họ đoán già đoán
non, đặt nhiều giả thuyết. Rồi đi tìm cô. Một người mời cô vào côngtenơ trò
chuyện, muốn trọn vẹn, anh đóng cửa hàng sáng hôm ấy, anh pha trò và kể những
câu chuyện rất có duyên. Một chàng khác đột nhiên thích đi theo sau lưng cô để
ngắm, khi cô chợt quay lại, anh ta lảng sang hướng khác. Chàng nọ tâm sự với cô
rằng, anh cảm thấy thương yêu vợ hơn, sau khi đọc truyện ngắn này. Vài ba người
khác nhắn tin.
Chỉ người
đàn ông học cùng khóa thuở nào không hề lên tiếng.
Một hôm,
bắt gặp anh bên chai rượu cạnh bàn bufe bừa bộn, cô muốn bỏ đi thì đột nhiên
anh gọi :
- Ngồi xuống đây một tý đi em ! Em
sợ anh à ?
- Không…- cô nói, ngồi xuống, và
lập tức đứng lên ngay.
Khi anh
rút thuốc, châm lửa, hút, khói mờ bao phủ đôi mắt buồn xa xăm. Khuôn mặt sần
sùi xấu xí bỗng rạng một nét cười, rồi thoắt vụt tắt.
Cô bỏ đi,
còn nghe sau lưng giọng anh cất cao, lè nhè như một kẻ say chính cống :
- Tao yêu mày ! Tao yêu mày vì tâm
hồn mày trong suốt như pha lê, biết chưa em ? biết chưa ?...
Cô tiếp
tục giam cầm mình vào những trang giấy, như vậy dường như cô bớt buồn hơn, bớt
suy nghĩ và bớt cô đơn.
Cô
viết một truyện ngắn khác :
„ Hoa
trắng”
Mỗi lần
cầm bút lên, ngồi trước tờ giấy trắng, cô không phải là mình nữa.
Giống như
một ngọn núi khi chiều tà, màn sương ập xuống. Vẫn mờ mờ hình dáng ngọn núi ấy,
nhưng những rừng cây xanh bên triền núi, con đường mòn nhỏ ngoằn ngoèo dẫn lên
tận đỉnh, chỉ còn là những dấu chấm phẩy mờ nhạt. Màn sương đã vẽ lên một bức
tranh huyền bí, ai nhìn vào cũng vương vấn một nỗi niềm bí hiểm và trầm tư, quả
thật có gì sau rặng núi đầy sương ấy ?
Quả thật,
sau những trang giấy đầy chữ, ai biết gì về cô ?
Suốt ngày
cô nói cười vui vẻ, cô hoan hỷ và hài hước. Trái tim cô mở toang như cánh cửa
sổ đón nắng ấm và gió, để mặc cho từng tiếng động của cuộc đời tràn vào. Cô
sống như một công dân gương mẫu nhất, làm tất cả những việc phải làm, chỉ cảm
thấy thân xác rã rời khi đặt lưng xuống ngủ.
Nhưng
giấc ngủ tưởng chừng sẽ đến trong giây lát không tới.
Nó lùi
dần, nhường chỗ cho một giấc mơ từ thuở còn thiếu nữ, tái hiện lại trong trí
não cô…
Một con
đường dài tới vô tận, hai bên đường toàn hoa trắng nở rộ. Một chàng trai cao
lớn, thanh mảnh chạy phía trước, thỉnh thoảng lại ngoái đầu về phía sau, nhìn
cô cười khúc khích, đôi khi chàng đứng lại và chờ đợi, thậm chí còn giơ tay cho
cô nữa. Nhưng cô cứ chạy tụt đằng sau, càng cố gắng càng tụt lại xa hơn, đôi
khi tưởng đôi tay vươn ra phía trước sẽ chạm vào tay chàng, nhưng không, cô vẫn
bị tụt lại. Cô chỉ kịp nhìn thấy khuôn mặt tươi cười, xiết bao yêu dấu trong
giây lát, rồi cái ảo ảnh ấy biến mất, chỉ còn mình cô vẫn chạy một mình trên
đường. Ôi con đường toàn hoa trắng, và một bóng hình thân thương…
Thế là cô
nhảy ra khỏi giường, ngồi vào bàn, và cầm bút.
Những câu
chuyện từ đâu trôi đến, những mẩu đời chả liên quan gì đến cô cứ hiện dần trên
giấy. Chẳng lẽ vì những điều ấy, cô mất ngủ ?
Cô tuyệt
nhiên không nhớ đến giấc mơ hoa trắng của mình.
Nó chỉ
tái hiện khi cô buông bút, chui vào chăn và chập chờn thiếp đi.
Đôi khi
trong đêm, mắt cô đẫm ướt, và lòng cô tự hỏi :”ta đi tìm ai ?”
Nhưng
sáng ra, khi mặt trời rọi nắng vào cửa sổ, cô tỉnh dậy và thoáng mỉm cười vì lũ
chim cãi nhau chí chóe ngay bên tai.
Cô lại
hăm hở bước vào một ngày mới, với tất cả nhiệt tình của dòng máu hừng hực chảy
trong tim.
Bỗng một
hôm, đi qua một con đường nhỏ, cô thấy một thùng thư với dòng chữ bên
dưới : ”Ở đây nhận đăng các loại bản thảo đã viết. Xin ghi số điện thoại để
tiện liên hệ.”
Thế là cô
ném tất cả đống giấy cô đã viết vào đấy. Cô giữ lại làm gì kia chứ ? Chỉ một
bóng hình trong mơ cô còn chả nắm bắt được, nữa là bao nhiêu mẩu đời sống, cô
đã từng biết và sao chép?
Cô cảm
thấy lòng nhẹ nhõm, y như thuở còn thơ bé, hay thả lá xuống dòng nước, để chúng
biến thành những con thuyền trôi đi thật xa…
Rồi ngày
ngày, cô đều đặn tới thùng thư. Ngày nào cô cũng phải viết, bởi sau một ngày
hoan hỷ, cô không thể không thông báo với thế giới, cô tồn tại để làm gì.
Cho đến
một hôm, từ đầu giây điện thoại, một giọng nói trong trẻo báo với cô rằng : họ
đã biên tập tất cả những bài viết của cô, in vào một quyển. Ban biên tập muốn
được trao tận tay cô cuốn sách, và chút phần thưởng họ dành cho cô.
Cô náo
nức chờ ngày được hẹn.
Trong đêm
mất ngủ cuối cùng, chẳng hiểu sao, cô viết lại toàn bộ giấc mơ hoa trắng của
mình. Một giấc mơ thanh xuân có dáng hình người con trai tươi trẻ, cô chưa một
lần với tay tới anh, để cùng nhìn vào gương mặt rạng rỡ của nhau mà cười
phá lên, y như những buổi ban ngày vui vẻ, chụm đầu soi mắt nhau, rồi tay trong
tay tung tăng trên con đường vô tận trải đầy hoa trắng…
Cô cắp
tập giấy vào nách và rón rén đi đến nơi hẹn.
Đấy là
một tòa nhà đồ sộ, với cánh cửa cao vút đầy song sắt. Cô bấm chuông. Có tiếng
nói cười lao xao bên trong vọng ra, khi cửa bỗng vụt mở. Cô ngước mắt nhìn
những người đàn ông trong Ban biên tập đang nhất loạt đứng trước mặt cô, mỗi
người một vẻ. Người thì có dáng bệ vệ với cái bụng phệ, và cái đầu hói. Người
nở nụ cười thật tươi, khi quầng mắt sụp xuống đã viền những đường vòng
cung. Người thì xộc xệch trong bộ quần áo nhàu nát, dấu tích của công việc
không ngơi tay…
Cô không
thể nhìn rõ họ có bao nhiêu người, với những bộ dạng như thế nào nữa, cô nức nở
khóc. Những giọt nước mắt rơi lã chã xuống tập bản thảo.
Một người
hoảng hốt kêu lên :
- Cô làm
sao thế ? Ai đã bắt nạt cô ? Ai đã xúc phạm đến cô, hãy nói cho chúng tôi…
- Không,
không ! - cô cố gắng kìm cơn nức nở. –Không phải đâu… chỉ tại trong này - cô
chỉ vào tập bản thảo- nhân vật chính của tôi đã chết !...
Một dòng
sông lại len lỏi chảy khắp chợ. Đấy là câu chuyện cô vừa viết.
Những
người đàn ông của chợ bỗng hoang mang đôi chút. Một cái gì đó họ chưa
thực sự nắm bắt được, chưa hiểu hết được, trong đó có đàn bà. Cô biến thành nỗi
bí hiểm, chứa sức hút và tạo ra những nỗi niềm tâm sự khác nhau, xô đẩy những
tình cảm trái ngược gập gềnh trong trái tim những người đàn ông chợ. Họ rì rào
trò chuyện, và lặng ngắt khi gặp cô.
Cô càng
lặng lẽ hơn khi đến, lặng lẽ quan sát và rồi lại đi.
Một hôm,
cô nhận được mảnh bao thuốc lá. Cô mở ra, đấy là một bài thơ:
- Hoa
trắng -
Người
thiếu nữ với giấc mơ hoa trắng
Lạc loài
vào cõi trần gian
Nàng dâng
hiến trong một giây rực rỡ
Giờ đây
ca khúc riêng mình
Người ơi
! Người ơi !
Trinh
trắng hát tình ca hoa trắng
Vời vợi
Xa vời
Chới với
Chơi vơi.
Vào một
đêm những bông hoa trắng
Nức nở
trên đống trắng hoa
Trời đất
thương em đổ mưa nổi gió
Giao hoan
bất tận nhợt nhòa
Thế rồi
cũng đến bình minh
Nhìn sao
khát nước hôn tình mắc oan.
Cô tựa
lưng vào một gốc cây, tim buốt đi vài giây lạnh toát. Bài thơ của người bạn
cùng khóa. Anh đã nhấn chìm anh vào chai rượu, nhưng thơ anh không say.
Không còn
nghi ngờ gì nữa, có một người đàn ông đã đến và đã hiểu.
Từ một
góc chợ giời của những năm tháng buồn tủi, những linh hồn quằn quại sống, giãy
giụa sinh tồn, muốn dựa vào chữ để an ủi mình, an ủi nhau, để cùng nhau
choệch choạng bước tiếp …Có phải vì thế lịch sử về con người luôn đau đớn và
bất diệt ?
Một thời
gian sau, cô nghe tin anh đã bỏ về quê hương, nơi có những cơn sóng biển hiền
hòa và những gốc dừa lao xao nắng.
Để nghiền
ngẫm tiếp chăng, những gì anh và cô đã bàn luận buổi chiều nào: đến bao giờ kiếp
sống của anh, của em, của người quê ta mới thôi trôi dạt theo thời thế?
H.
N. ( 04. 03.2008)