Nhiều năm
trước, ở ngay chỗ tôi nhìn người đàn ông cất vó sông, chính ông cất vó khi ấy
vẫn trẻ ranh hôi nắng, cũng đang ngó cha mình cất lên một lưới đầm đìa nước.
Đó là một
thằng nhỏ háo hức. Không ngóc ngách nào của làng cổ mà nó không thò mắt mó tay
vào. Nghe gà gáy, nó biết trúng phóc gà nhà ai, nhìn sợi mưa nó đoán nước sông
Châu ngập đến mức nào ở chân cầu, và có bao nhiêu tường vách thâm sì của những
ngôi nhà trong làng cổ được rêu lợp kín. “Phải cuối tháng chín rêu mới trổ bông”,
đôi khi du khách gặp một thằng nhỏ móc chân treo ngược trên nhánh cây bảo vậy.
Rêu thơm dậy động chỉ ít ngày là hết, cậu khoe thêm, thơm tới nỗi ông Út Gù mất
ngủ, cả đêm cứ lội bộ lang thang, tru từng chập hệt chó rừng.
Vài cái
tên người làng thường xuất hiện ơ hờ trong câu chuyện của thằng nhỏ, như những
cái bẫy vô hại. Khách tò mò, lỡ miệng hỏi ai là Út Gù, tức thì thằng nhỏ sẽ làm
màn ảo thuật để ông già bên xóm hiện ra. Nó kể vanh vách từ đời bà cố lũy người
đàn ông tật nguyền ấy, tên những con chuột ông nuôi bằng thịt mèo, và ý nghĩa
của những chữ khắc trên thềm đá trước nhà ông, món cá hũn hĩn kho quéo ưa
thích. Như thằng nhỏ đã nuốt trộng cái làng cổ này, giờ ai hỏi tới đâu nó thuộc
làu tới đó.
Nhưng với
một đứa háo hức tràn ra mắt, không bao giờ nó ngừng thòm thèm, thôi cảm thấy
đói ngấu những thứ mới mẻ của cuộc đời.
Khi những
mảnh ngói trong làng không còn gợi cái ý nghĩ dưới đó giấu một lá bùa, dưới
ngói chỉ là một viên ngói khác, hay miệng giếng này không dẫn đến kho báu mà
đến những bó xương gà, thằng nhỏ chạy theo du khách để háo hức trong đó đừng
chết đói. Một hướng dẫn viên tận tụy, chẳng bao giờ xòe tay đòi tiền, bù lại,
thằng nhỏ biết nước dừa ở Maidives ngọt y như xứ nó, ở Yukon đá bào chất đống
ngoài đường, và người da đen máu cũng đỏ như thường. Họ có dình dàng bằng ba
người làng bó lại, mắt nâu hay xanh, khi xước da họ cũng nhăn mặt, rớm nước
mắt. Và họ luôn luôn vô tình làm thằng nhỏ đau.
- Ở chỗ
tao, có cái tháp cao gấp hai chục lần cái gác chuông này.
Giỡn
hoài, cái tháp chuông này cao nhứt hạng rồi, thằng nhỏ phải mất nửa tiếng mới
trèo lên tới đỉnh tháp. Ở đó có thể nhìn thấy từ đầu đến cuối làng, vượt mắt
qua những khu vườn ra tận giữa sông Châu, nơi có vài cù lao hoang tháng chạp
bông lau lợp trắng. Nhưng khách chứng minh cái tháp chuông mà thằng nhỏ tôn thờ
chỉ là muỗi, khi khoe tấm hình ngọn tháp xứ họ lên đèn ngay bên cạnh trăng sao.
Thằng nhỏ
không làm sao hình dung nổi cái thứ cao hơn gấp hai chục lần tháp chuông làng
mình. Nằm ngửa, tâm tưởng cậu lấy tháp này chồng lên tháp nọ, nhưng luôn bị mất
mối nối giữa chừng. Nó rã rời trong cái ước muốn tận mắt nhìn ngọn tháp ngạo
mạn chọc ngoáy vào những bó chớp, như những lần tuyệt vọng muốn sống trong một
đêm Bắc Âu trời vẫn sáng trưng, hay nếm thử thứ trà khiến người ta luôn mơ thấy
mình bay.
Những lúc
đó, thằng nhỏ ra chỗ chân cầu ngồi nhìn cha mình cất vó. Cái bộ điệu lơ tơ mơ
khi người đàn ông vươn vai kéo gọng vó lên làm phiền nó hết sức, cả cách ông lơ
đãng chẳng thèm dòm ngó đám tôm cá quýnh lên trong lưới. “Phải mình là mình coi
có con cá lạ nào lạc vô không”, nhiều lần nó nghĩ vậy. Nhưng cha nó không thèm
những tặng vật của dòng sông, mỗi tháng ông nhận được khoản tiền lương cho cộng
việc này, vậy là đủ. Cứ mười lăm phút ông cất vó một lần cho du khách đứng coi,
chụp hình. Rồi rít một hơi thuốc, ông già buông cái vó cho ngập miệng vào sông,
kệ tụi tôm cá trong lưới thong dong đi mất. Thằng nhỏ ngờ là cái tính háo hức
của mình chắc là di truyền từ bà mẹ xưa giờ chưa từng thấy mặt. “Nhưng phải có
ai đó đẻ mình ra chớ”, nó nghĩ vậy, và bà mẹ tồn tại trong nó bằng cách ấy. Hỏi
cha thì ông nói, “đất nẻ đẻ mày”, rồi bỏ ra chòi vó.
Một ngày
làm việc của ông kết thúc, khi chuông nhà thờ đổ, và làng mở những bản hòa tấu
quen thuộc, thứ nhạc cả chục năm nay không đổi, phảng phất tựa khói
nhang. Cất vó, khép cửa chòi, trên đường về nhà ghé tiệm mua xị rượu, và
lấy rượu chườm ướp cho men Xiêm ngấm vô chiêm bao. Thằng nhỏ sinh ra đã thấy
nhịp sống tẻ nhạt của cha mình, đến la rầy con cũng chẳng câu nào mới, mười bốn
năm trời chỉ ba chữ “đồ con hoang” mà trên miệng ông đã mất dần cái âm sắc nhọn
và độ rền của sự giận dữ.
Cậu nhỏ
cảm thấy phiền, bởi người cha diễn trò cất vó ngoài sông, bởi dì The hát ầu ơ
cho tụi búp bê nằm võng vang cả phố trưa, cũng là diễn cho du khách khúc ca để
họ chạnh lòng quay lại chơi ở cái làng nửa thế kỷ trôi qua vẫn cổ. Thằng nhỏ
cũng chịu hết xiết người làng cả ngày lơ đãng, kệ khách lại qua trước tiệm lụa
nhà mình, nếu không có cái quạt ve vẫy trên tay thì chẳng khác nào tượng đá.
Ngay những đứa cùng trang lứa với nó như con Hương cũng tự buộc tuổi mười bốn
vào khung dệt chiếu, chắp trân đố có mắc lỗi nào. Những trưa đi theo cái bóng
của chính mình dọc theo đường chính của làng, không khí êm đềm đến nỗi thằng
nhỏ thở không ra hơi. Nó cảm thấy mình sắp chết tới nơi.
Một bữa,
thằng nhỏ nhảy chuyến tàu sớm rời làng. Nó biết chị Cẩm sẽ đứng bên đường ray
vẫy tay, như hai chục năm nay sáng nào nghe còi tàu đằng xa chị cũng bổ nhào ra
chào người cha đã bỏ đi hồi chị còn ẳm ngửa. Dưới những tia nắng non chiếu
xiên, những nhánh tay khô khằng của chị chói lên trong cái chào mà thằng nhỏ tự
vơ vào cho mình.
Rồi một
xế trưa của mười bốn năm sau, cũng chị Cẩm vẫy đón thằng nhỏ trở về. Chị không
già đi mấy, nhưng thằng nhỏ háo hức ngày xưa giờ trở thành một gã đàn ông sạm
nắng, áo sứt nút, tóc phủ vành tai, ẳm theo đứa nhỏ nói chưa sõi. Gã không kể
mình đã đi đâu làm gì, kể từ biến mất trong toa tàu sáng ấy. May thì lúc say,
trong bữa giỗ hay cuộc nhậu xình xang, khi nghe ai đó nhắc tới một thị trấn
vùng biên mịt mù, gã buột miệng “chỗ đó thiếu chút nữa là tôi đâm chết con
Phấn”. Mọi người đoán Phấn chắc là vợ gã. Nhìn hai trái chanh chai sần trên bàn
tay, nghĩ mười mấy năm qua chắc thằng nhỏ chạy xe ôm hay xe tải, xe đò, mấy
công việc rày đó mai đây. Thấy sẹo vết chằng chịt khắp người nghĩ gã chắc va
chạm nhiều để kiếm miếng ăn. Ngó thằng người thừ lừ ngồi ngoài thềm, ruồi bu
không đuổi, mắt đổ ghèn không dụi, biết lòng đã hết háo hức rồi. Giờ trộn gã
với người phố cổ, sẽ không dễ nhận ra bởi cái thờ ơ ăn lan trên gương mặt, ánh
mắt.
Sáng thứ
hai từ buổi đặt chân về làng cổ, gã đi tới nhà chị Cẩm dúi con vô lòng chị,
biểu “từ giờ giữ con cho tui”. Chị nói “mười tám phút nữa tàu qua”. Gã dặn
“thằng nhỏ ăn gì cũng được, cho húp nước cơm vẫn sống như thường”. Cẩm vuốt mái
tóc đứa nhỏ khét nắng, lại nói “cha có nhìn thấy mình không ta ?”. Năm ngoái,
có anh lái tàu mủi lòng trước những cái vẫy tay, đã tìm tới và rủ Cẩm đi, nhưng
chị nói tàu sắp qua, chị phải vẫy chào cha, đi thì sợ chạy về không kịp.
Tay lái
tàu ấy sáng nay chắc vỡ mộng khi thấy chị Cẩm bồng trẻ nít đứng chào bên đường
ray. Hình dung đó làm cho cha của đứa nhỏ hài lòng.
Thằng
người lừ đừ ra chòi vó, chậm rãi đái một phát như chó đánh dấu lãnh thổ, và nói
với ông già, từ giờ chỗ này của tui. Đồ con hoang, ông già chửi, rồi xách chai
đong rượu về. Thằng con hút xong điếu thuốc, búng tàn lại sau lưng, hững hờ cất
vó, không đếm xỉa coi có gì ngoài rác nằm trong lưới. Sông Châu giờ cũng chảy
bâng quơ cho có, nhìn nước bằng mắt thường khó biết được nước xuôi phía nào.
Bóng in
mặt sông, gã đốt điếu thuốc mới, nhả ra mớ khói lờ đờ như hút thuốc cũng là một
phần của hợp đồng công việc. Từ giờ gã bắt đầu đi vào những khung hình, trở
thành nhân vật chính trong những bức ảnh mang tên “yên ả”, “thanh bình” hay
“cất vó” (mặc dù trong ảnh cũng rành rành là cất vó).
Và tôi, đứa con trai được ba mình mang về từ chân trời,
được má Cẩm gói giấc ngủ vô cánh tay xương xẩu, tuổi mười ba rún đã bắt đầu thốn
đau bởi tiếng còi tàu, nhìn nước ròng ròng chảy xuống lưới vó, nghĩ, rốt cuộc
cái làng này còn cầm tù mình bao lâu nữa ?
Nguyễn Ngọc Tư