01 September 2015

XÔN XAO KÝ ỨC - Dzạ Lữ Kiều

        Mùa xuân năm 1968. Thành phố Huế, chìm ngập trong khói lửa chiến tranh. Các con đường đi lại trong thành phố phía Tả ngạn sông Hương đều bị phong tỏa. Đâu đâu cũng khét rẹt mùi thuốc súng. Từng đám cháy nhỏ vươn khói trong bầu trời chiều vẩn đục.
        Thành phố hoang tàn đổ nát…
        Tôi xuống đoàn tàu của Hải quân vừa từ Đà nẵng ra tiếp tế cho Huế. Màn đêm buông xuống. Dãy phố Bao Vinh chìm ngập trong cơn mưa phùn gió bấc… Những ánh đèn dầu leo lét, chợp chờn vì điện ngưng hoạt động. Dưới sông, vẵng nghe những tiếng chèo khuấy nước của các con thuyền đi lại trên sông…


        Những tiếng gọi nhau ơi ới, xen lẫn tiếng máy nổ xềnh xệch của tàu HQ tạo nên  một âm thanh hỗn độn, bát nháo. Đoàn người chen chúc trong boong tàu. Cánh cửa được kéo lên. Tàu hụ một hồi còi dài lê thê, não nuột rồi từ từ rời bến …
        Thành phố chìm ngập trong bóng đêm, mưa bay lất phất. Tôi đưa mắt nhìn ra hai bên bờ sông. Những cánh tay vẫy tạm biệt từ bờ hoặc từ các nhà gác cao qua ánh đèn pin đưa qua đưa lại, trong đó có người bạn gái hẹn  tôi cùng vào trong chuyến đi này, nhưng sau đó nàng đổi ý. Những ánh đạn lửa trong tàu bắn ra lập lòe như ngầm trấn an mọi người là hỏa lực sẽ bảo vệ họ.Ngọn đèn pha từ phía đài chỉ huy quét ra hai bên bờ sông đề phòng  quân địch tấn công, tạo thành một đường sáng huyền ão.
        Không khí ngột ngạt vì người quá đông…
        Tôi ngồi xuống một băng gỗ sát thành song song với thân tàu. Lạnh ! Cái lạnh như cắt da xẻ thịt dưới làn mưa phùn. Tôi không thể nào quên được những ngày, tháng giêng hai mà xứ Huế mãi gánh chịu.
        Xung quanh tôi đều đầy ắp cả người, lủ khủ lớn nhỏ. Người ngồi trên ván kẻ ngồi dưới sàn tàu…Tôi gục đầu vào hai cánh tay khoanh tròn trên đầu gối rồi ngủ thiếp đi trong lo âu và mệt mỏi!

        Gần sáng, tôi nhìn vào đồng hồ đeo tay. Năm giờ kém…Một màu trắng đục trên biển cả mênh mông.Thì tôi mới biết tàu ra đậu ngoài khơi biển Thuận an, chắc họ sợ pháo kích. Chờ trời sáng mới di chuyển tiếp vào Đà nẵng.
         Từng cơn sóng bạc đầu phủ cao như  muốn nuốt chững con tàu, nước bắn tung tóe vào tàu, nhiều người bị ướt. Tàu cứ lắc lư, những chiếc thuyền đánh cá đi gần tàu,  khi trồi lên khỏi tàu năm ba mét, khi mất hút xuống sâu theo đợt sóng, tưởng chừng như bị chìm hẳn trong biển cả mênh mông…

          Không biết ai đã phủ chiếc áo măng-tô màu kem lên thân tôi tự bao giờ. Trong cơn rét, tôi cảm thấy ấm từ thân người ngồi bên cạnh truyền sang, một cảm giác dễ chịu.
        Người thiếu phụ rất trẻ ngồi bên cạnh tôi lúc nào cũng không biết. Vì, trong đêm nào ai biết ai đâu, hơn nữa trong giấc ngủ thì làm sao biết được. Tôi đưa mắt quan sát, nàng khoảng chừng hai mươi hoặc hai hai tuổi, trên tay đang ẳm một cháu bé nhỏ xíu, quấn quanh người bằng chiếc khăn lông
màu hồng nhạt, chỉ chừa lại lại đôi mắt nhắm ghiền, đôi môi và chiếc mũi nhỏ xíu. Tôi nhìn thẳng vào mặt nàng, một vẽ đẹp liêu trai, những sợi tóc lòa xòa trước vầng trán được bịt kín đầu bởi chiếc khăn voan kim tuyến màu tím sẫm. Đôi mắt đen nháy khi nàng nhìn tôi, gương mặt trái xoan với hàng lông mày được nhổ sắc gọn. Đôi môi hơi nhợt nhạt – chắc trong cái lạnh và trong vùng khói lửa chiến tranh, mấy ai lo trang điểm cho thân mình !
       Tôi vừa đói, lạnh. Vừa lo âu, buồn mênh mang, nên không muốn gợi chuyện với ai cả. Nàng cũng im lặng nhìn làn mưa phùn như sương mỏng rơi xuống quần… ướt, lạnh. Chiếc áo măng tô vẫn che kín từ bờ vai của tôi qua vai nàng . Chốc chốc tôi nhìn nàng với hy vọng nàng nói một điều gì đó. Nhưng không, hoàn toàn im lặng! Tôi run lên vì lạnh. Mặc đầu trên mình tôi đang mặc áo lót, áo sơ mi dài tay, áo treilly xám và ngoài cùng là chiếc áo len.

        Năm đó, tôi đã được hai mươi bảy tuổi, bình thường tôi là người biết ứng biến để gợi chuyện, dù người con gái có khó đến đâu đi nữa. Bạn bè của tôi đã từng bảo : Có khiếu ăn nói. Tôi đã từng đứng trước bạn bè, trong các buổi tiệc, sinh nhật, nơi công cọng nói một cách trôi chảy… Thế mà giờ đây tôi im lặng như một pho tượng! Mắt thẫn thờ nhìn lên bầu trời trắng đục vì cơn mưa bay không dứt! Không biết cái khoảng cách nào đã làm tôi ngại ngùng. Thứ nhất : Nàng đã có con, biết đâu chồng nàng ngồi đâu đây. Thứ hai : người vợ sắp cưới của tôi, khi ra đi vội vàng không thông báo một lời nào với nàng về chuyến đi này cọng thêm cái không khí chiến tranh, chết chóc đang lan tràn trên mãnh đất quê hương, đã làm mất đi những hứng thú khi khơi chuyện với bất cứ ai!

        Tàu thẳng tiến đi về hướng Nam. Trên boong tàu, chật cứng cả người, không ai di chuyển đi đâu được cả. Một khối người trong cảnh hỗn loạn chiến tranh, chết chóc đã quây quần về đây. Tuy thế, vẫn còn một số thiếu niên nam nữ vô tư hiếu động nhảy lên thành tàu, vịn vào lan can sắt nhìn làn nước biển trong xanh. Chốc chốc, sóng vỗ vào thành tàu, nước bắn tung tóe lên ướt cả người ngồi trong tàu, họ vẫn cười nói hồn nhiên, không bận tâm chút gì cả.

        Trời tạnh mưa, nhìn quanh đều là biển mênh mông không biết đâu là bờ. Những cơn sóng lan xa, dập dồn, trắng xóa. Tàu chao đảo nhiều lần khi có những đợt sóng bạc đầu vỗ vào mạng tàu. Tôi xem lại đồng hồ. Tàu đã chạy được hai giờ rồi. Trong tàu, giờ đây ai cũng thiêm thiếp vì say sóng. Có người ói ra giữa boong tàu, trước mắt tôi  có nhiều người đã nằm dài… chồng lên nhau, ai cũng nôn, ói. Nét mặt hầu hết đã nhợt nhạt, tay như muốn che lấy miệng của mình.

          Người thiếu phụ bên tôi, đưa tay lên miệng nhưng không cầm lại được. Nước từ miệng nàng trào ra ướt cả quần nàng và tôi. Nàng với tay kéo trong xách áo quần chiếc khăn lông đưa cho tôi, không nói thành tiếng… Chỉ thấy môi nàng mấp máy. Đôi mắt nàng nhìn tôi không còn tinh anh như ban sáng. Tôi nhận vội chiếc khăn từ bàn tay búp măng trắng nuột, ở ngón tay có chiếc nhẫn cưới. Lau cho tôi và cả cho nàng. Một động tác của tình người trong cơn hoạn nạn…

           Đôi tay nàng vẫn ôm chặc đứa con vào lòng. Mặt nàng tái dần. Tôi hỏi :
        - Em có mang dầu khuynh diệp không?
Nàng đưa mắt nhìn tôi và quay đầu nhìn vào chiếc xách để cạnh đó. Tôi hiểu ý, kéo ngăn bên trái lôi ra chai dầu gió Bác sĩ Tín, đổ dầu lên lòng bàn tay xoa nhẹ lên trán nàng. Mấy người ngồi đối diện với tôi bảo : 
        - Chị bị gió, say sóng, yếu người … Anh hãy xoa mạnh vào hai bàn tay và bàn chân của chị thật nhiều lần!
        Thì ra, từ sáng đến giờ họ nhầm tưởng tôi với nàng là vợ chồng . Tôi làm theo ý mọi người. Bàn tay, bàn chân lạnh buốt. Nàng nhìn tôi như thầm cảm ơn, mặt nhợt nhạt và bất ngờ nàng gục vào vai tôi. Tôi vói lấy chai nước trong, bên xách của nàng. Một tay cầm chai nước, tay kia nâng cằm nàng lên
        - Em súc miệng đi!
Tôi thấy hai giọt nước mắt lăn từ từ xuống má nàng.

        Trong boong tàu , mùi hôi bốc lên nồng nặc, ngột ngạt, khó thở. Hầu như ai cũng  nôn ói rất nhiều nước. Trừ riêng tôi. Yên lặng…Người Sĩ quan Quân y trước mặt tôi lại bắt đầu cúi gầm xuống, tuôn ra toàn nước. Tôi tự nhủ thầm – Lính Không quân chưa đến nỗi tệ! – Nếu có, mình là người sau cùng.
        Người thiếu phụ, bỗng áp sát miệng vào tai tôi thì thào :
        - Em … chết mất! Anh nuôi đứa bé giúp em!
        - Em bị say sóng thôi, hơn nữa em yếu người… Không sao đâu em à.
Hay em ráng ngủ đi một chút cho đở mệt. Tàu vào bến, không còn sóng là em tĩnh ngay thôi!

        Tôi nhìn nàng, rồi đưa tay đón đứa bé trong chiếc khăn lông từ tay nàng trao.; Tôi chẳng nghĩ gì cả… Bỗng chốc sau đó tôi cảm thấy lo sợ vẫn vơ – Hay, đứa bé chịu không nỗi đã chết rồi!  Tôi nhìn đứa bé –mặt mày nhợt nhạt, ghé má vào mũi của nó không có cảm giác hơi thở.
        Tàu vẫn chòng chành lắc lư. Bấy giờ, người thiếu phụ quàng tay qua cổ tôi, cả thân hình nàng như muốn kéo đầu tôi xuống. Một chút tình người dâng ngập lòng tôi. Biết đâu sau này, vợ mình cũng gặp cảnh hoạn nạn như thế ! Chiến tranh đã làm cho vợ chồng, con cái mỗi người một nơi, ai nào lo cho ai được. Thật khốn khổ!

        Hai tay tôi vẫn ôm chầm đứa bé, áp sát vào ngực mình như muốn truyền cho nó một chút hơi ấm. Nàng gục đầu trên bắp vế chân tôi. Tôi hết nhìn đứa bé lại cúi xuống nhìn mặt nàng nhiều lần. Đôi mắt nàng nhắm ghiền, hàng mi dài rủ xuống, hơi thở nhẹ, yếu ớt… Nàng nằm bất động trên chân tôi. Lần này, tôi đưa má thật sát vào mũi đứa bé.Chỉ phơn phớt làn gió nhẹ mong manh. Tôi tự nhủ thầm –Sao đứa bé không khóc, đòi bú vì tàu đã đi được sáu giờ rồi mà?

        Từ xa, hiện ra trên đường chân mây. Đài ra đa Sơn Chà đã lóe sáng dưới ánh mặt trời chiều. Dãy núi Hải -vân vẫn nằm ẩn hiện dưới làn mây phủ kín đỉnh đèo. Tàu kéo còi, tiếng hụ dài từng hồi, mọi người ể oải ngồi dậy.Cửa cảng hai bên dãy núi, từng mõm đá xanh đen, sừng sững, làn nước bạc vỗ về dưới chân. Trời trong xanh, có gió nhẹ, nước biển xanh, những làn sóng nhấp nhô, tấp nập những thuyền đánh cá trở về, không khí trong vịnh dễ chịu hơn.
        Bỗng ruột tôi co thắt lại, hình như có nước dồn lên miệng. Tôi đưa tay định che miệng, tay kia vẫn ôm cứng đứa bé.Nước vụt trào ra, từng ngụm màu vàng rồi dần thẩm đen. Tôi biến sắc nghĩ thầm –Ói cả mật rồi hay sao? Tay chân bủn rủn, tôi gục đầu xuống.
        Tàu cập bến, quang cảnh nhộn nhịp ở bến tàu làm tôi giực mình tĩnh lại.Mọi  người vội vã bước ra khỏi tàu, lảo đảo như muốn ngã. Tôi lay nhẹ người thiếu phụ đang còn gục đầu trên chân tôi.
        - Em …! Dậy đi…Tàu cập bến rồi, đến Đà nẵng rồi em ạ!
        Nàng từ từ mở mắt, ể oải đứng lên theo cánh tay tôi, nhưng toàn thân nàng như muốn đổ nhào xuống. Một lát, tôi đở và dìu nàng ra khỏi tàu. Bước chân chệnh choạng vì ngồi quá lâu trong tàu, nàng nép nát vào thân tôi sợ bị ngã.
        - Em gắng níu thật chặt vào vai tôi nghe! Gắng lên em…
           Tôi dìu nàng ra khỏi bến tàu. Vẫy người xích lô.Nàng vịn vào vai , bước lên xe. Chờ nàng ngồi yên, tôi trao đứa bé cho nàng; không biết nó còn sống hay chết nữa!
          Nàng nhìn tôi, trong ánh mắt dịu dàng thuần hậu. Tôi thốt lên mấy lời ngắn gọn
           - Em có về nhà được không?
Nàng gật đầu. Tôi bảo người xích lô :
            - Anh chở cô ấy về nhà giùm, theo chỉ dẫn của cô ấy nhé!
Rồi rút bút ghi lại địa chỉ vào tờ giấy trong túi trao cho nàng. Lúc này tâm trạng tôi như người say rượu, mệt lã.
             Chiếc xe lăn bánh, nàng quay lại nhìn. Trong tim tôi có một chút gì đó, gợi nhớ, gợi thương khi bắt gặp ánh mắt vụt sáng sau cùng của nàng. Tôi thẫn thờ giây lát rồi vẫy xe về đơn vị.
               Dọc đường tôi nghĩ ngợi miên man – Chẳng biết tên nàng, ở đâu? Suốt quãng hành trình trên biển, truyền cho nhau từng chút hơi ấm…

        Ba ngày sau, tôi nhận được tin báo bằng điện tín :” Cháu bé mất, đã chôn ở nghĩa trang thành phố - Thục Vi”
        Tôi đón xe ra nghĩa trang.Nàng thẫn thờ trong bộ áo quần đen. Trước nấm mộ, đất còn mới, khói hương lan tỏa một vùng. Tôi đặt bó huệ trắng lên ngôi mộ. Đứng cạnh tôi, nàng chậm rãi kể lại :

         “Chồng em chết trong Nội thành khi đánh chiếm cột cờ Phú Văn Lâu  đơn vị đã chôn cất. Em bế con về nhà cha mẹ ruột để tránh bớt những điều đau đớn quá sức chịu đựng, không ngờ…” Nàng ôm mặt khóc, tiếng nấc của nàng  như xé gan, ruột tôi. Tôi cố tìm lời an ủi như người anh trai nói với đứa em gái mình :
-         Mọi việc đã an bài rồi em ạ, trong chiến tranh chuyện mất mát là lẽ thường tình… đau khổ đến với em là đúng. Nhưng thời gian là liều thuốc sẽ chữa lành các vết thương… Anh chỉ xin em một điều là bảo trọng thân mình, em còn trẻ, còn tương lai…

        Tôi dìu nàng đi dưới ánh nắng chiều còn sót lại. Đèn điện hai bên đường vào nghĩa trang đã cháy sáng. Từng bước chân chậm rãi bên nhau… Quyện dài theo mái tóc thề, giải khăn sô bay trong gió… Màn đêm xuống dần, sương bắt đầu rơi lành lạnh…

          Tôi thẫn thờ nhìn lên bầu trời có những vì sao lấp lánh rồi nhủ thầm ”Còn gì đau đớn hơn, khi nhận mình làm góa phụ hai mươi!”

Dak Lak, 21-10-1995
Dzạ Lữ Kiều