Đầu
năm 1966, một ngày vào khoảng giữa trưa, lúc tôi đang làm việc trong
phòng Sản Xuất, đài Phát thanh Sài Gòn, có một anh quân nhân, mặc sắc
phục, lên lầu tìm gặp tôi. Nhìn người khách lạ không quen biết, nhưng
qua phù hiệu của Biệt đoàn Văn nghệ, tôi cũng đoán được đây là một người
thuộc giới văn nghệ. Anh tự giới thiệu anh là nhạc sĩ Anh Bằng. Qua cái
bắt tay thân thiện chào hỏi, anh mở tờ giấy cuộn tròn đang cầm trên tay
- đó là một bản nhạc - đưa tôi xem để nhờ tôi "lancer" giùm. Chữ
"lancer" trong giới nhạc sĩ sáng tác, được coi như là phổ biến.
Tuy không quen với Anh Bằng trước đây, nhưng tôi rất có cảm tình với cái tên Anh Bằng, và ca khúc "Nếu vắng anh"
của anh, viết theo ý thơ của Nguyên Sa, đã được giọng ca tha thiết của
Lệ Thanh gửi vào lòng nhiều thính giả, trong đó có tôi.
"Nếu vắng anh, ai dìu em đi chơi trong chiều lộng gió
Nếu vắng anh, ai đợi chờ em khi sương mờ nẻo phố
Nếu vắng anh, ai đón em khi tan trường về
Kề bóng em ven sông chiếu chiều, gọi tên người yêu..."
Với
cảm tình sẵn có, tôi vui vẻ mời Anh Bằng ngồi để nói chuyện về bài nhạc
mới mà anh đưa tôi xem để nhờ phổ biến. Nơi tôi làm việc được coi như
là nơi gặp mặt của tất cả các anh chị em văn nghệ sĩ, từ các trưởng ban
cho đến các ca sĩ, nhạc sĩ tân cũng như cổ nhạc, các nhạc sĩ sáng tác,
nhạc công, kịch sĩ, thi sĩ... cộng tác với đài phát thanh. Theo một lịch
trình đã định sẵn, các vị trưởng ban tân nhạc, cổ nhạc Trung Nam Bắc,
thoại kịch, ca kịch, các ban thi văn... cùng các nghệ sĩ trong ban của
họ lần luợt đến đài để thu thanh trước những chương trình sắp phát
thanh. Các nghệ sĩ bạn bè đến sớm, trước giờ thu thanh vài mươi phút,
cũng thường đến phòng tôi nói chuyện, hoặc thi thoảng, lúc rỗi rảnh, tôi
cũng bước qua phòng vi âm để trò chuyện đôi câu với anh chị em ca nhạc
sĩ. Vì vậy nên tôi có cơ hội được quen biết tất cả anh chị em nghệ sĩ
cộng tác với đài Phát thanh và việc đưa một sáng tác mới để nhờ ca sĩ
hay trưởng ban "lancer" giùm cũng không khó khăn gì. Vã lại, các ban
nhạc cũng cần những sáng tác mới hay, để thay đổi món ăn, không làm nhàn
chán tai thính giả.
Trở lại bài hát vừa viết xong của Anh Bằng, đó là bài "Hẹn anh đêm nay",
một bài hát rất buồn, viết với âm điệu Si thứ, và là lời nhắn nhủ của
một cô gái gửi cho người yêu là một quân nhân sắp trở ra chiến trường
ngày hôm sau, sau khi hết hạn phép... Tình bạn giữa Anh Bằng và tôi bắt
đầu từ lần gặp gỡ đầu tiên này. Và rồi ngay chiều hôm đó, chúng tôi hẹn
nhau đến nhà Minh Kỳ để tôi giới thiệu Anh Bằng với Minh Kỳ, người tôi
quen biết từ nhiều năm rồi.
Lúc mới bắt đầu biết nhau, chúng tôi
đều có những sáng tác riêng rẻ và cũng được nhiều người biết đến. Minh
Kỳ, người lớn tuổi nhất, đã có những bài như Nha Trang, Nhớ Nha Trang,
Nha Trang chiều mưa, Chị Hằng, Xuân đã về... Anh Bằng đã có Nếu vắng
anh, Lẻ bóng... còn tôi, giới ngưỡng mộ cũng biết tôi qua những ca khúc
Tấm ảnh ngày xưa, Ga chiều, Cánh thiệp hồng, Ngang trái, Tình yêu trả
lại trăng sao... Tuổi tác của chúng tôi xấp xỉ nhau, khuynh hướng sáng
tác cũng gần giống nhau, cho nên chúng tôi dễ kết thân với nhau, và từ
đó đi đến việc thành lập Nhóm Lê Minh Bằng (tức 3 tên Lê Dinh, Minh Kỳ,
Anh Bằng ghép lại), mở lớp nhạc và làm cố vấn cho hãng đĩa Sóng Nhạc của
ông Nguyễn Tất Oanh ít lâu sau.
Anh Bằng, tên thật là Trần An
Bường, sinh năm 1927 (Đinh Mão) tại Ninh Bình. "An Bường" nếu đọc lên
cũng nghe trài trại như "Anh Bằng" và vì vậy anh lấy biệt hiệu là Anh
Bằng, và đó cũng là một sự khôn khéo, ai gọi Anh Bằng, dù lớn tuồi hơn,
cũng phải kêu anh bằng "anh": Anh Bằng. Tính anh rất hiền lành, bãi
buôi, vui vẻ nhưng, so với chúng tôi, anh rất ít nói. Mà những người ít
nói thường hay được lòng của phái nữ. Anh lại có duyên dáng trong lời
nói, cái duyên dáng đáng yêu đó đã bộc lộ trong một số lời ca của anh.
Chúng ta còn nhớ:
"... Từ lâu, tôi biết câu thời gian là thuốc tiên
Đời việc gì đến sẽ đến
Những ai bạc bẽo mình vẫn không đành lòng quên". (Sầu lẻ bóng)
Hoặc như:
"Đời như cánh chim bay ngàn phương
Chia tay rồi đây, mỗi người đi một đường
Chuyện tâm tình thôi đành dở dang,
Siết tay nhau một lần, kết chặt tình bạn thân.
Chúc nhau, nâng ly lần cuối
Cầu mong cho bọn mình tuy xa mà tình chẳng rời
Quên buồn, quên sầu tìm vui mà sống
Nhớ nhau, mỗi năm thu sang về đây ba đứa nghe mưa chiều thu" (Ly cà phê cuối cùng)
Trong
việc giao thiệp hàng ngày, anh cũng thuờng ít xuất hiện và nếu có xuất
hiện cũng thường hay làm thinh và nếu nói thì những lời nói nào anh đưa
ra cũng duyên dáng và vì lẻ đó mà anh rất... đào hoa. Bạn bè thường bảo
rằng anh có duyên ngầm. Vì cái duyên đó mà có rất nhiều cô mến anh,
thích anh và rồi yêu anh, và anh cũng yêu lại người ta, nhưng anh không
bỏ bê gia đình, vẫn chăm lo, săn sóc người vợ anh cưới từ khi chưa di
cư, ở thị trấn Điền Hộ, tỉnh Ninh Bình. Bỏ quê hương, anh cùng gia đình
vào Nam tìm tự do sau hiệp định đình chiến, chia đôi đất nước năm 1954.
Năm 1975, thêm một lần nữa chạy trốn Cộng sản, anh di tản trước cùng cô
con gái nhỏ và những cậu con trai, và vừa khi đủ điều kiện để bảo lãnh
gia đình, anh đã bảo lãnh vợ và con gái qua Mỹ để sống hạnh phúc cho đến
ngày nay. Ở địa hạt tình cảm, Anh Bằng là người trái ngược với Minh Kỳ,
cho nên chúng tôi thường hay nói Anh Bằng là người ướt át nhất và tuy
là người tình cảm mà không mất cảm tình khi vì hoàn cảnh, chia tay với
ai đó bởi vì anh đã "nhắn nhủ" qua bài "Sầu lẻ bóng":
"Người ơi, khi cố quên là khi lòng nhớ thêm...".
Hờn giận người ta thế nào được khi người đó vẫn còn nhớ đến mình.
Trong
vấn đề sáng tác, bộc lộ sự thương yêu qua lời ca tiếng nhạc là chuyện
thông thường của người nhạc sĩ sáng tác, nhưng anh cũng thường hay bộc
lộ sự hờn giận qua nét nhạc và lời ca. Ca khúc "Người thợ săn và đàn chim nhỏ"
của nhóm Lê Minh Bằng, mà chúng tôi ký dưới tên Vương Đức Long, lời ca
do Anh Bằng viết, để nói lên việc đối xử không mấy tốt đẹp - đôi khi hơi
tàn bạo - của một vài cảnh sát viên, tuy nói là bạn dân, nhưng thường
hay có thái độ hằn học, không đẹp với dân chúng, đặc biệt là người xử
dụng công lộ và nhất là những phụ nữ mua gánh bán bưng... Trong óc tưởng
tuợng của anh - người cảnh sát không phải là bạn dân - khi có cây súng
trên tay, như người thợ săn và hà hiếp dân chúng mà anh so sánh như đàn
chim, để rối anh viết lời ca:
"Một người thợ săn âm thầm mang súng lang thang vào rừng
Còn một bầy chim vô tình vẫn hót líu lo đùa chơi
Nào ngờ thợ săn đang cầm cây súng bắn lên cành cây
Chim chết chim lạc bầy..."
Trong
một phút hờn dỗi ông Giám đốc hãng đĩa Sóng Nhạc - hãng đĩa mà anh em
chúng tôi cộng tác - anh có ý nghĩ để lời ca sau đây vào bài "Trở về cát bụi" của nhóm Lê Minh Bằng, coi như lời nhắc nhở ông Nguyễn Tất Oanh trong tư cách đối xử với anh em - qua lời ca - như sau:
"... Sống trên đời này, có đây rồi lại mất
Cuộc sống mong manh, nhắc ai đừng đổi trắng thay đen
Làm người sang giàu, đừng vì bạc tiền bỏ nghĩa anh em..."
Trong
công cuộc làm ăn, đôi khi cũng có những sự hiểu lầm, những vướng mắc
nho nhỏ, cho nên chuyện lủng củng giữa anh em chúng tôi với ông Giám đốc
hãng đĩa Sóng Nhạc cũng không tránh khỏi. Một người hờn giận, không nói
ra mà chỉ bày tỏ bằng lời ca, nhưng ông Sóng Nhạc nào có biết, tuởng
đâu rằng nhóm Lê Minh Bằng viết bài "Trở về cát bụi" không phải để "nhắn
nhủ" mình, mà là một bài ca nghiêng về giáo lý của nhà Phật, cuộc đời
là hư không, khi nhắm mắt không đem theo được gì. Và ca khúc "Trở về cát
bụi", được coi như một "lá thư ngỏ" gửi ông Nguyễn Tất Oanh lại là một
bài hát đem lại cho ông khá nhiều về tài chánh qua số đĩa hát tiêu thụ,
với giọng ca thu đĩa lần đầu tiên của Elvis Phương và sau đó, tiếng hát
của Thế Sơn làm sống lại ca khúc này ở hải ngoại.
Cũng nằm trong ý nghĩï lồng vào bài hát những lời cảnh tỉnh con người, như một bài ngụ ngôn, Anh Bằng có soạn riêng ca khúc "Huynh đệ chi binh"
để - theo lời anh nói - gián tiếp khuyên mấy ông "chóp bu nhà mình"
đừng có xào xáo nhau nữa, mà phải họp sức chung lo chống kẻ thù chung là
CS. Mà thật vậy, sau cuộc đảo chính Tổng thống Ngô Đình Điệm năm 1963,
liên tiếp trong nhiều năm sau, tình hình chính trị miền Nam thật vô cùng
rối ren. Nay đảo chính, mai chỉnh lý và nhất là vào giai đoạn cuối của
đất nước, hai vị Tổng thống và Thủ tướng, đều là người của quân đội, đã
không đoàn kết với nhau mà lại còn hục hặc nhau luôn, cho nên Anh Bằng
mới viết ca khúc "Huynh đệ chi binh", mong rằng sẽ đến tai các ông quan
lớn nhà binh này:
"Huynh đệ chi binh là gì hở anh Hai
Huynh đệ chi binh là..., là... huynh đệ chi binh.
Từ người đơ dèm cùi bắp
Và rồi đi lên thượng cấp đều là huynh đệ chi binh.
Tiến thối có nhau là huynh đệ chi binh
Sướng khó có nhau là huynh đệ chi binh..."
Năm
1979, khi gia đình chúng tôi định cư tại thành phố Montreal được gần 1
năm, Anh Bằng cứ tha thiết bảo tôi bỏ tất cả ở Canada để qua bên Mỹ, tái
lập lại tên Lê Minh Bằng (mặc dù chỉ còn 2 người) với lý do anh muốn
hoạt động lại trong ngành âm nhạc, xuất bản, ra băng đĩa và tổ chức
nhũng chương trình nhạc hội. Anh nói anh ít ăn ít nói, không có tài xã
giao, ít giao thiệp mà chỉ biết có sáng tác thôi cho nên anh muốn tôi
qua để làm cái đầu tàu hoạt động trở lại như ngày trước. Nhưng đi thế
nào được khi mà ở bên này, gia đình chúng tôi cũng đã ổn định được đời
sống một phần nào rồi, vợ chồng tôi đều đã có việc làm, 3 đứa con cũng
đã vào trường... cho nên tôi không làm theo lời yêu cầu của Anh Bằng.
Lúc đó là Anh Bằng đang dùng nhà để xe của anh để làm phòng thu thanh và
đã thực hiện những băng cassette với tên Lê Minh Bằng, để cho Trung tâm
Thanh Lan (Thanh Lan lớn, có cửa hàng băng nhạc ở Bolsa) độc quyền phát
hành, rồi sau đó anh đổi tên nhà sản xuất thành những tên như Sóng
Nhạc, Dạ Lan rồi Asia và những băng cassette này rất được thính giả ái
mộ cho nên thương hiệu của Anh Bằng càng ngày càng phát đạt cho đến khi
chị Anh Bằng và cô con gái Thy Vân qua, anh mới đi đến thực hiện chương
trình sản xuất Video Asia trước kia và DVD Asia bây giờ.
Bước
sang lãnh vực thực hiện Video, với sự góp sức của chị Anh Bằng và Thy
Vân, thương hiệu Asia tiến lên thấy rõ, một phần nhờ lúc đó chưa có
nhiều công ty khác ra cạnh tranh, một phần, Anh Bằng là nhạc sĩ sáng tác
cho nên bài bản chủ lực vẫn trội hơn hết và ngoài ra anh còn có một số
vốn rất phong phú là những sáng tác của Lê Minh Bằng. Công việc của
Trung tâm Asia tiến triển rất khả quan, nhưng từ khi chồng của Thy Vân
là Bạch Đông, người phụ trách kỹ thuật cho Trung tâm Asia ly dị với vợ
và càng ngày tuổi già càng chồng chất, Anh Bằng đã không còn giữ vững
tay lái con thuyền Asia nữa, hay nói một cách khác là Anh Bằng đã dần
dần không còn chủ quyền trong mọi sự xếp đặt của Asia. Cũng từ đó, Anh
Bằng thường hay thố lộ với tôi rằng, tuy anh là người sáng lập ra Trung
tâm Asia nhưng thật ra anh không còn quyền quyết định trong công việc
Asia. Quyền này giờ đây là do cô con gái Thy Vân của anh và những người
cộng tác với Asia. Sáng tác mới anh làm có cả trăm bài, vẫn nằm trong
hộc tủ đó, Asia muốn lấy bài gì cho vào chương trình thì lấy, anh cũng
không chú ý tới.
Viết
đến đây, tôi rất thông cảm những sự khó khăn của những nhạc sĩ mới bước
vào con đường sáng tác, trong việc phổ biến những ca khúc của mình.
Trước năm 1975, muốn phổ biến một sáng tác mới, không quá khó khăn như
bây giờ. Một nhạc phẩm vừa hoàn tất, được một ca sĩ quen biết trình bày
một vài lần trong phòng trà, vũ trường, đại nhạc hội hay trên Đài Phát
thanh Saigon, hoặc đài Quân đội hay tốt hơn hết là đài Truyền hình và,
nếu là bài hay, thì có tiếng vang ngay. Các ông chủ nhà xuất bản nhạc
chạy đua, tìm đến tác giả để hỏi mua bản quyền xuất bản, vì nếu không
mua nhanh thì sẽ có nhà xuất bản khác tranh giành mua trước. Nếu bài
không được hay thì cũng sẽ xuất bản được nhưng chậm hơn vì phải để cho
thính giả có thì giờ thẩm định và cũng phải có thì giờ để cho bài nhạc
ngấm dần vào lòng của thính giả. Phương tiện phổ biến một ca khúc mới
truớc 1975 rất đa dạng, từ đài phát thanh đến đài truyền hình, từ phòng
trà đến vũ trường, đến đại nhạc hội. Còn ngày nay, ở hải ngoại, phương
tiện phổ biến những sáng tác mới chỉ nằm võn vẹn trong tay vài ba trung
tâm mà trung tâm nào cũng đôi ba tháng mới sản xuất được một chương
trình. Hơn nữa, những trung tâm này còn dành chỗ cho một số nhạc sĩ sáng
tác của bè bạn, thân hữu của họ. Thật vậy, việc phổ biến những sáng tác
mới ở hải ngoại vô cùng khó khăn. Có nhiều anh em nhạc sĩ sáng tác mà
tôi quen biết, có nhiều bài rất hay, chỉ thu CD, in ra vài chục đĩa, để
tặng bạn bè và nghe chơi hoặc để làm kỷ niệm thôi, chứ khó mà phổ biến
đến quảng đại quần chúng như trước 1975. Vì vậy, một nhạc sĩ mới nào tìm
được một chỗ đứng dưới mặt trời hải ngoại này thật là đáng khen. Câu
"vạn sự khởi đầu nan" không lúc nào đúng bằng khi đem áp dụng vào trường
hợp này. Thảo nào, trong hơn 30 năm nay, ở hải ngoại, chúng ta chỉ thấy
được có vài ba nhạc sĩ mới, được giới thưởng ngoạn biết tới, nổi tiếng
với chỉ một vài bài. Phương tiện phổ biến hạn chế đến mức tối thiểu như
vậy cho nên khó mà tìm ra được một Lam Phương, một Y Vân, một Trúc
Phương... của giữa thập niên 50 bước qua 60, hay một Trần Thiện Thanh,
một Song Ngọc, một Thanh Sơn... của những thập niên 60, 70. Đáng buồn
cho các nhạc sĩ mới "sinh bất phùng thời", nếu mà Cộng sản miền Bắc
không chiếm miền Nam thì giờ đây, những sáng tác của họ đã vang vang
khắp nơi, từ sông Bến Hải đến mũi Cà Mau.
Sức sáng tác của Anh
Bằng rất sung mãn. Sau khi ra khỏi nước, anh viết riêng một mình những
ca khúc mới mà chúng ta đã nghe và không thể nào quên được như Khúc thụy du (thơ Du Tử Lê), Cõi buồn, Mất nhau mùa Đông,Tango dĩ vãng, rồi ít lâu sau, một loạt bài phổ thơ như Chuyện giàn thiên lý, Hồi chuông xóm đạo, Bướm trắng, Chuyện hoa sim...
Nói về việc phổ thơ - như chúng ta đã biết - trong lãnh vực này, Anh
Bằng là người nhạc sĩ phổ thơ nhiều - nhiều nhưng hay - trong số những
nhạc sĩ thành công trong khuynh hướng này như Phạm Duy (Tiễn em, Áo anh
sứt chỉ đường tà), Văn Phụng (Các anh đi, Một lần cuối), Song Ngọc (Chân
quê). Anh Bằng là người đem nhạc vào thơ rất bền bĩ, trước 1975 cũng
như sau này. Những bài thơ nổi tiếng thời tiền chiến của Nguyễn Bính (Bướm trắng), Hữu Loan (Chuyện hoa sim), Thái Can (Anh biết em đi chẳng trở về), Yên Thao (Chuyện giàn thiên lý), Hồ Dzếnh (Anh còn nợ em)... được Anh Bằng khéo léo diễn tả bằng âm thanh là một chứng minh khả năng phổ thơ của Anh Bằng.
Nói
về sức sáng tác của Anh Bằng, tôi còn nhớ trước 1975, mỗi lần có một
chiến dịch nào do chính phủ đề ra, như "Người cày có ruộng", "Kêu gọi
nhập ngũ", "Tố Cộng" (nói lên sự dã man tàn ác của CS, như pháo kích vào
trường học, liệng lựu đạn vào rạp hát...), "Chiêu hồi" v.v..., tôi cho
Anh Bằng biết hôm trước, hôm sau là anh có ngay một bài hát thuộc loại
chiến dịch, tuyên truyền nhưng không phải là những bài không được thính
giả chú ý. Chẳng hạn những bài viết cho chiến dịch chiêu hồi như Bóng đêm (Em chắp hai tay quỳ gối nguyện cầu, Cầu cho hai đứa mình sống bên nhau...), Đôi bóng (Tình
thương gửi theo gió chiều, nhờ trao đến cho người yêu - Rừng sâu suốt
đêm thâu, người đi đã bao lâu mà không biết tương lai về đâu..."), Nếu hai đứa mình (Nếu hai đứa mình không về cùng chung lối đường, Thì dù trăng sáng cũng là màu trắng khăn tang...), Nhật ký của hai đứa mình (Thức
trắng đêm nay viết lại nhật ký của hai đứa mình...), Nếu ai có hỏi (Nếu
ai có hỏi bao giờ chúng mình gần nhau), Giấc ngủ cô đơn (Nửa đêm nhớ
anh, nằm nghe mưa khóc bên mành)... toàn là những bài viết cho chiến
dịch chiêu hồi, lời nhắn gửi tha thiết của người vợ hiền, của người yêu
nhỏ gửi những người trai lầm đường, lạc lối hãy quay về với yêu thương,
về với người vợ hiền, với đàn con dại, với người yêu bé bỏng - mà phần
nhiều lời ca những bài loại này do Anh Bằng viết - đã mau chóng trở
thành những bài chan chứa tình cảm lứa đôi cho nên sức tiêu thụ rất
mạnh.
Một
khía cạnh khác của vấn đề sáng tác mà chúng ta tìm thấy ở Anh Bằng là
óc hài hước của anh. Tôi còn nhớ, khi còn làm băng cassette, Anh Bằng có
thuê một nhân viên người Mỹ đề dán nhãn, làm hộp băng. Ít lâu sau,
trong một dịp qua Cali thăm Anh Bằng, tôi không thấy anh Mỹ này nữa, tôi
mới hỏi anh thì được anh cho biết là anh đã sa thải người đó vì, theo
lời anh nói, ngày xưa Mỹ nó cho tôi nghỉ việc, bây giờ tôi cho Mỹ nó
nghỉ việc lại. Nhưng tôi biết đó là anh chỉ nói đùa thôi. Trong số nhiều
bài nhạc của ban AVT với Lữ Liên, Vân Sơn và Tuấn Đăng trình bày trên
sân khấu đại nhạc hội trước 1975, có một số bài do Anh Bằng sáng tác.
Không có óc hài hước, khó mà viết được những bài như Tập lái Vespa, Đánh
cờ người v.v...
Những ngày đầu mới tỵ nạn ở Mỹ, Anh Bằng chưa
bắt tay trở lại vào nghề cũ cho nên anh phải bươn chải để lo cho đời
sống của gia đình gồm có 2 cậu con trai và cô con gái nhỏ, tất cả đều
còn ít tuổi, phải trở lại ghế nhà trường. Anh xin được một chỗ làm trong
một hiệu bán dụng cụ sắt thép, được buổi sáng thì buổi chiều, chủ cho
anh nghỉ vì anh bắt đầu bị bệnh lãng tai, chủ nói một đàng, anh làm một
nẻo. Thí nghiệm với vài ba chỗ mới nữa, kết quả, anh cũng chẳng làm được
bao lâu. Càng ngày, bệnh lãng tai của anh trở nên thật trầm trọng hơn,
dù có đi bao nhiêu bác sĩ chuyên khoa về tai mũi họng, dù có máy thật
đắt tiền gắn liền vào tai - được điều chỉnh cho thích hợp với âm sắc và
cường độ của từng giọng nói của mỗi người - nhưng anh chỉ còn nghe được
chừng 10%. Có những sự việc rất buồn cười xảy ra vì việc mất dần khả
năng thính giác của anh. Năm 1990, anh sang Montréal tham dự lễ thành
hôn con gái của tôi, anh đi từ phi trường Los Angeles, dừng ở New York
rồi sang Montréal. Theo như dự định, phi cơ sẽ đến phi trường Dorval
(Montréal) lúc 17:00, tôi lên phi trường lúc 16:30 để đón anh. Chờ đến
17:00 hơn, chẳng thấy bóng anh đâu, dù trên màn hình ghi chuyến bay của
anh đã đến. Đợi thêm 15 phút, rồi nửa tiếng, rồi một tiếng rưỡi nữa, vẫn
không thấy bong dáng anh. Điện thoại về nhà, tôi được bà xã tôi cho
biết là cô con gái của Anh Bằng có gọi qua nói "ba con đi lạc rồi thím
ơi". Thật ra, thay vì ngồi luôn trên phi cơ ở phi trường New York để chờ
đợi tiếp tục đi Montréal, Anh Bằng hỏi ông Mỹ ngồi bên cạnh có phải đây
là Montréal không, và anh bảo khi nghe ông Mỹ này trả lời "Yes" cùng
lúc thấy thiên hạ lần lượt ra khỏi phi cơ, Anh Bằng cũng lụt tụt xuống
theo. Đến khi biết được chuyện nghe lầm thì phi cơ đi Montréal đã bay
lâu rồi. Thành ra đêm đó, Anh Bằng phải ngủ lại New York để chờ chuyến
bay sáng hôm sau, còn tôi lủi thủi trở về nhà, đón khách mà không có
khách. Về đến nhà, tôi được điện thoại của Thy Vân gọi qua cho biết là
ba của cô sẽ đi chuyến bay New York - Montréal vào lúc 9:15 sáng hôm
sau. Cũng may mà đến hôm sau mới là ngày tổ chức lễ thành hôn của con
gái tôi.
Cũng liên quan đến việc mắc bệnh lãng tai này là một
chuyện kể của anh, nghe như một chuyện cười: Thời kỳ anh bị mất khả năng
thính giác là lúc anh vẫn còn lái xe. Một hôm, trên đường đi công
chuyện vềø, cũng vì mắt anh hơi kém, anh vượt đèn đỏ và xe cảnh sát có
đèn chớp đuổi theo phía sau. Anh vẫn phom phom, từ từ và ung dung chạy
hoài, theo đường lên núi để về nhà. Một lát, lại có thêm một chiếc xe
cảnh sát thứ hai cũng chạy phía sau xe trước. Anh vẫn không hay biết gì.
Khi anh lái xe về đến nhà, mở cửa bước ra khỏi xe, anh mới biết phía
sau anh có 2 chiếc xe cảnh sát đuổi theo. Có lẽ cảnh sát nghĩ rằng họ sẽ
phải đối phó với một tay khủng bố dữ dằn lắm thì phải. Cuối cùng, anh
bị mất bằng lái và từ đó, đi đâu anh nhờ đưa cháu ngoại chở đi.
Có
người hỏi bị khiếm khuyết thính giác có ảnh hưởng gì đến việc sáng tác
của anh không? Theo chỗ tôi biết, cũng có trở ngại đôi chút nhưng không
ảnh hưởng gì đến việc sáng tác. Tư tưởng, ý nhạc, hồn nhạc từ óc mà ra,
và theo đó, anh ghi lên giấy. Tay anh ghi một câu nhạc lên giấy là anh
đã có âm điệu câu nhạc này trong đầu, hay nói ngược lại, âm điệu của câu
nhạc mà anh có trong đầu được anh chép lại trên giấy. Một nốt nhạc để
trên giấy, anh đã biết nó cao thấp, trầm bổng, ngắn dài thế nào rồi và
một dòng âm thanh liên tiếp ghi lại trên giấy, anh đã biết nó uyển
chuyễn, du dương, êm đềm, hay hoặc dở thế nào rồi. Còn việc viết lời ca
thì dù lãng tai cũng không bị chi phối gì cả. Bằng cớ là những sáng tác
gần đây như "Khóc mẹ đêm mưa" vẫn trau chuốt, vẫn rất là Anh Bằng, không
có gì để cho chúng ta bảo rằng khiếm khuyết thính giác gây trở ngại cho
việc sáng tác của anh. Chỉ có một điểm trở ngại duy nhất là nếu nhạc
của người khác mà khi cho anh nghe qua CD hay nhìn lên màn ảnh qua DVD
thì anh tiếp nhận chỉ được 10%, nhưng nếu kèm theo cho anh một bài nhạc
in trên giấy, để anh vừa nhìn và vừa nghe bản nhạc - bằng phương pháp
thính thị - nghĩa là vừa phối hợp thị giác với thính giác - thì kết quả
không gì thay đổi, hiệu quả gần như hoàn toàn.
Có nhiều người
cho việc tin tử vi là tin dị đoan, nhưng tử vi không phải là dị đoan -
mà là một khoa học, chúng ta phải công nhận, như nhiều nhà tử vi đã nói -
nếu thầy tử vi học có căn bản, tới nơi tới chốn thì tử vi rất đáng cho
ta lưu ý. Nhiều sự việc nhiệm mầu đã xảy ra thật khó giải thích, liên
quan đến tuổi Thìn, một tuổi mà các thầy tử vi nói là rất tốt trong việc
lấy vợ gả chồng. Người tuổi Thìn đem đến may mắn cho người phối ngẫu,
khiến cho gia đình ăn nên làm ra. Trong phạm vi gia đình (cũng như trong
phạm vi bạn bè), chúng ta chắc cũng đã có chứng kiến sự thành công
trong gia đình mà một trong hai người, vợ hoặc chồng, là người tuổi
Thìn. Gia đình Anh Bằng cũng nằm trong trường hợp này. Từ ngày sang Mỹ,
lúc ban đầu, Anh Bằng cũng lận đận lao đao như đa số người tỵ nạn khác.
Nhưng từ ngày chị Anh Bằng (tuổi Mậu Thìn - 1928) qua Mỹ cùng với cô con
gái lớn, với số vốn nho nhỏ vay mượn của bạn bè, với khả năng sáng tác
của Anh Bằng, cùng với sự phụ sức của tất cả con cái, Anh Bằng đã tiến
lên một bước, lập nên Trung tâm Băng nhạc Asia, một trong vài trung tâm
băng nhạc lớn hiện nay ở hải ngoại. Và cũng ngạc nhiên thay, nếu chúng
ta không tin vào mạng số tuổi Thìn thì cũng phải tin. Chỉ ít lâu sau khi
chị Anh Bằng sang Mỹ đoàn tụ với gia đình thì cô con gái lớn của Anh
Bằng, người coi sóc các chương trình thực hiện băng cassette Dạ Lan
chẳng may qua đời. Nếu không có cô gái út Thy Vân tiếp tục quán xuyến
việc làm ăn của Anh Bằng, khi công việc thực hiện thêm video và DVD Asia
bắt đầu. Và cho đến ngày nay, Thy Vân vẫn là người điều khiển tổng quát
- cùng với Trúc Hồ trong phần vụ giám đốc âm nhạc - Trung tâm băng nhạc
Asia và đã giữ vững uy tín trong nhiều chục năm nay. Trung tâm băng
nhạc Asia được thành hình và bắt đầu đi vào hưng thịnh từ khi Anh Bằng
có người phối ngẫu là chị Anh Bằng nhúng tay vào.
Tôi bắt đầu
cho ra nguyệt san Nghệ Thuật từ tháng 4-1994. Trong 3 năm đầu, thường bị
lỗ lã, mỗi tháng phải lấy thêm tiền nhà để châm vô mới có đủ trả tiền
nhà in, mặc dù những người cộng tác không có chút thù lao nào. Đã biết
lỗ nhưng không hiểu sao tôi vẫn tiếp tục làm, âu đó cũng là cái nghiệp,
nghiệp văn nghệ. Đến tháng 3 năm 1999, trong một chuyến qua thăm Anh
Bằng, anh có nhã ý đề nghị ủng hộ Nghệ Thuật tấm hình bìa và nhờ vậy mà
Nghệ Thuật kéo dài sự sống được cho đến tháng 4-2007, thời điểm mà tôi
thấy đã quá mệt mỏi sau 13 năm làm báo cho nên tôi quyết định đình bản
tờ Nghệ Thuật. Trong 8 năm sau của tờ Nghệ Thuật, nhờ có sự yểm trợ của
Asia cho nên khỏi phải bù đắp tiền nhà, nếu không thì Nghệ Thuật chắc
cũng phải chết dở sống dở. Nghệ Thuật nhớ mãi sự ủng hộ của một người
bạn cũ, trước sau vẫn nhớ đến anh em, mặc dù xa mặt nhưng không cách
lòng.
Anh
Bằng là một con chiên rất ngoan đạo. Ngày trước, khi anh còn khỏe, khi
thính giác anh chưa có vấn đề, anh thường hay sang Montréal thăm gia
đình chúng tôi. Mỗi bận ghé qua Montréal là anh yêu cầu tôi chở anh đi
viếng một thánh đường rất nổi tiếng nằm trên sườn phía Bắc của một ngọn
núi nhỏ có tên là Mont Royal của thành phố Montréal, đó là thánh đường
St-Joseph. Du khách nào đến thành phố Montréal mà chưa viếng thăm thánh
đường St-Joseph, có thể coi như chưa đến Montréal. Lên đến tận đỉnh cao
của thánh đường, Anh Bằng xem rất sung sức, anh dừng lại ở tầng có mộ
ông thánh St André, đốt đèn cầu nguyện ở bàn thờ các thánh rồi mới ra
về. Nếu tôi không đưa anh đi viếng thánh đường Saint Joseph thì cũng
phải đưa anh đến một nhà thờ nào đó gần nhà, để anh cầu nguyện.
Nhạc Sĩ Anh Bằng-Lê Dinh
Một
người sinh trưởng nơi một thị trấn nhỏ ở tận miền Bắc, có tên là Điền
Hộ, thuộc tỉnh Ninh Bình, một người sinh trưởng ở cuối miền Nam nước
Việt, một làng bé nhỏ có tên là Vĩnh Hựu, thuộc tỉnh Cò Công, những tên
thị trấn, tên làng xã mà chúng ta chưa chắc tìm được trên bản đồ, hai
người cách biệt nhau 7 tuổi, ở hai đầu non nước, thế mà gặp nhau và trở
thành những người bạn văn nghệ. Đó là gì, nếu không phải là duyên và cái
căn duyên này đưa đến việc hình thành một tình bạn tương thức. Nếu vào
ngày đầu năm 1966 đó mà Anh Bằng không tìm đến gặp tôi thì sẽ không có
nhóm Lê Minh Bằng, sẽ không có ca khúc Đêm nguyện cầu, hay Linh hồn
tượng đá, hay Truyện tình Lan và Điệp để lại hậu thế. Nếu không có
chuyện "hữu duyên thiên lý năng tương ngộ" đó, chúng tôi, Lê Dinh, Minh
Kỳ và Anh Bằng vẫn là những đồng nghiệp thông thường, coi nhau như bao
nhiêu thân hữu thông thường khác, không có sự gắn bó của một nhóm khăng
khít, không có tình bạn đồng tâm thắm thiết, tri âm, tri kỷ.
Lê Dinh - Tháng 04/2008