Quá khứ dù
có buồn thảm đến đâu, dù có hận thù thế nào, thì vẫn là lịch sử. Mà lịch sử thì
cần phải ghi nhận một cách trung thực và đứng đắn. Cần phải lưu giữ và lại càng
phải lưu truyền. Kẻ nào không tôn trọng hay cố tình làm sai lạc, chắc chắn
sẽ có tội với giống nòi và quê hương, tổ quốc.
Tháng Tư, 1985, kỷ niệm 10 năm ngày Sài Gòn rơi vào tay Cộng Sản. Truyền thông
Mỹ sửa soạn rầm rộ để thực hiện các phóng sự, cùng những cuộc phỏng vấn hầu ghi
lại một khúc quanh lịch sử khó quên của đất nước và quân đội Hoa Kỳ trong cuộc
chiến Việt Nam. Trên đường lái xe đến sở làm, suốt những tuần lễ đó, lúc nào mở
radio lên tôi cũng đều nghe được các lời phân tích cũng như nhận định về chính
sách cùng đường lối của người Mỹ khi họ quyết định đưa quân vào để bảo vệ miền
Nam VN. Ngoài những lời phát biểu chua cay của một số cựu viên chức chính quyền
thời tổng thống Nixon và Ford, còn thì hầu hết đều là những câu trả lời ngớ
ngẩn và không chính xác. Thì ra, chỉ mới có một thập niên mà người ta đã quên
đi tất cả? Quên hay không muốn để ý tới, đối với tôi lúc đó đều có ý nghĩa như
nhau.
Là một người cố vấn về di trú và tỵ nạn của cơ quan thiện nguyện USCC thời bấy
giờ, tôi được mời vào thuyết trình về đề tài “Người Tỵ Nạn VN” tại một lớp học
của trường UCLA. Trước khi bắt đầu câu chuyện tôi đưa ra ba câu hỏi để thăm dò
xem trình độ hiểu biết của các sinh viên về vấn đề VN vào thời điểm đó cũng như
trước năm 1975.
Câu hỏi đầu tiên là “có bao nhiêu bạn sinh viên trong lớp học này biết người Mỹ
có tham dự vào chiến tranh VN?”. Hầu hết cả lớp đều giơ tay lên. Nhưng khi tôi
hỏi vậy nước Mỹ ủng hộ miền Bắc hay Nam VN, thì tất cả đều ngơ ngác, chỉ còn có
hai người đưa tay xin trả lời. Một nói rằng Mỹ ủng hộ quân đội miền Bắc, còn
sinh viên kia thì nói người Mỹ chống cả hai!
Câu hỏi kế tiếp “có bao nhiêu bạn biết được lý do về sự hiện diện của người tỵ
nạn VN trên đất Mỹ hiện nay?” Có 6 người giơ tay tình nguyện trả lời, nhưng chỉ
có một dùng chữ tỵ nạn (refugee) còn 5 sinh viên kia thì cho là người Việt đến
HK vì muốn tìm một cuộc sống tốt đẹp hơn (looking for a better life), người
khác thì bảo cũng như các di dân từ Mễ Tây Cơ muốn trốn vào nước Mỹ mà thôi. Ba
em kia trả lời giống nhau rằng, cha mẹ các em cho biết, đa số người Việt sống ở
Mỹ một cách bất hợp lệ!
Cả lớp học gần 30 sinh viên, mà chỉ có một người biết dân VN đến HK vì lý do tỵ
nạn. Vậy thì làm sao mà họ có thể hiểu nổi những đắng cay, chua xót của một
khối người đã phải chấp nhận bao hiểm nguy, trăm ngàn tủi nhục, bỏ lại sau lưng
gia đình và quê hương để tìm hai chữ Tự Do. Hai chữ Tự Do đánh vần thật giản
dị, và lúc nào cũng lai láng trên các miền đất hứa. Nhưng nó là những gì thiêng
liêng, cao quý nhất mà hàng triệu người Việt đang phải trả giá bằng nước mắt,
bằng máu xương, và bằng thân xác họ. Dù đó là người vượt thoát vào thời điểm
khi Sài Gòn vừa thất thủ, hay lang thang qua rừng già, núi thẳm, hoặc lênh đênh
trên biển khơi. Mười năm trước đây (1975), thời gian lúc đó (1985) hay mười
năm, hai mươi năm sau nữa, nếu Cộng Sản vẫn còn ngự trị trên quê hương đất
nước, thì người Việt cũng sẽ tiếp tục bỏ nước ra đi!
Dư âm của buổi thuyết trình tại trường đại học UCLA đã dằn vặt tôi cả hơn một
tuần lễ, nhưng đó chính là những dữ kiện thai nghén để tôi cho ra đời nhạc phẩm
“Xin Đời Một Nụ Cười”, đúng một tuần lễ trước ngày kỷ niệm 10 năm mất nước. Tôi
có nhờ anh Ngô Trí Thịnh, một giáo sư Anh ngữ dịch ngay sang tiếng Anh để đài
truyền hình CBS sử dụng trong buổi phỏng vấn chị Kiều Chinh cùng hai người tỵ
nạn Cao Miên và Lào. Nhưng tiếc rằng đến khi chương trình CBS được phát hình họ
chỉ dùng phần nhạc, nên khán giả theo dõi cũng chẳng biết ý nghĩa của bài hát.
Tôi còn nhớ câu nói cay đắng của chị Kiều Chinh lúc đó, chị bảo: “Tức quá, phải
chi mình có một quyển sách Anh ngữ viết về người tỵ nạn VN liệng vào mặt tụi
nó, để họ biết tại sao mình phải mang kiếp sống lưu vong”! Tôi chỉ biết nắm tay
và nhìn lên đôi mắt buồn diệu vợi của chị.
Ngày 23 tháng 10, 2002, tôi nhận được lời mời của một giáo sư đại học luật
khoa, ông Donald Kerwin mời tôi đến nói chuyện với các sinh viên trong một lớp
học tại trường đại học Georgetown University ở Hoa Thịnh Đốn với khoảng hơn 30
sinh viên, đặc biệt là có một em người VN. Cô cho biết đã theo cha mẹ vượt biển
tỵ nạn và sang HK định cư vào khoảng giữa thập niên 1980, lúc cô vừa được 1
tuổi. Tôi hỏi em là có bao giờ chia sẻ câu chuyện nhọc nhằn của thuyền nhân VN
cho các bạn đồng lớp được biết hay không? Em trả lời’: “chính em còn không biết
rõ cuộc hành trình đó gian khổ ra sao”! Thỉnh thoảng xem TV hoặc báo chí cô có
tò mò hỏi cha mẹ về chuyện này, nhưng mẹ đều trả lời là “chuyện dài lắm, kể
không hết, thôi lo học đi, để khi khác”. Nhưng theo em thì dường như có điều gì
mà mẹ không muốn nói, “hoặc cũng có thể vì cháu không nói rành tiếng Việt, mà
mẹ thì không nói giỏi tiếng Anh nên câu chuyện chẳng bao giờ được bắt đầu”! Tôi
chợt nhớ lại câu nói của chị Kiều Chinh gần 20 năm về trước, và nói thầm trong
bụng là: “tức quá, phải chi mình có một quyển sách Anh ngữ viết về ‘Vietnamese
Boat People’ liệng vào tay cô bé, để nó biết thế nào là thân phận của một gia
đình thuyền nhân, cùng những gì mà họ đã phải trải qua trên đường tìm tự
do”!
Nhưng chắc chắn không thể là một quyển, vì có thể hàng chục ngàn em như cô bé
“thuyền nhân” nói trên đã quên hay không biết đến ý nghĩa của những chuyến đi
“tìm chết, để sống” mà người tỵ nạn VN đã phải trải qua.
Tháng Tư 2005, kỷ niệm 30 năm tỵ nạn. Trung tâm Thúy Nga thu hình DVD “30 Năm
Viễn Xứ” và phổ biến nhạc phẩm “Xin Đời Một Nụ Cười” của tôi qua ba giọng hát
Khánh Ly, Trần Thái Hòa, và Thế Sơn. Chỉ chưa đầy một tháng sau ngày phát
hành, thì trên số báo ra ngày 21, tháng 5, 2005, tờ Công An Thành Phố, qua một
bài viết ký tên Phương Liên đã diễn tả (trích nguyên văn) “Quê hương không bao
giờ chối bỏ bất cứ ai, kể cả những người vượt biên đã tự động rời bỏ quê
mẹ, nhưng đã được lý giải rất lệch lạc, rằng không thể sống ở đất mẹ mà
buộc phải bỏ đi như bài ‘Xin Đời Một Nụ Cười’ .... bài hát này đã cố tình tô vẽ
và biện minh cho sự ra đi, trốn chạy khỏi đất nước của những kẻ phản quốc là
đúng đắn, ca ngợi những vùng đất nơi xứ người là mảnh đất của Tự Do ...”
30 năm sau báo chí nhà nước vẫn gọi những người ra đi là “kẻ phản quốc”. bài
“Xin Đời Một Nụ Cười” tôi viết năm 1985, khi cao trào vượt biển lên cao, khi mà
“đất mẹ không chối bỏ một ai”, nhưng lại bắt hết đám “sĩ quan ngụy” vào tù, còn
người miền Nam thì đi vùng kinh tế mới. Nhà cửa bị tịch thu, nên “không sống ở
đất mẹ, mà buộc phải bỏ đi”, tôi không nghĩ đó là những lý giải lệch lạc. Tôi
đố tác giả bài báo trích từng câu trong ca khúc “Xin Đời Một Nụ Cười” và tìm
được tôi sai ở chỗ nào? Nhưng tiếc rằng chuyện đó sẽ không bao giờ xẩy ra với
chế độ thông tin một chiều như ở VN hiện nay. Nhà nước CS chỉ lợi dụng quyền tự
do báo chí ở hải ngoại phổ biến bừa bãi, để kết tội và vu khống. Trong khi đó
thì lại bưng bít những tin tức từ nước ngoài gởi về quốc nội.
Ngày 18 tháng 9, 2006, trên tờ Công An Thành Phố HCM, đã phổ biến một bài báo
ký tên Phúc Huy, “chửi rủa” thậm tệ nhạc sĩ Việt Dzũng, có một đoạn nói về
thuyền nhân tỵ nạn VN như sau (trích nguyên văn) “Việt Dzũng sáng tác, trình
bầy hàng loạt ca khúc phản động như Kinh Tị Nạn, Lưu Vong Khúc .... để kích
động nạn vượt biên trái phép. Nhiều người đã bỏ mình trên biển cả hoặc bị hải
tặc cướp bóc, hãm hiếp, chịu đau đớn cả đời, gia đình tan nát cũng vì tin theo
những luận điệu xuyên tạc như thế...”
Nếu CSVN thực tâm muốn tìm hiểu chuyện này thì thử làm một cuộc thăm dò ý kiến
để xem trong số gần một triệu thuyền nhân, có bao nhiêu người vì nghe nhạc của
ông Việt Dzũng “xúi dục” mà xuống thuyền đi tỵ nạn? Hãy tạm bỏ ra ngoài những
phán quyết về tư cách của các bài báo nói trên. Vấn đề đặt ra ở đây là liệu các
thế hệ sau có hiểu được lý do và ý nghĩa của cuộc tìm kiếm tự do vĩ đại nhất
trong lịch sử dân tộc VN hay không? Liệu những người dân hoặc thế hệ trẻ ở
trong nước, nếu không được giải thích, họ có bị ảnh hưởng bởi những bài báo
đang cố tình bóp mép và xuyên tạc lịch sử hay không? Làm sao để cho người bản
xứ, đặc biệt là các sinh viên đại học ở HK hoặc các nước tự do khác có được
những tài liệu chính xác để đối chiếu với lịch sử cận đại về cuộc hành trình
tìm tự do đầy bi hùng của một dân tộc không chấp nhận chế độ Cộng Sản? Chắc
chắn không có gì trung thực hơn bằng chính lời tự thuật của những người trong
cuộc, bằng các nhân chứng sống và bằng tiếng nói chân thành từ trái tim của một
con người VN đích thực với tấm lòng nhân bản. Những câu chuyện “Viết Về Nước
Mỹ”, “Chuyện Tù Cải Tạo”, “Hành Trình Biển Đông”, “Người Thương Binh VNCH”
v..v.., sẽ là những câu trả lời chính xác nhất. Và đó cũng là lý do mà tôi hết
lòng hỗ trợ tập sách “Hành Trình Thuyền Nhân” của tác giả Ngụy Vũ cũng như việc
làm của bất cứ ai đang có những nỗ lực sưu tầm, dịch thuật, phổ biến và gìn giữ
những tài liệu cùng các tác phẩm văn học, nghệ thuật cho đời ta và cho đời sau.
Quá khứ dù có buồn thảm đến đâu, dù có hận thù thế nào, thì vẫn là lịch sử. Mà
lịch sử thì cần phải ghi nhận một cách trung thực và đứng đắn. Cần phải lưu giữ
và lại càng phải lưu truyền. Kẻ nào không tôn trọng hay cố tình làm sai lạc,
chắc chắn sẽ có tội với giống nòi và quê hương, tổ quốc.
(Nam Lộc)
XIN ĐỜI MỘT NỤ CƯỜI
(Return Life A Smile)
Nhạc và lời: Nam Lộc
Tôi bước đi, khi Saigon trong cơn hấp hối,
Như một người tình phụ thở hơi cuối cùng.
Tôi bước đi, Tân Sơn Nhất lửa khói ngập trời,
Khu thương xá cửa khép cuộc đời,
Những con tầu ngơ ngác ra khơi.
Tôi bước đi, qua đường rừng chông gai tăm tối,
Như cuộc đời ở lại từ khi mất người
Tôi bước đi, như con rết lê lết cuộc đời,
Như thân bướm đôi cánh rã rời,
Lấy u sầu che dấu tả tơi.
Tự do ơi tự do! Tôi trả bằng nước mắt.
Tự do hỡi tự do! Anh trao bằng máu xương.
Tự do ơi tự do! Em đổi bằng thân xác.
Vì hai chữ tự do, ta mang đời lưu vong.
Tôi nép thân trên mảnh thuyền mong manh sương gió,
Như một người tìm đường về nơi đáy mồ.
Tôi bước đi, vì không muốn làm kẻ tội đồ.
Vì tôi muốn lại kiếp con người,
Muốn cuộc đời còn có những nụ cười