Trời, già Hy
chơi kỳ, sao lại bay lúc nửa đêm, lúc bạn bè ông đang theo đuổi những giấc mộng
nhập nhoạng của riêng mình, sao cứ lẳng lặng không thèm e hèm kêu ê nhỏ Tư, ta
đi trước à nghen. Trong đầu chỉ nghĩ mỗi ý nghĩ đó, lúc hay tin ông Tư mất.
Hết cơn choáng
váng, nghĩ lại, đi kiểu vậy mới đúng điệu già Hy, giống y mấy chục năm trước,
bạn nói “đi chỗ khác chơi” là đi một nước, bỏ chốn eo sèo về vườn nghe bẹ dừa
rụng ngó bông cau rơi. Từ chối tới lui chỗ văn giới hội hè, mà ông gọi là “bẹo
hình bẹo dạng” .
Và giờ, thêm
một lần nữa ông Tư sống đúng như chữ của mình, quyết liệt hơn, đi chơi trời
khác. Cho đến cuối cùng, ông Tư cũng thuyết phục được nhiều bạn đọc, rằng có
những nhà văn (ít thôi), chữ là người. Và ông cũng giữ đúng giao kèo với tôi,
thấy vắng tức là đã đi, khỏi dựa cửa ngó theo, khỏi vẫy tay ngậm ngùi, kiểu mà
tôi kêu ớn.
Với tôi, có quý
ông Tư cỡ nào, có giả bộ quên sống chết lẽ thường, thì mỗi lần thăm thấy bạn
yếu đi, giọng nói khó nghe dần, không thể lần vách ra bàn trà đặt ngoài chái để
ngồi chơi, khách đều nghĩ đến ngày ông bay, và từ giã lần này có khi lần chót,
dù lần nào ông cũng rủ, “ê nhỏ, lần sau ghé chơi”. Lời hẹn mà lần đầu nghe tôi
đã phì cười “ông già tám mấy tuổi mà tự tin hết sức”.
Từ buổi ấy tới
giờ cũng gần mười lăm năm, nghĩa là có quá nhiều thời gian để tôi và ông Tư có
những cuộc giã từ tử tế, mà không thấy ấm ức khi một trong hai rời đi. Những gì
cần nói, đã nói. Kể cả đem cái chết ra cà rỡn, kiểu như “chừng chú ra vườn, mấy
anh đạo tì rinh khoẻ re, nhẹ quá mà”. Chữ nhẹ đa nghĩa, thân xác nhẹ như
chiếc bình đựng một tâm hồn cũng nhẹ tênh, không bị danh lợi, tham vọng níu
ghì. Chỉ chữ nghĩa nằm trong những sách kia thì nặng, và chúng thì ở lại, xa
thân.
Chuyến đi này
của ông Tư, tôi coi như một người bạn sắp dọn ở chỗ xa chắc lâu lắm mới gặp lại
(chắc chắn sẽ gặp lại, tin vậy). Mà chúng tôi cũng đã dặn nhau rồi, không gọi
điện nói chuyện, không ghé thăm cũng không có nghĩa là không nhớ tới nhau. Quy
tắc này, ứng vô người âm kẻ dương vẫn hợp. Tiếc, là tiếc ông viết ít quá, để
lại chỉ vài ba cuốn sách, đọc không đã. Mà miền tây kiếm đâu ra kiểu văn thuỷ
tinh ấy, tồn tại qua nửa thế kỷ vẫn sáng và sang. Hồi ông Ba Chim Trắng còn
sống, ông bảo con Tư phải làm mọi cách bắt ông Tư đem bản thảo hồi xưa ra,
“thằng chả còn giữ, nhưng giấu”. Nhiệm vụ ông Ba giao tôi không hoàn thành.
Nhưng hai ông chơi với nhau lâu năm, chắc ông Ba sẽ hiểu bạn mình, không khoe
tác phẩm (nếu chưa thất lạc sau mấy bận chuyển nhà), chắc phải có lý do, nhất
là bạn ông Ba lại là người chưa bao giờ dễ dãi, chưa bao giờ thôi nghiêm cẩn
với chữ.
Ờ, mà bây giờ
có khi hai ông đã gặp nhau, đang ngồi cạnh tôi mà tội nghiệp cho con nhỏ vẫn
còn lặn ngụp trong mớ chữ mớ đời.
Nguyễn Ngọc Tư